Nguyễn Quốc Trụ
Những
ngày Trịnh Công Sơn
Tôi biết Trịnh Công Sơn khi anh chưa nổi tiếng,
và qua Nguyễn Đ́nh Toàn, tại một bàn cà phê ở quán Cái Chùa, đường
Tự Do, Sài G̣n. Nói chưa nổi tiếng, là đối với đa số công chúng
thưởng ngoạn. Cùng với đà cuộc chiến leo thang, người dân miền nam
ngày càng thấm nhạc của anh.
Anh ngồi chung bàn với Toàn và tôi, nhưng cứ chốc chốc lại có một
anh bạn trẻ nào đó, từ một bàn nào đó, tạt qua bàn, chỉ để nói
chuyện hoặc hỏi thăm anh, và thường là về Huế, và cứ mỗi lần như vậy,
anh đổi giọng nói. Khi nói với hai đứa chúng tôi, anh dùng giọng bắc.
Toàn lúc đó phụ trách chương tŕnh nhạc chủ đề trên đài phát thanh
Sài G̣n, và hai người h́nh như có hẹn gặp nhau tại quán, ấy là tôi
suy đoán ra như vậy. Thời gian này, tôi chưa để ư đến nhạc Trịnh
Công Sơn. Nói rơ hơn, nó chưa thấm vào tôi.
Phải tới khi đứa em trai mất, tới lượt tôi vào Trung Tâm Ba Quang
Trung, trong những đêm cận Tết, nằm trên chiếc giường sắt lạnh lẽo,
một anh chàng nào đó, chắc là quá nhớ bồ, cứ thế huưt sáo bài
T́nh
Nhớ gần như suốt đêm, thế là tiếng nhạc bám riết lấy tôi, rứt không
ra… Lúc này, tiếng nhạc của anh, đối với riêng tôi, qua lần gặp gỡ
trên, như trút hết những âm tiết địa phương, và trở thành tiếng nói
chung của cả miền nam, tức là của cả thế giới, vào thời điểm đó, khi
cùng nói: hăy yêu nhau thay v́ giết nhau. Bởi v́ chưa bao giờ, và
chẳng bao giờ miền nam chấp nhận cuộc chiến đó. Chính v́ vậy, họ
lănh đạm với chính quyền, ưu ái với miền bắc, v́ họ đều tin một điều,
miền bắc sẽ kết thúc cuộc chiến, và người Mỹ sẽ ra đi. Như cả nhân
loại tiến bộ, họ chỉ có thể tiên đoán đến đó. Nhạc Trịnh Công Sơn
nói lên tiếng nói đó. Tính phản chiến của nhạc của anh, chính là
tính phản chiến của cả một miền đất.
Và cũng như cả nhân loại tiến bộ, chỉ tới sau ṿng tay lớn ră ra,
Trịnh Công Sơn mới hiểu. Một bạn văn của người viết, c̣n ở lại Sài
G̣n, nhân lần gặp gỡ tại xứ người, đă kể chuyện, sau "giải phóng",
có thời gian Trịnh Công Sơn bị Cộng Sản địa phương làm khó dễ, anh
phải vô Sài G̣n, và có than thở với anh bạn văn kể trên. Anh nói,
th́ cứ dzô đây, ǵ th́ ǵ, chắc cũng dễ thở hơn.
Sài G̣n cưu mang Trịnh Công Sơn không phải chỉ lần đó. Theo như tôi
được biết, những ngày cuộc chiến dữ dội, trong khi chúng tôi cứ thế
theo nhau lên Trung Tâm Ba, Trịnh Công Sơn may mắn đă được đại tá
không quân Lưu Kim Cương che chở. Trong số những quân cảnh tại thành
phố, có người chỉ mong cơ hội "chộp" được Trịnh Công Sơn!
Đại tá Lưu Kim Cương tử trận trong biến cố Mậu Thân, khi bảo vệ ṿng
đai phi trường Tân Sơn Nhất.
Riêng tôi, tôi mong được như anh: được chết tại Sài G̣n.
Xin vĩnh biệt.
Một giấc mơ không được mơ bởi bất cứ một ai.
"Trong những đêm chập chờn mất ngủ hồn thiêng thành phố thức giấc ở
trong tôi…", bao nhiêu năm, tôi cứ tự hỏi đi hỏi lại chính ḿnh,
liệu những ngày tháng đó có thực không, nếu thiếu tiếng huưt sáo bài
"T́nh Nhớ" của một anh chàng nhớ quá quắt người yêu, một đêm xa
thành phố, trên một chiếc giuờng sắt lạnh lẽo, tại một trung tâm
tuyển mộ nhập ngũ?
Và một Trịnh Công Sơn chưa từng trải qua một ngày "quân vụ", có cảm
nhận ra nỗi đau này không? Và sau này, khi có dịp đi nước ngoài,
Trịnh Công Sơn đă ở lại, một phần là do ông đă cảm thấy trong cuộc
đời của ḿnh, thiếu… "một ngày quân vụ"?
