Năm 1954, người ta nói đến cuộc di cư người, thật ra c̣n có
cuộc di cư chữ nghĩa nữa. Người đi , chữ cũng đi theo. Chữ
nghĩa miền Bắc cũng lềnh kềnh, lếch thếch nối đuôi nhau lên
tầu há mồm. Chuyến đi gian nan của nguời di cư thế nào th́
chữ nghĩa cũng vậy. Chữ ở lại, chữ ra đi, chữ nào c̣n, chữ
nào mất? H́nh như chẳng c̣n ai tâm trí đâu để lưu tâm tới
điều đó. Chữ được di cư vào miền Nam, chở đi rồi, bao nhiêu
chữ đă rơi rụng, vung văi dọc đường? Bao nhiêu chữ đă sống
c̣n sau khi đă hội nhập với chữ bản địa?
Phải đợi đến sau ngày 30 tháng tư 1975, người ta mới có thể
biết được sự c̣n mất này một phần nhờ so sánh chữ nghĩa giữa
hai miền. H́nh như cũng ít ai để ư đến cái mất, cái c̣n của
chữ nghĩa, v́ có quá nhiều cái mất cái được được lớn hơn.
Cái mất lớn hơn đó để người khác lo, người viết lạm bàn về
số phận chữ nghĩa người di cư sau 1954 và nếu có dịp về chữ
nghĩa của người di tản.
Phần 1.- Chữ ṃn theo thời gian.
Cho dù không có cuộc di cư, chữ nghĩa cũng cách này cách
khác bị sói ṃn. Sự mất c̣n này trước hết là do sự sói ṃn
của thời gian . Chữ nghĩa như một vật dùng một lần th́ c̣n
ngon, nhưng dùng nhiều lần th́ ṃn hay cùn đi. Như cái kéo
cắt măi cũng phải cùn. Dao băm măi cũng lụt đi. Khen đi khen
lại đâm nhàm tai. Yêu nhau lắm, cắn nhau đau, hay ít ra cũng
chán. đùa dai hoài đâm nhạt như nước ốc. H́nh như chữ nghĩa
dị ứng với cái lập đi lập lại. Tất cả những ngữ nghĩa trên
chỉ ra một điều : Thời gian và sự đi lập lại có thể làm sói
ṃn, hoen rỉ chữ nghĩa. Tâm lư con người lại ưa chuộng cái
mới, cái lạ. Như trong t́nh yêu, dùng chữ đó với nhau lần
đầu, trọng lượng của chữ nặng lắm, thấm thía lắm, cảm động
lắm. Dùng lần thứ hai thấy nhẹ đi rồi. Phải tăng cường độ
nghĩa bằng những chữ lắm, nhất, số một. Có khi cả bằng tay
chân vẫn chưa đủ. Tăng lời thề.. H́nh như vẫn hụt.
Trong văn chương, ta cũng gặp cảnh ngộ tương tự. Nhất là
trong lănh vực thơ . Thơ là khơi nguồn cho sáng tạo chữ mới,
văn ảnh mới, biểu tượng mới. C̣n nhớ, hồi thơ Nguyên Sa xuất
hiện đúng lúc khi mà cuộc di cư đă hoàn tất. Chữ nghĩa thơ
của ông c̣n nóng hổi, thơm phức như bánh ḿ mới ra ḷ. Nhiều
cô cậu, ghi ghi chép chép để dùng lại:
A'o nàng vàng, tôi về yêu hoa cúc.
A'o nàng xanh, tôi mến lá sân trường.
Chữ nghĩa đó được truyền tay, đến người cuối cùng có thể chỉ
là chiếc bánh ḿ nguội. Cứng như đá. Thật ra, thơ đó có một
vài văn ảnh mới. Mới với người đọc thôi. Nguyên Sa đă gợi
nguồn cảm hứng từ người t́nh là cô Nga ( sau này là bà Trần
Bích Lan) . Có thể lúc mà thơ đó mới ra ḷ, đối với ông, thơ
văn đó chả có ấn tượng ǵ nữa. Nhưng mới người cũ ta. Có lẽ
v́ vậy mà nhà thơ suốt đời mang cái nghiệp phải sáng tạo cái
mới. Sáng tạo không ngừng.
Số mệnh chữ nghĩa mỏng manh như số phận con người. Thời gian
như thước đo chiều dài ngắn của chữ nghĩa, đồng thời cành
báo về cái hữu hạn của nó. Sự sợ hăi của Nguyễn Du phải
chăng cũng từ đấy mà ra?
Chữ có thế vắn số nên có nhiều chữ đă trở thành chữ cổ ít ai
nhắc tới. C̣n nhớ, hồi mới di cư dzô Nam, người Bắc sửng sốt
nhất, nghe lạ tai nhất là chữ Mă Tà. Mă tà thời tây gọi là
Hiến Binh, sau này trong Nam gọi là Cảnh sát, ngoài Bắc gọi
là Công An. Không biết v́ lư do ǵ, chữ Mă tà sau khoảng hai
năm ǵ đó, không c̣n nghe ai nói nữa. Cũng vậy, theo sách vở,
chữ manh nghĩa là nhỏ mọn. Người đời chỉ c̣n nhớ váng vất
khi nó đi với chữ khác như mong manh, tan manh, chiếu manh,
manh áo, manh mún. Một chữ khác như chữ Khem, nghĩa là kiêng
cữ. Nếu nó không cặp bạn với chữ Kiêng th́ người ta không
c̣n nhận ra nó như Kiêng khem ra nắng, ra gió. Chữ khác như
chữ Lụn, nghĩa là hết, người ta cũng chỉ dùng trong một số
trường hợp hiếm hoi : Tim lụn có nghĩa tim đèn cháy hết, lụn
năm, lụn ngày, mềm lụn, lụn xuống, lụn mạt. Mấy ai c̣n nhớ,
c̣n biết, c̣n xử dụng những chữ cổ trên.
Nhưng có chết đi mới có sống lại, cái chết đi ung mầm ra cái
mới. Nhờ vậy mà chữ nghĩa thay đổi và tiến bộ, mỗi ngày một
đa dạng, một phong phú và chuẩn xác hơn. Thời gian đă là một
nhẽ, cộng thêm dụng ư của người xử dụng chữ làm chữ nghĩa
sống dở, chết dở. Từ nay, chữ có thêm nghĩa. Chữ và nghĩa.