Trước 1975, miền nam có chế độ đăi ngộ những người có học. Những học
sinh giỏi, đậu bằng cấp cao được cho đi du học. Không hiểu khi Trịnh
Công Sơn đậu tú tài Pháp, gia đ́nh tính cho đi du học, là nhằm tránh
cho Sơn khỏi tham gia vào cuộc chiến mà chắc chắn chẳng gia đ́nh nào
muốn cho con em ḿnh tham gia? Và đây có lẽ là 'bước ngoặt vĩ đại'
trong cuộc đời của ông: được ở lại, cho dù như một người ngoại cuộc,
bên cạnh một cuộc chiến?
Theo như tin tức báo chí, vào năm 2000, ông đă tuyên bố: Việt Nam
chỉ là sân banh cho các siêu cường chơi nhau, bằng những xác chết
hai lần, chẳng làm ǵ có cuộc kháng chiến thần thánh chống Mỹ cứu
nước, thống nhất hai miền.
Giả dụ, nếu ông được sống thêm một lần đời, sống lại cuộc chiến, ông
sẽ… tham dự?
Giả dụ, ông được đi du học, và chắc chắn, sẽ nhập vào đám du học
sinh ưu tú của miền nam, lên tiếng chống đối chiến tranh Việt Nam…
và như vậy, liệu ông có nhận ra sự thực, Việt Nam chỉ là sân banh…?
Bởi v́, cho tới nay, chưa hề có một người miền nam, được đi du học
trong những ngày Trịnh Công Sơn đó, lên tiếng nói rằng, tôi đă lầm,
như Trịnh Công Sơn, hay Jane Fonda… Tại sao sự ĺ lợm đó?
Bởi v́, những người thù ghét cay đắng chế độ miền nam, tức cười thay,
lại trong số những người được chế độ đó đăi ngộ!
"Tôi đă phạm cái tội tồi tệ nhất mà một người đàn ông có thể phạm,
trong mọi thứ tội: Tôi đă không hạnh phúc"
(I have committed the worst sin of all/That a man can commit. I have
not been/happy…." Borges, "Remorse")
Cái tội tồi tệ nhất, h́nh như Trịnh Công Sơn đă phạm. Hăy nghe nhạc
của ông: không hề có một cuộc t́nh nào đến nơi đến chốn, "từ lúc đưa
em về là biết xa ngàn trùng… trời bên nhà chồng có xanh không em?
Ngày bên ấy có vui không em (thi/nhạc sĩ không hỏi, đêm có vui hay
không, v́ như vậy…. thảm quá!).
Nhạc Trịnh Công Sơn và câu nói của Auden: Làm sao thi sĩ ngăn cấm
thiên hạ lợi dụng thơ của ḿnh làm tṛ phù thuỷ. Tính ma quái trong
nhạc Trịnh Công Sơn đă được con quỉ chiến tranh lợi dụng?
He did not want to compose another Quixote – which is easy – but the
Quixote itself. (Borges: Pierre Menard: Tác giả "The Quixote").
Trong nhạc Trịnh Công Sơn, có một điều ǵ thê thảm, và là đặc trưng
của "cuộc chiến chính nó" - the war itself - người chết hai lần,
người phu quét đường dừng chổi đứng nghe... Những ngày Trịnh Công
Sơn, với riêng tôi, là những ngày ở Sài G̣n, thời kỳ Mậu Thân.
There was no one in him: behind his face (which even through the bad
paintings of those times resembles no other) and his words, which
were copious, fantastic and stormy, there was a bit of coldness, a
dream dreamt by no one. (Borges, Everything and nothing).
A dream dreamt by no one: Giấc mơ chẳng ai mớ: Hiện thực Miền Nam
những ngày sau 1975?
La seule personne qui ai encore une vie privée en Allemagne est
celle qui dort. (Người độc nhất c̣n có một đời sống riêng tại Đức là
một người đang ngủ.) Steiner trích dẫn câu nói của Robert Ley, một
ít lâu sau khi Nazi lên nắm quyền, trong L’historicité des rêves
(Passions inpunies, p.242). Và Steiner giải thích thêm: Tới một điểm
nào đó, những bến cảng an toàn, ngầm chống lại cơi ghê tởm là chủ
nghĩa toàn trị, là ở trong những giấc mơ, [trong khi ngủ, lẽ dĩ
nhiên].
Cá nhân độc nhất c̣n thức sau 1975 tại Việt Nam: Trịnh Công Sơn? Và
để chống lại cơn mất ngủ, ông dùng rượu? Và ông t́m thấy những bến
cảng an toàn ở trong đó?
Nỗi chết không rời.
"Trong những đêm chập chờn mất ngủ hồn thiêng thành phố thức giấc ở
trong tôi…", bao nhiêu năm, tôi cứ hỏi đi hỏi lại chính ḿnh, liệu
những ngày tháng đó có thực không nếu thiếu tiếng huưt sáo bài "T́nh
Nhớ", của một anh chàng nhớ quay quắt người yêu, một đêm xa thành
phố, trên một chiếc giuờng sắt lạnh lẽo, tại một trung tâm tuyển mộ
nhập ngũ…?
Hay đó chính là nỗi cô đơn của tôi, phát ra thành âm điệu?
Kẻ nào t́m cách mầy ṃ quá khứ "như bờ xa nước cạn, đă ch́m vào cơn
mưa", của chính ḿnh, phải xử sự như một tay đào huyệt. Kỷ niệm,
giọng điệu của chúng, đích thực, là nhờ vậy. Đừng sợ cứ đào bới măi
một chỗ…
(Mô phỏng Walter Benjamin: Qui cherche à s’approcher de son propre
passé enseveli doit se comporter comme un homme qui creuse. Cela
détermine le ton, l’allure des souvernirs authentiques. Ils ne
doivent pas craindre de revenir tourjours à un seul et même état de
fait; le pelleter comme de la terre, le retourner comme le Royaume
terrestre. Écrits autobiographiques)
Măi một chỗ, Sài G̣n. Măi những ngày, Mậu Thân. Trung Tâm Ba Quang
Trung. Cái giuờng sắt lạnh lẽo những ngày cận Tết. Măi một Vương
Quốc Trên Trái Đất: Miền Nam. Măi một không khí: "đại bác đêm đêm
dội về thành phố, người phu quét đường dừng chổi đứng nghe". Nhạc
Trịnh Công Sơn được những người thành phố, những thành phần ít ra có
những ngày từng cắp sách tới trường, đón nhận, là v́ vậy. Khác họ
Trịnh, những thính giả nghe nhạc anh, trước, trong, và sau những
ngày ở quân trường, những ngày thoát chết sau một trận đánh, trở lại
với thành phố, với quá khứ những ngày c̣n đi học, những ngày người
t́nh chưa bỏ đi, hoặc đă bỏ đi rồi, chưa có hoặc sẽ có, hoặc chẳng
bao giờ có, hoặc phải chờ cho xong cuộc chiến: đừng yêu sớm quá nếu
muốn chết trẻ… Cái không khí phản chiến của nhạc Trịnh Công Sơn mang
tính gián tiếp.
Muốn t́m tính trực tiếp của nó, phải lần tới những bản nhạc vàng,
nhạc sến.
Điều này giải thích, sau 1975, ở trong trại cải tạo, nhạc được hát
âm thầm giữa những người tù, là những "khi tôi về, mẹ già run run
đón…"
Và một Trịnh Công Sơn chưa từng trải qua một ngày "quân vụ", có đau
nỗi đau nỗi nhớ, như vậy không?
Sau này, khi có dịp đi nước ngoài, Trịnh Công Sơn ở lại, liệu do ông
đă cảm nhận, cuộc đời của ông thiếu… một ngày "quân vụ"?
(Độc giả/khán giả chắc c̣n nhớ, cảnh trong phim/truyện "Cuốn Theo
Chiều Gió": Clark Gable/Rhett Butler bỏ mặc Vivien Leigh/Scarlett
O’Hara ở giữa đường, trong "cơn tháo chạy tán loạn", để chạy theo
cuộc chiến, khi biết nó sắp tàn, và miền nam sắp thất thủ?… Đây là
cuộc nội chiến Mỹ, the American Civil War, 1861-1865. Nhân vật Kiệt,
trong cuốn tiểu thuyết "Một Chủ Nhật Khác" của Thanh Tâm Tuyền, sinh
viên du học, trở về nước, không phải v́ tiếng gọi của quê hương, mà
v́ vợ con, đă "chọn" cái chết lăng nhách, v́ bị lính tuần tiễu lầm
là cộng quân, trong một đêm về sáng, tại một thành phố cao nguyên…
đă từng tự hỏi chính ḿnh: phải chăng loài voi, khi biết ḿnh sắp
chết, là lặng lẽ đi t́m một chốn "ngả lưng"?)
Người viết có một anh bạn, thời gian trước 30 tháng Tư 1975 được học
bổng tu nghiệp tại Pháp (Paris). Mặc dù những đồng nghiệp mới quen
biết tại nước người khuyên nhủ, hăy chờ đợi vài ngày coi t́nh h́nh
như thế nào, "chúng tôi sẵn sàng tiếp nhận anh…", nhưng anh đă trở
về, chỉ sợ không kịp "cùng chết" với gia đ́nh.
Và sau đó, đi tŕnh diện cải tạo.
"… Benjamin sử dụng… từ ‘nàng’, để chỉ cái chết".
["Benjamin emploie plus loin ce même mot de ‘Fraulein’ (demoiselle)
pour désigner la mort." Tiểu chú, bản dịch tiếng Pháp "Kư sự
Berlin", của Walter Benjamin, in trong "Tự thuật", ("Écrits
autobiographiques," nhà xb Christian Bourgois, ấn bản 1994].