Chữ dùng giống nhau, nhưng nghĩa th́ mỗi người hiểu một
nghĩa. Rầy rà từ đấy mà ra.
Huyền thọai về việc xây tháp cổ Babel phải chăng là một bằng
cớ báo trước về sự sa đà của ngôn ngữ, chữ nghĩa và đến cả
số phận của nó nữa.
Số phận chữ nghĩa, cái sống, cái chết của nó là sống ṃn,
chết ṃn, chết từ từ. Mỗi ngày của nó là một bước ngắn lại.
Cả làng, cả nước đang dùng, vậy mà không đâu biến đi đằng
nào.. Từ ṃn đến là hay, nó gợi lên văn ảnh của một đồ vật
mới đầu bóng loáng , sáng choang, mầu sắc rực rỡ, hấp dẫn
người ta. Ai ai cũng mê, cũng nói, cũng dùng. Chữ trở thành
thời thượng. Càng được dùng, càng nhiều người nhắc đi nhắc
lại, càng phổ biến th́ cái nguy cơ mất lúc nào không hay.
Chữ vẫn đó, mà nghĩa đă mất dần . Cái xe chở chữ, lúc chở
chữ này, lúc khác chở chữ khác, hoặc dán nhăn hiệu khác. Nó
đă chở như thế bao nhiêu chuyến, đă thay h́nh đổi dạng bao
nhiêu lần.
Nói như thế th́ chữ ṃn hay nghĩa ṃn? Cái nào ṃn trước,
cái nào ṃn sau? Chữ là cái chuyên chở nghĩa và một chữ có
thể có nhiều nghĩa, tùy theo vị trí của nó trong câu nên
nghĩa dễ bị ṃn hơn chữ. Chẳng hạn , chữ cái và con. Chữ chỉ
có hai, nhưng nghĩa th́ nhiều lắm nên nghĩa lúc thế này, lúc
thế khác. Cũng là con , nhưng con dao, con với cái, nhỏ con,
con dại cái mang, con đĩ, cỏn con. Nhưng cũng không thiếu
trường hợp cả hai đều mệnh yểu.
Chữ càng ṃn nhanh nếu nó chuyên chở nhiều nội dung, ư hướng
của người dùng. Tất cả tuỳ thuộc vào ư hướng người xử dụng..
Nhưng làm sao nắm bắt được ư hướng đó. Dĩ nhiên khó lắm. Vấn
đề nay đă lây lan sang một chủ đề triết lư là : sự ngộ nhận,
sự thông cảm hay sự bất lực trong việc t́m hiểu tha nhân mà
các triết gia hiện sinh thường đề cập tới. V́ có dụng ư chữ
nghĩa đôi lúc trở thành gian dối, lừa phỉnh và trong chính
trị trở thành tuyên truyền. Một thứ bạo lực ngôn ngữ, một
thứ vũ khí như con dao, khẩu súng. Chẳng hạn chử Việt gian
thời Việt Minh, hay chữ tay sai Cộng Sản thời bây giờ.
Với cái nh́n nhân bản th́ chữ nghĩa có một cuộc sống , có
ḍng sinh mệnh, có thể mất, có thể c̣n, trôi nổi như đời
sống một người. Nhiều chữ nay đă chết, nằm chôn vùi trong
nghĩa địa của các Bảo tàng hay sách cổ. Nói ra cũng ngậm
ngùi.
Xin trích dẫn một số chữ nghĩa làm bằng chứng về sự mất c̣n
này. Trong lời mở đầu báo Nam Kỳ địa phận, số đầu tiên, năm
1907 có những câu như sau
:* Bổn báo kỉnh cáo, ṭa báo đă ước ao cho con nhà Annam,
đua nhau tấn tài, tấn đức, thông phần đạo, ngoan việc đời…
Tờ báo có ư khai đàng văn minh cho nhân dân đặng tấn phát
cho mọi bề, việc đạo việc đời đều thông thuộc.*
Xin trích dẫn một đọan khác :
* Lời rao cần kíp. Bổn báo gửi cho mỗi người hai số nhựt
tŕnh đầu hết mà xem thử, như ai bằng ḷng mua th́ đem ba
đồng bạc đến mượn cha Sở mua dùm.. Trong một trả lời bạn đọc,
chúng ta nghe thử lời rao sau đây :* Bổn báo có nhận được
một mandat của một ông nào đó không đề tên, không đề địa chỉ,
nhưng yêu cầu gửi báo .
Tức cười thật. Nhưng 25 năm sau, trong tờ L!Impartial viết
vào ngày 20-11-1929, ta thấy lối viết đă nhẹ nhàng thông
thoát hơn :
* Sự giải phóng người Annam về phương diện thương mại và kỹ
thuật chỉ là một huyền thoại.
Bạn đọc thấy có nhiều chữ được xử dụng cách nay một thế kỷ
đă không c̣n được dùng nữa như bổn báo kỉnh cáo, nhựt tŕnh,
con nhà Annam, tấn tài tấn đức, khia đằng văn minh. Nhưng có
nhiều chữ vẫn được dùng cho đến ngày nay như Chữ Cha Sở và
nhất là những chữ khá chuyên môn cách nay 70 năm như giải
phóng, phương diện thương mại và kỹ thuật, huyền thoại vẫn
c̣n được dùng. Nhất là chữ Huyền thoại mà người viết có cảm
tưởng là nó chỉ được dùng sau này trong Triết học Tây Phương
mà thôi. Hóa ra nó đă có một nguồn gốc lâu đời đến thế.
Trong những chữ bị ṃn, mất đi..ở trên. Vấn đề là t́m hiểu
xem, tại sao chúng không c̣n được dùng nữa.
Sự mất c̣n của một chữ trước hết là thói quen, rồi sự xói
ṃn, sự được dùng ít hay dùng nhiều, tính địa phương, sự
sáng tạo của các nhà văn, nhà báo, dụng ư chính trị và cuối
cùng là các cuộc di dân. Và đặc biệt nhất là cuộc di cư năm
1954 cũng là mục tiêu của bài viết này.