"Những ngày Mậu Thân căng thẳng, Đại Học đóng cửa, cô bạn về quê,
nỗi nhớ bám riết vào da thịt thay cho cơn bàng hoàng khi cận kề cái
chết, theo từng cơn hấp hối của thành phố, cùng với tiếng hoả tiễn
réo ngang đầu…"
"Có vết thương của tôi, rồi, mới có tôi. Tôi sinh ra để nhập vào
nó."
"My wound existed before me. I was born to embody it."
(Joe Bousquet, một thi sĩ bị bắn chết trong Cuộc Chiến Lớn I. Gilles
Deleuze trích dẫn, trong "Critique et Clinique")
Liệu chúng ta có thể đọc ra, điều này: những cuộc t́nh dang dở, "từ
lúc đưa em về, là biết xa ngh́n trùng", những cánh vạc gầy, những
"trời bên ấy có xanh không em?"…. như nỗi chết không rời?
Và Trịnh Công Sơn đă chọn một "fraulein", thay cho một cuộc chiến?
Trong bất cứ một người Việt Nam nào, đều có giấc mộng ṿng tay lớn.
Nó được biểu hiện qua những h́nh ảnh, thí dụ như cảnh người lính
miền nam cởi bỏ bộ đồ trận, trong ngày 30 tháng Tư; cảnh Dương văn
Minh, khi nói với những người tới bắt ông: Tôi chờ các ông để bàn
giao…
Những người trẻ tuổi, gạt bỏ chất phản chiến, chỉ nh́n Trịnh Công
Sơn như một nhạc sĩ của t́nh yêu, và vượt qua nó, một thi sĩ. Ông sẽ
sống măi như vậy: nhạc sĩ của những cuộc t́nh dang dở: đây là một
điều may khi giấc mộng lớn biến thành ác mộng, hay là một bất hạnh
đối với ông?
Người ta không hiểu tôi.
(Trịnh Công Sơn)
Convaincre est infécond.
(Thuyết phục là cằn cỗi).
(Walter Benjamin. "Đường một chiều")
Hồn thiêng thành phố thức giấc ở trong tôi
Gửi Huỳnh Phan Anh, Nguyễn Xuân Hoàng, Nguyễn Đ́nh Toàn
Gửi theo Nguyễn Nhật Duật, Sĩ Phú, Joseph Huỳnh Văn
(NQT)
Trước 1975, tôi làm ở… bên trong Bưu Điện. Sau 1975, tôi làm ở… bên
ngoài, ở vỉa hè ṭa nhà Bưu Điện, kế bên Nhà Thờ Đức Bà. Viết mướn.
Điện tín, thư từ tiếng Anh, tiếng Pháp, và tiếng Việt. Thân chủ đa
số là những người có bà con, thân nhân vượt biển, đang ở trại tị
nạn, hoặc đă định cư nơi nước ngoài.
Thời gian này cả Sài G̣n, nói rộng ra, cả nước đang đói. Đám ngụy,
lại càng đói. Một lần, một thân chủ tốt bụng cho tôi địa chỉ một nữ
tu viện Thiên chúa giáo ở Thái Lan. Ôi, quí giá biết là chừng nào.
Viết thư cầu cứu, mấy bà sơ gửi cho một thùng đồ, trị giá gần một
cây vàng. Đám viết mướn vỉa hè Bưu Điện chúng tôi cứ thế trao đổi,
chuyền cho nhau những địa chỉ tương tự. Tới tai nhà nước. Chúng tôi
được đặc biệt để ư, một phần là vậy: làm nhục nhà nước. Ngoài ra c̣n
nhiều tội khác nữa. Thành phần ăn bám xă hội. Trốn tránh đi vùng
Kinh Tế Mới. Khuyến khích nhân dân bỏ nước ra đi.
Chả là, trong số những thân chủ, có những người trước đi lính hoặc
làm việc cho Pháp, nay làm đơn xin tiền cấp dưỡng, tiền truy lănh
những năm chiến tranh bị gián đoạn, hoặc xin bảo lănh qua Pháp.
Sau tới chương tŕnh ODP.
Lần chót tụi tôi nhận được thư của mấy bà sơ, là những lời ân hận,
v́ không thể tiếp tục gửi quà cứu trợ. Nhà nước Việt Nam đă gửi thư
cho mấy bà, yêu cầu đừng gửi đồ cho từng cá nhân. Hăy gửi tới cơ
quan nhà nước. Hăy gửi tới Hội Chữ Thập Đỏ.
Không thể gửi, nhưng chắc chắn mấy bà sơ vẫn không quên cầu nguyện
cho gia đ́nh chúng tôi.
Chứng cớ là…
Nhờ viết muớn ở Bưu Điện, tôi gặp lại một anh bạn, trước 1975 làm
nhiếp ảnh viên cho một hăng thông tấn Mỹ. Tôi là người gửi những tấm
h́nh chiến trường của anh, và của những nhiếp ảnh viên khác trong
hăng, bằng phương pháp vô tuyến viễn ảnh.
Anh tới Bưu Điện, tính gửi hồ sơ ODP qua Bangkok. Thời gian đó, tụi
tôi móc nối được với một vài nhân viên Bưu Điện, chỉ để chuyển hồ sơ
ODP. Tốn thêm tiền cho thân chủ, lẽ dĩ nhiên, nhưng chắc chắn tới
nơi. Những ngày tháng lê la bên vỉa hè, những địa chỉ như văn pḥng
ODP ở Bangkok, văn pḥng Hội Cựu Chiến Binh Pháp ở Paris… là những
cần câu cơm của tụi này. C̣n những địa danh như Galand, Songkhla
(?), Panat Nikhom, hoặc quá xa hơn, những Wesminster CA, Santa Ana…
là những khung trời mơ ước của mấy tên viết mướn tụi tôi!
Khung trời mơ ước, ôi chao, xa vời quá! Chuyện trước mắt, ḿ ăn
liền: những thân nhân sau khi lănh thùng đồ, ghé vội mấy ông viết
mướn, đánh giùm tôi cái điện tín: đă nhận đồ. Tôi nhớ một lần, có
hai anh chị hớn hở tới "order": viết giùm cái thư, nói kheo khéo
giùm: ở bên này em nhớ anh lắm, mau mau bảo lănh em qua! Tôi cứ nh́n
hiện tại, để nói về quá khứ: những ngày anh c̣n ở bên em; và cứ nh́n
tương lai, khi anh và em tái ngộ nơi quê người, theo kiểu hiện tại,
của đôi nhân t́nh.
Bởi v́ "nhiệm sở" ngay bên Vương Cung Thánh Đường, những buổi sáng
sớm "chợ chưa họp", chúng tôi thường vô hẳn bên trong nhà thờ quỳ
cầu nguyện. Buổi trưa, thay v́ qú, chúng tôi nằm "ngơi" ngay lối đi
phía trước, dưới ṿm cung, phía sau tượng Đức Mẹ, hay chạy qua phía
bên kia đường, khu nhà ở của mấy ông cha, có bữa ngủ quên tới tận
chiều, mấy ông cha lại phải cho người giúp việc ra đánh thức! Đêm
Giáng Sinh, làm sao Chúa bỏ quên lũ chúng tôi! Người cũng không quên
mấy đứa nhỏ: tụi nó đă sửa soạn lễ Giáng Sinh cùng với mẹ, ngay từ
đầu tháng, bằng cách cặm cụi làm côngfetti, không phải để ném lên
đầu nhau, mà là để bán cho người dân Sài G̣n, đông nghẹt quảng
trường Kennedy, đêm Chúa ra đời. Nếu khát nước, bạn có thể vừa mua
côngfetti, vừa uống ly nước trà của bà mẹ chúng, trên chiếc bàn dă
chiến, di động chung quanh tượng Đức Mẹ, có khi tới tận Nhà Hát Lớn
trên đường Tự Do.
Trong không khí hân hoan "cả nước đang sửa soạn làm lễ kỷ niệm Mười
Năm Đại Thắng Mùa Xuân 1985", tôi gặp lại anh bạn Ng.
Trong chiến tranh Việt Nam, thời gian làm cho cơ quan báo chí Nhật
(Asahi Shinbum), anh đă từng vào chiến khu chứng kiến cảnh Việt Cộng
thả ba tù binh Mỹ, trong có một Mỹ đen, tại Bến Kéo, Trà Xim (Củ
Chi). Đây là lần thả tù binh đầu tiên. Chuyện xẩy ra trước ngày
thành lập Mặt Trận Giải Phóng, v́ vậy anh bị rút thẻ báo chí Mỹ,
MACVI. Anh cũng là người đầu tiên theo người Mỹ đổ quân tại Quảng
Trị, từ chiến hạm Okinawa thuộc Đệ Thất Hạm Đội, vào năm 1967. Phóng
viên đầu tiên về Châu Đốc, tham gia chiến dịch đổ quân Trà Keo, giải
cứu thường dân ở Kampuchia. Đă từng phỏng vấn tướng Đỗ Cao Trí tại
Sawy Riêng. Tất cả những sự kiện trên, là do anh kể cho tôi nghe.
Quan trọng nhất, anh nhấn mạnh với tôi, là hai chữ "đầu tiên".
Tôi quen anh những ngày anh bỏ tờ báo Nhật, qua làm cho thông tấn xă
UPI. Gốc "chệt", người nhỏ thó, tóc xoắn tít. Có lần trong lúc hơi
ngà ngà, anh tỏ ra tự hào, về mấy ‘quí tướng’ của anh. Anh chỉ ân
hận, là đă bỏ cuộc quá sớm. Sau Mậu Thân, bà vợ rét quá, bắt ông
chồng ở nhà bế con, không cho vác máy h́nh nữa.
Anh nghĩ rằng, anh vẫn c̣n nợ chiến tranh một điều ǵ đó. (Món nợ
này, độc giả cho phép tôi nợ lại, vào một dịp khác sẽ nói rơ hơn.)