Phần 2. Cuộc di cư của chữ nghĩa.
Cuộc di cư năm 1954 không phải chỉ là vấn đề chính trị của
một tập thể người chọn lựa một thể chế chính trị. Điều đó
đúng nhưng không đủ. Một triệu người di cư chuyên chở theo
cả một nếp sống văn hóa, phong tục, tôn giáo, cách làm ăn,
cách suy nghĩ sinh sống, tính nết và cuối cùng cách ăn cách
nói. Chữ nghĩa đă làm một cuộc di cư không tiền khoáng hậu
trong lịch sử của người Việt từ Bắc vào Nam.
Khi lần đầu tiên tiếp xúc lại với chữ nghĩa miền Bắc sau 20
năm xa cách. Người viết có cái cảm giác sung sướng đến ngạc
nhiên, đến bỡ ngỡ v́ nhớ lại những chữ nghĩa tưởng chừng đă
quên nay nhớ lại. Sau bao năm xa cách, h́nh như bắt lại được
ḿnh, nối lại được dĩ văng thân thuộc, gần gũi. Chẳng hạn,
lúc đọc nhà văn miền Bắc Vũ thư Hiên trong cuốn Miền Thơ ấu
và nhất là cuốn Chuyện ở tỉnh lỵ, hay Tô Hoài trong O chuột
(1942), Nhà nghèo (1944) và nhất là Cát bụi chân ai (1992),
Nguyên Hồng, trong Cửa Biển, Nguyễn Tuân người Lái đ̣ trên
sông Đà, Nam Cao với Chí Phèo, Đôi mắt. Nguyễn Khải với Mùa
lạc. Lê Lựu với Một thời xa vắng. Và gần đây thôi Nguyễn
khắc Trường với Mảnh đất lắm người nhiều ma. Họ, những nhà
văn, đă làm sống lại từ trong mồ nhiều chữ mà người viết đă
nghe, hoặc chính ḿnh đă dùng và nay đă quên, đă không dùng
nữa. Người viết cảm động như một khám phá, như một sưởi ấm
lại kư văng đă quên. Chẳng hạn thay v́ nói, ông ấy bệnh nặng,
sắp chết, hay ông ấy đang hấp hối, đă cấm khẩu, tay bắt
chuồn chuồn. Nhưng hạ một câu : Ong ấy sinh th́ rồi th́ đă
quá. Và cứ như thế dàn trải ra khắp các cuốn sách quê hương
cũ t́m về, dấu chân kỷ niệm và niềm thơ ấu sống lại.
Chữ nghĩa như có hồn được vực dậy, thổi thêm sinh khí. Phần
lớn những thứ chữ này có vào thời tiền chiến và gần như bị *
đoạn tuyệt * vơiù TLVĐ. TLVĐ chẳng những đoạn tuyệt với
phong tục, nếp sống cũ mà cả với chữ nghĩa cũ nữa. Như vậy,
song song với nhóm TLVĐ, vẫn c̣n sót lại một ḍng văn học
ngược chiều với nhóm Văn Hoá Ngày nay và cứ thế nó kéo dài
đến bây giờ. Và một lần nữa, nó lại phải đương đầu với những
nhà văn trẻ, thế hệ sau 1975, thế hệ sau cởi trói hay sau
nữa Hậu Hiện đại.
Cũng một cách thức tương tự, người ta t́m thấy ở miền Nam
với Nhóm Sáng Tạo đổi mới nội dung, giải phóng chữ nghĩa
bằng cách xử dụng những từ có vóc dáng triết lư thời thượng.
Bên cạnh đó có một ḍng chảy văn học chữ nghĩa như khe suối
nguồn, lau lách, rỉ giỏ giữ lại cội nguồn, giữ lại bản sắc
của ḿnh với Sơn Nam, B́nh nguyên Lộc và đặc biệt nhất là
nhà văn lê Xuyên. Đây là một hiện tượng văn học có vóc dáng
và đáng nể.
Nhưng chuyện phải đến đă đến. Càng đọc các nhà văn miền Bắc,
càng thấy chữ nghĩa mất nhiều lắm. Đếm không hết, nói mấy
cũng không đủ.
Luật của đa số
O bầu th́ tṛn, ở ống th́ dài. Coi vậy mà đúng lắm. Người
mới đến phải vào khuôn, phải thích ứng, phải hội nhập. Sức
ép của đa số buộc người mới tới vứt lại hành lư mang theo.
Ngôn ngữ, tiếng nói phải vứt dầu tiên v́ nó khác người ta
quá. Tiếng nói là cái phải điều chỉnh đầu tiên. Phải vặn lại
đinh ốc hàm đưới, điều chỉnh lưỡi, điều chỉnh tần số âm
thanh ở tai, nhất là một thảo tŕnh mới cho bộ óc. Càng ít,
càng thiểu số, càng vào nhanh, càng giống khuôn đúc. . Cái
mà c̣n giữ lại cuối cùng là giọng nói.
Thoạt đầu là các chữ chửi của dân miền Bắc vốn là sắc thái
văn hoá bản địa. Đặc thù và cá biệt. Ai chửi hay và chửi có
bài bản, có nghệ thuật, có vần điệu, ví von, có tay nghề
bằng miền Bắc. Chửi hay như thế nên có kẻ làm nghề chửi thuê
kiếm ăn. Chẳng hạn, trong chuyện Chí Phèo của Nam Cao, Chí
Phèo chửi để lấy tiền uống rượu đến tay sừng sỏ trong làng
như lăo Bá cũng chào thua. Có những chữ nghĩa thuộc loại anh
chị, kế thừa một truyền thống mở mồm ra Dịt.. mẹ, địt bố,
chửi có tay nghề ở miền quê nghênh ngang lên tầu há mồm, coi
ai chẳng ra ǵ. Vậy mà vào đến miền Nam gặp anh Hai ở cầu Ba
Cẳng hay bến Tầu Sàig̣n, chị Ba Cầu Muối, Chị Năm chợ cá
Trần quốc Toản đành tắt tiếng. Các chị chữ nghĩa miền Bắc
vẫn có thói quen đứng dạng háng, tốc váy, hoặc vỗ đồ bồm bộp
đứng xo ro một góc khi nh́n thấy những thằng cha bự tổ
trảng, cởi trần, cười th́ mồm vàng choé những răng vàng .