Nhờ vậy, mà có chuyến vượt biển tại băi biển Vàm Láng, G̣ Công vào
đúng đêm ông Táo cưỡi cá chép lên chầu Trời.
Trên một số báo Văn, tôi đă viết về chuyến đi này, và cái cảnh tượng
bi hài: trong đêm tối, ghe gặp băo ngay bên ngoài cửa biển Vũng Tầu;
một anh chàng thanh niên đă lầm tôi với người yêu của anh, và cứ thế
ṿ đầu ṿ tóc "người yêu", lảm nhảm những lời cuối cho cuộc t́nh,
cho một tương lai tươi sáng ở nơi xứ người…
Sau khi ra tù, anh bạn tôi lại t́m cách đi nữa. Nhờ vậy, có chuyến
du lịch Bangkok.
Hai vợ chồng tôi tới Bangkok ngày 19 tháng Năm, năm 1990. Đúng ngày
sinh của ông Hồ. Sau này, tôi tăng thêm một ngày, trong lư lịch Cao
Uỷ.
Đó là một bữa thứ bẩy. Sau khi đi lang thang trong thành phố tới ră
người, trước viễn ảnh một buổi tối thật đen tối, chợt nhớ tới cái
địa chỉ đă từng là cứu tinh những ngày đói ră họng ở quê nhà, tụi
này bèn kêu tắc xi, nói "Vạt, vạt" (Vạt, tiếng Thái, có nghĩa là
chùa chiền, tu viện). Anh chàng tắc xi người Thái đưa, không phải
tới cái địa chỉ mà chẳng ai c̣n biết đó, mà là nhà thờ St. Francis,
tại một khu sang trọng thuộc trung tâm thành phố. Tới sân nhà thờ,
nh́n thấy một chiếc xe hơi với hàng chữ tiếng Anh, Cơ quan Cứu Trợ
Cao Uỷ Tị Nạn, tôi la thầm trong bụng: Chúa cứu ta rồi!
Vị cha già trụ tŕ nhà thờ là người Pháp. Ông không dấu vẻ ngạc
nhiên, khi nghe gă đàn ông ốm đói, mệt lả, nhưng "thao thao bất
tuyệt" xổ ra hàng tràng tiếng Tây, (sau này, nghĩ lại, tôi cũng
không thể hiểu nổi tại sao bữa đó, ḿnh lưu loát đến như thế! Nhất
là đây là lần đầu tiên, kể từ tháng Tư 1975, tôi mới có dịp "thực
tập" tiếng Tây!)
Sau đó, Cha cho trú ngụ tại một căn pḥng ở bên trường học, kế ngay
bên nhà thờ, do nhà thờ quản lư, bỏ qua tất cả những lời khuyên nên
báo cảnh sát để cho nhà thờ khỏi bị liên lụy.
Chúng tôi ở đây hết ngày thứ bẩy và chủ nhật. Sáng thứ hai, Cha đưa
tụi này tới cơ quan ODP, nằm bên trong ṭa nhà khổng lồ City Bank.
Ông tŕnh giấy tờ, yêu cầu được coi hồ sơ ODP của tụi này. Chỉ tới
khi đó, Cha mới thực sự tin tưởng, và có thể, hài ḷng, v́ đă làm
đúng ư Chúa!
Cha yêu cầu cho gặp một vị luật sư của ODP. Vị này khuyên, chỉ có
mỗi một cách: đưa mấy người này vào đồn cảnh sát. Sau khi hết hạn
tù, ông sẽ báo bên Cao Uỷ cho xe "rước’ về trại tị nạn.
Cha đưa tụi này tới một đồn cảnh sát Thái.
Trước khi từ biệt, Cha đă dịch cho tôi nghe những lời cảnh cáo của
viên cảnh sát: Tôi có thể bắt Cha, v́ tội chứa chấp những người nhập
cảnh bất hợp pháp.
Sau đó, Cha c̣n tới nhà tù thăm tụi này, cho tiền, đưa lại mớ "bản
thảo", là mấy cuốn tập ghi vắn tắt một số sự kiện về những ngày ở
Đất Phật, và chuyến vượt sông Mekong vào đất Thái của tôi.
Tôi gặp lại Le Carré ở nhà tù Bangkok.
Trong cuộc chiến Việt Nam, v́ quá sợ nó, tôi t́m đủ mọi cách để chạy
trốn. Một trong những chỗ ẩn núp "tương đối" an toàn, là sách vở.
(Ngoài sách vở ra, c̣n một mê cung khác, an toàn hơn, bởi v́ thê
thảm hơn, tôi đă tưởng hết lối ra, may nhờ… nhưng thôi để dịp khác…)
Trong sách vở, có truyện trinh thám. Những cuốn tiểu thuyết đen,
série noire, với những tác giả như James Hadley Chase, Georges
Simenon… và John Le Carré, được coi là "ông vua" của tiểu thuyết
gián điệp, với bối cảnh là Cuộc Chiến Lạnh.
Tôi t́nh cờ khám phá ra ông, nhân bữa ghé tiệm sách Xuân Thu, ở
đường Tự Do Sài G̣n, thấy cuốn Gián Điệp Từ Miền Lạnh, bản tiếng
Pháp (L’Espion qui venait du froid). Mấy chữ "venait du froid" đập
ngay vào mắt. Như thể sợ, mà vẫn ṭ ṃ muốn biết, muốn thử! Y hệt
nỗi sợ cuộc chiến! Biết chắc chạy trời không khỏi nắng, nhưng vẫn
t́m đủ mọi cách để kéo dài thời gian "hoăn dịch". Một cái sợ tiềm
ẩn, ma quái, đâu đó từ góc sâu quá khứ… Trong một thoáng, giữa không
khí ấm áp của Sài G̣n, tôi như sống lại nỗi buốt giá của một miền
đất, của một tuổi thơ, trong khi cuộc chiến đang ŕnh rập, ngay… bên
ngoài lề đường!
Chả là, tôi người Bắc, bố mất sớm, mẹ c̣n trẻ, một nách bốn con, cứ
phải gửi hết đứa này đứa nọ ăn nhờ ở đậu nơi bà con bên nội bên
ngoại… những chi tiết chẳng liên quan ǵ tới Gián Điệp Từ Miền Lạnh,
nhưng chính là cánh cửa mở vào tiểu thuyết của Le Carré.
Trong ba tháng nằm tại nhà tù quốc tế Bangkok, giữa đủ thứ thành
phần (trộm cướp, buôn lậu ma túy, giấy thông hành hết hạn, kháng
chiến quân chống nhà cầm quyền Miến Điện, chống nhà nước Cộng Sản
Việt Nam…); đủ thứ sắc dân (Anh, Pháp, Ấn Độ, Miến, Mă Lai,
Campuchia…), tôi gặp lại Call For The Dead của Le Carré trong mớ đồ
lỉnh kỉnh của một anh bạn Mă Lai nằm kế bên. Cuốn sách mỏng, chỉ
trên trăm trang, ghi chú tùm lum, nào số điện thoại, nào những con
chữ lằng ngoằng…
Tôi đă đọc bản tiếng Pháp, L’appel du mort, nhưng không bắt được cái
mạch của nó.
Lần này, cuốn sách bắt được mạch của tôi.
Đúng hơn, lần này thành phố đă…
Như trên đă nói, tôi đọc Le Carré qua bản dịch tiếng Pháp. Lần đọc
đầu, tôi chỉ để ư đến cốt truyện, đến cuộc đấu trí giữa hai phe
"chính tà’ qua hai nhân vật ở trong đó.
Đây là câu chuyện một nhân viên ngoại giao tự tử, sau khi bị sở cho
người điều tra, v́ nghi là "thân cộng". Để lại thư tố cáo. Người
lănh đạn, là Smiley, nhân viên được sở cử đi điều tra. "Anh điều cha
điều bố thế nào để cho con người ta cảm thấy nhục nhă, mất danh dự
đến nỗi phải tự tử để minh oan?"
Trước mắt, ngay sáng sớm hôm sau, Smiley phải tới gặp bà vợ, để thay
mặt sở chia buồn. Đang nói chuyện, có điện thoại. Tưởng của Sếp, anh
nhắc nghe, nhưng của nữ điện thoại viên bưu điện, do người đă chết
tối hôm qua đă dặn, "tám giờ sáng, nhớ đánh thức tôi nhé!"
Smiley tự hỏi: làm sao một người sửa soạn từ giă cơi đời, lại nhờ
người đánh thức?
Hoá ra là bà vợ mới là gián điệp nằm vùng. Bồ của bà, một điệp viên
Đông Đức. Trong thời gian chiến tranh, anh này là nhân viên của
Smiley. Một tay cộng sản thứ thiệt, theo nghĩa, rất tin tưởng chủ
nghĩa cộng sản sẽ đưa thiên hạ tới "thái bường"!
Smiley vẫn c̣n nhớ, cách anh này hẹn gặp nhân viên dưới quyền. Anh
thử làm theo, và thành công.
Anh cho hai người gặp nhau tại một rạp hát. Khi nhân viên dưới quyền
xin lệnh bắt, Smiley lắc đầu, không có chứng cớ, bắt cũng phải thả
ra thôi. Nhưng anh ra lệnh: cứ để yên, sẽ có biến động. Hăy để cô
cậu cuống cuồng, thất kinh… quưnh quá thể nào cũng làm một điều ǵ
đó. (Let them bolt, panic, anything… so long as they do
‘something’). Bởi v́ theo anh, Dieter, nhân viên cũ của anh, khi gặp
cô bồ, khám phá ra bị lừa, sẽ nghĩ rằng phản gián Anh đă biết tất
cả.
Vấn đề là: anh ta sẽ hành động như thế nào?