Không im tiếng sao được. Đâu đây nghe tiếng : Thằng nào ngon
ra đây, Đù má thằng nào vừa mới địt đây. Tiếng chửi thề của
tay anh chị miền Nam không có lời đáp trả. Tiếng chửi tục
biết thân, biết phận tan hàng. Tất cả những tiếng chửi tục
đủ loại đă có một thời khét tiếng tỉ như Tiên sư bố, tiên sư
cha, tổ sư cha, bú cặc, bú buồi, địt nọ địt kia, liếm, sờ,
chui. Không bao giờ được nghe nữa. Chả bù với ở miền Bắc,
nhớ lại các anh chị chữ nghĩa này chửi ra rả cả ngày, cả đêm
không ai dám đụng đến. Trong suốt 20 năm sống ở miền Nam,
sống chung đụng với dân miền Bắc, người viết chưa nghe, dù
một lần địt nọ, địt kia nữa. Cùng lắm , nghe chửi trên Tivi
vào những dịp tết.
Thứ đến các chữ liên quan đến bộ phận sinh dục, các hành vi
liên quan đến chuyện sinh lư, bài tiết, đến chuyện ăn nằm
giữa hai vợ chồng. Người Bắc có văn hoá cao, tránh cái thô
tục không cần thiết nên đă có trăm cách, trăm lối diễn tả xa
xôi, bóng gió được coi là tao nhă. Vào trong Nam dẹp hết tất
tần tật. Cái nào ra cái nấy phân minh, đơn giản và vắn gọn.
Đi cầu là đi cầu. Đụ là đụ. Không bầy đặt hoa ḥe, hoa sói.
Cái đơn giản, cái thực tiễn không hàm ngụ, không gợi ư đôi
khi lại thanh tao gấp mấy lần cái thanh tao thứ thiệt. Khi
viết chữ C. nửa chừng, chữ L. nửa chừng, tưởng rằng kín đáo,
tưởng rằng thanh tao đă là cách để cái đầu làm việc, cái đầu
nghĩ bậy. Chữ là thế, nghĩa lại khác. C viết tắt. L. viết
tắt th́ tha hồ hồ cái đầu lùng bùng nghĩ bậy.
Tính chơn chớt , thật thà, có sao nói dậy đánh văng chữ
nghĩa miền Bắc.
Bên cạnh chửi tục, người Bắc c̣n có lối nói mát, nói mỉa,
nói xéo, chê bai cũng độc địa lắm. Chửi cha không bằng pha
tiếng là v́ vậy. Những lối nói này xử dụng trong những liên
hệ, tương quan gần như người quen thuộc, người làng, người
hàng xóm, bạn bè. Nó có nhiều cấp độ từ chê bai, khinh bỉ,
trách móc, coi thường giận hờn, bực bội.. Nó chứa chất chút
ǵ độc ác, bơi móc từ tính nết chi li từng cử chỉ, gia cảnh,
cái nghèo, cái đói, cái bần tiện, rạch ṛi từng cái dốt nát,
cái ngu xuẩn, cái kém cỏi, cái độc ác của mỗi người.
Tỉ dụ nói mỉa mai : Cái mặt nó vác lên, trông nó đú đởn, ăn
cơm hớt ấy, cho chó ăn. Thường sự mỉa mai nhắm vào sự nghèo
khổ, sự ăn uống, vào tính nết, về phái tính và sự đe dọa.
- Về nghèo khổ : Dân miền Bắc túng quẫn nên lấy cái ăn, cái
uống làm đầu. Lúc giận rủa nhau cũng mang cái ăn uống ra mà
nhiếc móc nhau kể cũng không lấy làm lạ. Tỉ dụ diếc móc
người ta như : nghèo rớt mồng tơi, nghèo lơ đít, thí cho nó
tư tiền, cứ gọi là đói vàng mặt, đói dă họng. Nghe những chữ
diếc móc trên đôi khi đau ḷng c̣n quá chửi. V́ thế, người
đời mới sợ tiếng diếc móc đến cầm bát cơm lên ăn không
nổi..V́ thế có tâm trạng khác nhau : Khi nghe chửi, ta thấy
tức giận, khi bị diếc móc, ta cảm thấy nhục. Từ tâm trạng đó
kéo ra hai lối phản ứng. Khi bị chửi, ta chửi lại hoặc muốn
đánh trả lại, ăn miếng trả miếng trong tương quan b́nh đẳng
và rất có thể tương quan bất b́nh đẳng, kẻ yếu chửi kẻ mạnh.
Nhưng khi bị diếc móc, bị xỉ nhục th́ tương quan lệch, kẻ
trên-kẻ dưới, nên nạn nhân hầu như không có đ̣n để đỡ, v́
yếu thế không dám đáp trả, cam chịu ẩn nhẫn và cùng lắm nuôi
hận trả thù. Cho nên, về mặt tâm lư, bị diếc móc vẫn đau hơn
bị chửi. Thông thường những người có văn hoá, những người có
địa vị, ở trên người khác có giáo dục thường ít chửi mà nói
diếc, nói móc, nhẹ hơn là nói bóng , nói gió..
Về tính nết : Phải quen biết, phải qua lại mới biết nhau,
biết từ chân tơ kẽ tóc, đến lúc giận hờn th́ mang tính xấu
người khác ra rủa. Chẳng hạn rủa : mắt ông viền cải tây rồi,
đồ thông manh, trông vậy mà đáo để ra phết, đồ ông mănh, cứ
giăy .. lên như đĩa phải vôi, nhanh nhẩu đoảng, lanh cha
lanh chanh. Tất cả những lối nói trên đều dựa vào một sự
vật, vào một biểu tượng cụ thể có thật để gợi lên một ư
tưởng xấu. Biến cái cụ thể thành một ư niệm trừu tượng
Cả một nếp sống văn hóa, truyền thừa, kinh qua kinh nghiệm
mới nhận ra cái tế vi, cái dị biệt mà biên giới nghĩa chỉ
cần xảy chân một cái là dùng sai, hiểu sai. Xử lư đúng chỗ,
đúng trường hợp hẳn không phải là dễ. Đồ thông manh th́ nặng
hơn mắt ông viền cải tây. Đồ cám hấp th́ nặng hơn đồ dở hơi.