The Last Act, màn chót của vở hát và cũng là màn chót của cuộc đấu
trí, Dieter xiết cổ cô bồ, làm như đang ngủ, và rời rạp hát cùng với
khán thính giả.
Dieter và Smiley đụng độ tại một cây cầu, giữa sương mù dầy đặc,
trên sông Thames. Nhớ lại những năm tháng cùng chống Quốc Xă, Dieter
tha chết cho tên bạn đế quốc, và chịu chết thay v́ đầu hàng.
Những đoạn đối đáp giữa bà vợ và Smiley, giữa Similey và Mendel,
người bạn làm nghề cảnh sát… là những trang đẹp nhất trong truyện:
(Mendel hỏi Smiley):
-Bà ta có phải là cộng sản không?
-Tôi không tin bà ta thích những nhăn hiệu. Tôi tin rằng, bà muốn
xây dựng một thế giới có thể sống mà không có tranh chấp… Hoà b́nh
là một từ dơ dáy, hiện nay, có phải không? Tôi nghĩ, bà muốn hoà
b́nh.
(I don’t think she liked labels. I think she wanted to help build
one society which could live without conflict. Peace is a dirty word
now, isn’t it? I think she wanted peace.)
-C̣n Dieter?
-Trời biết Dieter muốn ǵ. Thanh danh, tôi nghĩ vậy. Và một thế giới
xă hội chủ nghĩa. Smiley nhún vai. "Họ mơ tưởng hoà b́nh và tự do.
Và bây giờ, họ là những tên sát nhân, những tên gián điệp."
-Trời đất!
Smiley im lặng một lát:
-Tôi không hy vọng bạn hiểu. Bạn chỉ nh́n thấy tận cùng của anh ta.
Tôi đă nh́n thấy khởi đầu. Anh ta là một trong những người xây dựng
thế giới. Những người tưởng là xây dựng, nhưng thật ra là hủy diệt.
Lần đọc đầu, tôi chỉ để ư đến những màn giật gân, những câu đối đáp
nẩy lửa như trên.
Lần thứ nh́, một chi tiết, đúng ra là một "cụm từ", trong một câu
văn, đập thẳng vào mắt tôi.
Bạn không thể tưởng tượng, khi nằm tại nhà tù quốc tế Bangkok, tôi
đă nhớ Sài G̣n tới mức nào. Và cái cụm từ ở trên, nó "liên quan"
tới… Sài G̣n!
Câu văn ở chương hai. Chương này tả cảnh tượng Smiley đang đêm bị
sếp dựng dậy, bắt phải tới sở tŕnh diện. Ngồi trên xe tắc xi, anh
cứ nghĩ, ḿnh vẫn c̣n đang ngủ trên giường nệm ấm áp, đây chỉ là hồn
ma của ḿnh đang run rẩy giữa thành phố London:
"Trong tắc xi ông cảm thấy an toàn. An toàn và ấm áp. Cái ấm là món
hàng chui, tuồn từ chiếc giường, được tích trữ nhằm chống lại đêm
tháng Giêng ẩm ướt. An toàn, v́ không thực: đây là hồn ma của ḿnh
đang lang thang trên đường phố Luân Đôn…"
(He felt safe in the taxi. Safe and warm. The warmth was contraband,
smuggled from his bed and hoarded against the wet January night.
Safe because unreal: it was his ghost that ranged the London
streets….)
Những từ safe, unreal…như từ cuộc chạy trốn quê hương trỗi dậy, gây
trạng thái chập chờn nửa thức nửa ngủ. An toàn ở trong một nhà tù,
cách xa nhà tù quê hương. Không thực, v́ chung quanh là cả một khối
hỗn độn người ngợm lạ hoắc… cứ thế, một đoạn văn ở trong tôi lập đi
lập lại, theo cùng với những con chữ: Trong những đêm chập chờn mất
ngủ… hồn ma… his ghost, không, không, đây là hồn ma của chính ḿnh
đang lang thang ở Sài G̣n… không, không, không phải hồn ma của ḿnh,
mà là… hồn thiêng, hồn thiêng của thành phố đang trỗi dậy… thế là
tôi ráp lại: "Trong những đêm chập chờn mất ngủ, hồn thiêng của
thành phố thức giấc ở trong tôi, tôi lại tưởng hồn ma của chính ḿnh
đang lang thang trên những đường phố cũ…". Tới đó tịt luôn.
Phải tới khi ra nhà tù, vào trại tị nạn, măi măi sau đó, tôi mới kết
thúc nổi câu văn:
"Trong những đêm chập chờn mất ngủ, hồn thiêng của thành phố thức
giấc ở trong tôi, tôi lại tưởng đây là hồn ma của chính ḿnh đang
lang thang trên những nẻo đường xưa cũ, sống lại cái phần đời đă
chết theo cùng với Sài G̣n, bởi cái phần đời đó mới đáng kể."
Một thành phố mà tôi đă chết ở trong, nay sống lại, chỉ để kể về nó…
NQT
trang nguyễn quốc trụ
art2all.net
|