Đồ láu cá láu tôm th́ nặng hơn đồ ông mănh. Nói không đâu
vào đâu th́ khác nói chua như dấm. Cân nhắc vụ việc, đánh
giá từng trường hợp, xử lư người – việc – rồi dùng từ..
thích đáng. Tất cả đ̣i hỏi sự khôn ngoan, tính toán và chải
đời. Đó là thứ văn hoá chửi mà không ăn ṃn bát ṃn đĩa ở
miền Bắc không hiểu thấu đáo được. Vào đến miền Nam sau này,
người dân miền Nam với nếp sống giản dị đă trấn áp người
miền Bắc, quy kết là khôn ranh. Bỏ đi Tám. Đù má, nói ǵ th́
nói mẹ nó đi cho rồi, ṿng vo tam quốc hoài, mệt quá. Vậy là
phải dẹp cái thói xỏ xiên, văn hoa chữ nghĩa. Người miền Bắc
di cư chỉ có mỗi một con đường trong lối sống và cư xử mới
là dẹp bỏ tất cả những từ chửi bới, diếc móc ở trên. V́ thế,
mấy ai c̣n nhớ đến những lối diếc móc trên.
- Về phái tính : Người phụ nữ miền Bắc vốn là nạn nhân của
nhiều thứ, của đủ thứ đến cái ǵ xấu đích thị là của phụ nữ.
Đến cái ǵ khen th́ thật sự cái đó có lợi cho đàn ông. Khen
tứ đức tam ṭng là lời khen chết người, buộc chặt, trói chân
người phụ nữ thành tên nô lệ không công. Khen tiết hạnh khả
phong là lời khen trớ chêu nửa khóc, nửa cười. Khen trinh
tiết làm đầu là một lối khen họan, khen thiến không hơn
không kém, chẳng khác ǵ hoạn quan. Nói tách bạch ra, con C…
là chúa, là vua.
Nhưng những lời nguyền rủa quả không thiếu mà có thừa.
Tôi muốn đứng ra, nghểnh cao cổ, ḥ hét bênh đàn bà cũng
không được. V́ t́m đến nửa ngày cũng không kiếm đâu ra chữ
để chửi bọn đàn ông. Thử xem nào : đồ đàn ông đĩ ngựa. Nghe
không ổn. Đồ lẳng lơ. Cũng không nghe ra tai. Cuối cùng t́m
ra được vài chữ đáng đời : Đồ súc sinh và một chữ dấm da dấm
dớ : Đồ cha căng chú kiết. Thật đến là tức, tự nhiên xổ ra
được một lô chữ cho hạ hoả : đồ du côn du kề, đồ ăn mày ăn
xin, đồ ǵ nữa nào.. đồ lính tráng.
Cái may của phụ nữ miền Bắc là vào đến trong Nam, họ đă
không bao giờ c̣n bị ai diếc móc như thế nữa.
Than văn hay dọa nạt : đă nói th́ phải nói hết. Bên cạnh đó,
ở mức độ chừng mực vừa phải dễ dung nhận được là các lối nói
than văn, hăm đe. Trong lối nói này, người ta tỏ ra một oai
quyền, một sự khôn ngoan dà dặn, một sự từng trải, sự hiểu
đời, cái hơn người. Chẳng hạn : Các người đừng có vội tí ta
tí toét, cứ ỉm đi, cứ im thin thít, thời buổi nhiễu nhương,
trắng đen lẫn lộn, hơi đâu mà, có dỗi hơi, kêu giời kêu đất,
tôi vội vàng mát mẻ nói, đừng có bắt bí nhau, liệu cái thần
hồn, bà truyền đời cho mà biết, cứ tẩn cho nó một trận đến
ḷi tù và ra, vả vào miệng cho tôi, cái giống nhà mày, không
có tao th́ cả họ này ăn bùn, nó bôi tro chát chấu vào mặt,
mấy đứa kia th́ đáng vật một nhát cho chết, nó lo xanh mắt
và thức suốt đêm, hừ ngỡ là ǵ, hóa ra hắn nằm vạ, giận cá
chém thớt, bà truyền đời báo danh cho mày biết, tôi biết
tỏng ṭng tong trong bụng ông nghĩ ǵ, chớ nói gở nó vận vào
ḿnh, e xúi quẩy đấy.
Người miền Nam nghe những câu trên là sùng rồi : rắc rối tổ
mẹ, cái ǵ mà ví von qua không hiểu. Qua nói thiệt, qua có
sao nói dzậy. C̣n mấy cha nội, nói dzậy mà không phải dzậy.
Có ngon ra đây, kiểu ǵ qua cũng chơi ráo trọi. Kiểu ǵ nó
cũng chơi th́ né đi cho được việc, dở sách thánh hiền ra đă
có câu thánh dậy : tránh voi chẳng xấu mặt nào.
Phong kiến qua lối xưng hô bị dẹp bỏ.
Có lẽ không ở đâu, không ở nước nào cách xưng hô lại phức
tạp lầy nhầy như miền Bắc. Mới đây, trong một chương tŕnh
Vidéo, người viết thấy một cô ca sĩ trẻ được người điều
khiển chương tŕnh phỏng vấn.. Lúc phải trả lời, cô lúng ba,
lúng búng, v́ không biết phải xưng bằng anh, chú, bác hay
nhà văn với người điều khiển chương tŕnh. Bác có vẻ già
quá, anh th́ có vẻ hơi xỗ xàng. Ong th́ xa lạ. Cậu tớ th́
xấc quá. Trong cái cách học ăn, học nói của người Bắc th́
bài học vỡ ḷng là học cách xưng hô. Trẻ con nào mà không
được bố mẹ dạy phải xưng hô tùy theo tuổi đă đành, theo quan
hệ họ hàng, theo chức vụ và theo xă giao nữa. Những tiếng
thầy bu, thầy u, thầy đẻ, thầy me, cậu mợ, đằng ấy, cậu tớ,
người nhớn, con nọï, con kia, huynh, đệ, quan bác, thằng cu,
con đĩ, mẹ đĩ nhà tôi, nhà con, ông mănh, thằng trời đánh
thánh vật, thằng chết băm chết bằm tùy trường hợp mà dùng.
Nhưng bắt chước người Tầu, ta c̣n có chữ Gia phụ, Gia Mẫu,
Gia Huynh, chỉ bực bề trên hay xá đệ, xá muội chỉ bực dưới.
Bấy nhiêu lối xưng hô vào đến miền đất mới như lạc lơng ,
thi nhau bị * cáp duồn * hết. Không ai nói nữa. Do sức ép
hay do tự ḿnh cảm thấy lỗi thời, thấy dởm, thấy cầu kỳ,
thấy rắc rối, thấy * không giống ai* thấy cần phải bỏ. Có lẽ
thấy cái không giống ai là lư do của sự ra đi không trở lại
của các cách xưng hô trên.
Các chữ dùng để gọi, xưng danh quan tước chức sắc cũng nhiều
lắm. Cũng phiền lắm. Nhiêu khê lắm. Không xưng đúng danh
phận, có thể bị trách, bị giận, bị trù ếm nữa. Nhiều không
đếm xuể. Hầu hết, việc hài chức vụ có dụng ư, tâng bốc nịnh
nọt. Nó đă dần biến mất khi vào đến trong Nam. Nó biểu tỏ
một xă hội phong kiến, đẳng cấp, trên dưới không thích hợp ở
miền Nam. Người dân miền Nam cũng là di dân, có cái may mắn
không thừa hưởng di sản của một xă hội phong kiến, hủ lậu.
Xă hội đó lo kiếm miếng ăn, làm giầu, không nghĩ đến chữ
nghĩa thánh hiền, cũng chẳng bận tâm đến kẻ trên người
dưới.. Xă hội vừa ổn định, chưa mọc ra những mầm mống của
thứ ổn định kiểu trên đè dưới, quan lại, thứ dân, giai cấp
thống trị. Làng xă mở toang, không hàng rào vây kín.. Xă hội
cũng mở toang mọi phía mà dân là chính, dân là chủ. Sự xưng
hô v́ thế giản tiện và tuỳ tiện, đáp ứng nhu cầu thực tiễn.
Ba má th́ là ba má. Khi cần gọi chung là ông già bà già. Nội
việc xưng hô cũng thấy miền Nam đuợc cởi trói nhiều theo
tinh thần tự do, dân chủ. Người Bắc từ xa tới, lẽ nào không
thấy cái hay đó. Lẽ nào không theo, tự ư theo. Để gọi một
người ở, người trong Nam chỉ gọi chung chung là người làm,
vừa dản dị, vừa không có khinh miệt, rẻ rúng. V́ thế, nếu
c̣n ai gọi cụ đốc th́ thay v́ là một trân trọng, nó đă biến
thành tṛ cười, mai mỉa. Hóa cho nên, chữ nghĩa có cái thời
của nó, thời để sống và thời để chết.
Cách làm ăn có khác, chữ nghĩa cũng đổi khác
Cũng là xứ nông nghiệp, nhưng cách làm ruộng, cách sinh sống
cũng khác miền Bắc nhiều lắm. Chữ nghĩa cũng v́ thế cũng đổi
theo. Rất nhiều chữ, từ miền Bắc , vào Nam không ai dùng
nữa, v́ đời sống kinh tế, xă hội đă thay đổi. Nghề hàng xáo
( xay giă gạo. Trong Nam không có nghề này ), Ruộng chân
nhất đẳng, nhị đẳng, ruộng mật điền (Ruộng tốt nhất ) gian
buồng, khóa dăy, rau muống lợn, đi đong gạo, dậm lại mái
nhà, ḥm gian ( Ḥm to để đựng đồ trong nhà ), nhà pha (nhà
tù), nhà giây thép, xe ḥm ( Xe hơi sang trọng ) ngày con
nước, đi lưới, cái niêu, nồi đất, chỉnh dầu, rổ rá, dao
quay, dao nhựa, một bồ, vuông thóc, giây lạt, dùi đục, cái
cũi, đóng cũi, cái cưa xẻ, cái gáo, cái chum, cái lọ độc
b́nh, cái phên nứa, bát chiết yêu, đi bể ( biển), tậu 3 mẫu
ruộng, vác thúng, đèn măng xông, cái lồng ấp, cái hỏa ḷ
than. Chữ sau đây cũng xưa lắm rồi, nhưng đến là hay : nhà
xí. Nay thi nguời ta văn minh hơn gọi là nhà vệ sinh, trong
Nam gọi là nhà cầu, siêu đun nước, cái áo quan, cái nhị tẩu
( tẩu hút thuốc phiện), khay đèn, quạt lông, tràng biên
(thân thế một người), đèn ló, cái mả, cái sập, cái phản,
quần nái ( quần dệt bằng một thứ hàng tơ tầm sợi thô, nhuộm
den ), cái b́nh phong, con tḥ ḷ, đỉa phải vôi, giọng kẻ
bể, cái trơng che, cót lúa, một bồ, vuông thóc, gạch bát
tràng, gạch lát bổ cau (Lát xiên và dựng nghiêng viên gạch )
gạch vồ, cái mả , rồi có cải mả, đề lao, cái lọ. Tỉ dụ :
sách hai cái lọ đi Kín nước. Chữ kín nước nghe thật hay,
nhưng cũng ít được ai dùng tới nữa. Cái màn. Rồi từ đó thay
v́ nói đi ngủ, người ta c̣n nói vào màn . Thợ ngơa.
Người miền Bắc chân lấm tay bùn, làm ăn vất vả. Miền Nam,
ruộng thẳng cánh c̣ bay, làm chơi ăn thật. Đi mút mùa lệ
thủy không thấy nhà thấy cửa, nhất là không thấy tháp chuông
nhà thờ, không thấy đ́nh, thấy chùa. Cái nh́n về con người,
về đời sống, về cách sinh hoạt làm ăn của người Bắc đă đổi
khác. Chẳng mấy chốc cái ngậm ngùi lúc ra đi nay quên hết.
Cứ ǵ chữ nghĩa bỏ quên, đất lề quê thói, phong tục, tập
quán, đạo nghĩa cứ thế mà rơi rụng dần dần. Thay v́ so đo,
khép kín, bảo thủ, giữ lời ăn tiếng nói, giữ phép nhà bắt
đầu buông thả. Thay v́ chiếu trên , chiếu dưới, có phép có
tắc.. nay ăn nói thả dàn, chả kiêng nể ǵ nữa. Con gái, con
đứa nay tụn năm tụm ba đàn đúm , hát xướng, thích th́ ra
rặng trâm bầu tán tỉnh, mọi chuyện hạ hồi phân giải.
Thành tŕ cuối cùng : văn minh miệt vườn đối đấu với văn hóa
miền Bắc.
Người miền Nam, chữ nghĩa chỉ vừa đủ dùng, nếu không nói là
c̣n sơ sài lắm so với miền Bắc. Nó là thứ văn minh miệt vườn
không đủ để ba hoa trên trường văn trận bút. Cái điều đó đă
được nhà học giả Phạm Quỳønh nhận xét một cách khá bất công
trong cuốn Một Tháng ở Nam Kỳ :
* Chữ Quốc ngữ th́ đă thông dụng lắm rồi, đàn bà con trẻ
thường biết đọc, biết viết cả.. Nhưng đến văn Quốc Ngữ th́
xem ra cái tŕnh độ Quốc Văn đại để hăy c̣n kém *
Nhận xét đó, có lẽ người trong Nam chả bao giờ quên và thành
kiến đó người Bắc cũng chả bao giờ thay đổi. Cho đến giờ
phút này, cái văn minh miệt vườn đó, cộng với 20 năm văn học
miền Nam đến sau 75 vẫn chưa được nh́n nhận.
Thành ngữ hay lối nói miền Bắc là vốn liếng ngôn ngữ của một
dân tộc. Nó tích lũy, thải loại kết tinh những đặc thù,
những sắc cạnh của ngôn ngữ, của vốn liếng hiểu biết truyền
thừa. Nó không thừa, không thiếu, nó vừa đủ. Nó được xử dụng
trong đời sống hằng ngày như kim chỉ Nam, nó đưa ra những
tiêu chỉ đời sống, phán xét, nhận định phải trái tốt xấu. Nó
là thứ ngôn ngữ đă được đăi lọc, được truyền thừa của sự
khôn ngoan, thu gọn lại. Phải là người địa phương, nhuần
nhuyễn sắc thái văn hóa bản địa mới có thể xử dụng đúng
cách, đúng trường hợp. Người ngoại cuộc, nhất là người ngoại
quốc, dù có ở lâu năm tại đất nước đó, chưa dễ giầu ǵ nắm
bắt được t́nh ư, nội dung hàm ẩn của những thành ngữ đó.
Miền Bắc, cái nôi văn hóa lâu đời cả nước giầu dân tộc tính
nhờ những lối nói, lối viết đó. Nó chuyên chở cả thời kỳ
1000 năm thủ đô Hànội, văn hoá Thăng Long, văn hóa cho cả
nước với không biết bao tên tuổi lẫy lừng. Nó không phải tự
cao rao, quảng cáo vô bằng. Người và chứng tích văn học c̣n
đầy ra đấy. Viết ngàn trang giấy cũng chưa đủ.
Vậy mà lên khỏi tầu há mồm, cập bến Nhà rồng.. Tất cả những
thứ đó đổ xuống sông hết. Bài chiếu Lư công Uẩn dời đô không
lẽ mang ra dọa .. Lư Thường Kiệt, bà huyện Thanh Quan cất đi
cho rồi v́ chóa mắt với xe cộ chậy hà rầm.. đường phố rộng
thênh thang, tấp nập người qua lại, xe gắn máy ba bánh nổ
bành bạch điếc con ráy. Xe thổ mộ lách cách vui tai thong
thả dời chợ Bến Thành đi Ngă Ba ông Tạ, hay đi chợ Bà Chiểu.
Chú lái xe thổ mộ ngồi nghiêng bên thành cán xe ngựa thogn
chân xuống đất, mồm kêu toóc toóc như dục chú ngựa ráng tư
nữa, ráng tư nữa đi cưng. Hoa trái bầy la liệt mua một chục
ê hề đủ loại. Bà bán hàng ra giá mua một chục có đầu., nghĩa
là chục có thể 11, 12 đến 13 trái tùy theo thỏa thuận. Nội
thế thôi, mua bán kiểu kỳ cục Nam Kỳ cũng thấy đủ sướng rồi.
Thật đến là kỳ lạ cái xứ Nam Kỳ. Chẳng ai bảo ai, ngay cả
đám sĩ phu Bắc Hà, đám trí thức thành thị cũng rứa. Quên hết
chơn, hết chọi.. Câu chuyện văn hóa ngàn năm chẳng chống đỡ
nổi một ngày.
Người Hà nội, người di cư có văn hóa cao, hoặc các nhà văn
thường xử dụng chúng một cách nhuẩn nhuyễn trong lúc giao
tiếp, viết lách. Nói văn hay chữ tốt, nói có văn hóa đương
nhiên phải biết xử dụng thành ngữ đó, lối viết đó như một
thuật ngử, nói ít hiểu nhiều. Miền Bắc có những nhà văn tiêu
biểu xử dụng vốn liếng các thuật ngữ này như Trần Tiêu, Vũ
trọng Phụng, Tô Hoài, Vũ Thư Hiên, Nguyễn khắc Trường. Đọc
họ cũng lư thú lắm.
Vậy mà chữ nghĩa đó vào đến trong Nam đă bị gạt , thải loại
không chừa một chữ nào. Không muốn nghe, nghe th́ gạt đi,
muốn nói cũng không được.. Nói ra th́ nó đớ đờ đờ. Có duyên,
được kính nể ở ngoài Bắc, trong Nam trở thành vô duyên,
không ngửi được. Đă thế, chữ nghĩa đễ có cơ tồn tại, nếu nó
được các nhà văn dùng..th́ đỡ biết mấy. Chính các nhà văn di
cư vào Nam như nhóm Sáng Tạo cũng quăng thùng rác không
thương tiếc. Chúng bơ vơ , lạc lơng , đầu đường , góc nhà,
góc phố, nơi từng nhóm người rồi biến dạng. Không có đám ma.
Không kèn không trống. Cái này không phải hoàn toàn lỗi
người bản địa mà chính tại người dân du nhập không muốn giữ.
H́nh như có một thói quen xấu, có mới nới cũ.. Ít ai muốn
nhắc nhở, bàn , viết về những chói sáng văn học miền Bắc.
Có lẽ cái mất lớn nhất của dân di cư là mất lối nói, lối
viết, nếp sống văn hoá thành ngữ đă bị biến dạngï. Nếu c̣n
một thứ văn hoá ǵ là thứ * Văn hóa chảy* Chảy tuốt luốt.
Với cái độ nóng trung b́nh 35 độ, cái ǵ cũng có thể chảy
được. Bù vào chỗ đó, họ phải đi t́m một hướng viết mới, mới
có nghĩa là khác với tiền chiến, khác với Tự lực Văn đoàn.
Mới thực sự th́ chưa biết là thế nào, chưa biết h́nh thù nó
ra sao, nhưng điều rơ rệt là dứt bỏ truyền thống, cái cũ,
trong đó có các thuật ngữ cũ của miền Bắc.. Họ không thích
ngồi lau đồ đồng, đánh bóng chữ cũ mà đùa cợt mầu mè, son
phấn với chữ nghĩa cho là mới, kêu rổn rảng, lặp đi lặp lại
đến lập dịơ. Chữ nghĩa đó mà phần đông họ nói để họ nghe
hoặc dành cho một thiểu số trí thức thành thị vốn chẳng đại
diện cho cái ǵ, ngay cả cho chính họ. Chữ nghĩa đó gặp lần
đầu thấy lạ th́ muốn làm quen. Quen rồi th́ chán ngấy muốn
lỉnh , v́ chẳng nói được điều ǵ. Chính ở chỗ đó, chữ nghĩa
văn minh miệt vườn trở thành nhu cầu tinh thần của đa số dân
miền Nam. Cả cái văn hoá miền Bắc đưa vào bị cháy rụi chỉ
c̣n trơ lại ít cột kèo đen thui. Không ai đếm xỉa đến nữa.
Phần người viết, bắt gặp lại nó thấy gần gũi như người bạn
cố tri lâu ngày gặp lại. Tự nhiên chẳng khác ǵ thấy người
bạn đầy những tính tốt mà trước đây đă không lưu ư tới. Phải
nói nó hay lắm, đượm mầu sắc dân tộc, quê hương, xứ sở
Thay lời kết luận : Nhà văn trước hết là người xử dụng ngôn
ngữ như một người đầu bếp dùng rau cỏ, thịt thà, gia vị nấu
món ăn. Làm văn không nhất thiết là sáng tạo từ mới, chữ
mới. Chùi đồ đồng, đồ cổ không nhất thiết là nhai lại. Bởi
v́, cùng một từ, một chữ được dùng đúng trong từng cảnh
huống, nó vẫn có chỗ đắc địa. Rất tiếc là trong tất cả các
nhà văn miền Bắc di cư vào Nam đă tự ḿnh cắt cái đuôi quá
khứ mở ra một lối viết mới. Hay cũng có, mà dở cũng không
thiếu. Tuy không vay mượn vốn cũ, vay mượn cái cũ của người
làm cái mới của ḿnh th́ tự nó vẫn là vay mượn, vẫn là cái
cũ, vẫn là đi chùi đồ cũ. Cho đến nay, những suy tư, những
trăn trở hiện sinh về sự tồn tại, về ư nghĩa đời sống của
các nhà văn ấy, sau 54, xét ra cũng chẳng có đất sống nữa.
Chẳng nói đâu xa, lối viết, lối suy nghĩ của trí thức thành
thị, trưởng giả vay mượn, đượm không khí pḥng trà với cà
phê, thuốc lá, ánh đèn mầu, tiếng nhạc xập x́nh tự nó đă
không có đất đứng nữa sau biến cố Phật giáo 63. Từ đó, chiến
cuộc leo thang, lối viết hưởng thụ, suy tư trưởng giả về ư
nghĩa đời người, về cái đáng sống hay dư thừa nhường chỗ cho
lối viết nhập cuộc, dấn thân. Các nhà văn thời buổi 54-55
một lần nữa trượt dốc, bơ vơ, lạc lơng trong cuộc đu giây
chữ nghĩa. Cuộc di cư năm 1954 đáng nhẽ là một cuộc hành
tŕnh chữ nghĩa, tiếp nối cái sợi giây văn hoá nối dài hai
miền, tự nó đánh mất đi khúc ruột liền sản sinh ra một thứ
văn chương không gốc. Lẽ dĩ nhiên, cạnh đó, nhiều trào lưu
tư tưởng, văn học cũng góp vào các ḍng chảy chung đó. Người
viết gợi lại những chữ nghĩa của thời xa xưa miền bắc, có
những chữ tự nó cũng không c̣n được dùng nữa ở miền Bắc.
Điều đó thật tự nhiên và dễ hiểu. Nhưng phần đông, chúng vẫn
là cái vốn liếng văn hóa của đất nước, của dân tộc nói chung
vượt lên trên những đối lực chính trị vốn lúc nào cũng là kẻ
thù của văn hóa. Nghĩ như thế mới thấy vai tṛ và sứ mệnh
nhà văn quan trọng đến bực nào. Bài viết này, đă hẳn chưa
đầy đủ, v́ c̣n rất nhiều chữ bị bỏ quên chưa được nhắc tới,
lại chưa hệ thống hóa đúng mực, nhưng trong chừng mực của
một bài báo, thiết tưởng cũng là một hoài niệm của những
người di cư nay di tản ra xứ người để có dịp nhâm nhi, dịp
nhớ lại và hồi tưởng về một dĩ văng đă qua. Và có lẽ đó là
mục dích chính của bài nầy theo cái nghĩa : Vang bóng một
thời của chữ nghĩa.
HOME
contact : lekhanh@art2all.net
|