Nguyễn Văn Lục

 

20 năm triết lư Tây phương ở miền Nam Việt Nam 1955-1975

 

 

Từ năm 1918 bắt đầu chấm dứt thi Hương. Nhưng măi đến năm 1950 mới bắt đầu có kỳ thi tú tài 2, tiếng Việt. Có nghĩa là chỉ trong ṿng 25 năm, môn triết Tây mới chính thức được giảng dạy ở Bắc và nhất là miền Nam VN.. Thời gian kể là ngắn. Vậy mà sức tác động và ảnh hưởng của nó trên giới thanh niên trí thức miền Nam thật lớn lao đến không ngờ được. Chúng tôi đă gặp lại bạn bè cùng trang lứa đều cảm thấy hănh diện về điều ấy.

 

 Bài viết này viết với tâm thành của một người trong cuộc nh́n lại ḿnh, nh́n lại bạn bè, nh́n lại thế hệ ḿnh, nh́n lại tầm ảnh hưởng những tư tưởng ấy trên mỗi cá nhân. Nó đă cuốn lốc theo cả một thế hệ như cơn lũ, kéo theo những bè mảng,  những *ngộ nhận*, những *huyền thọai* từ nhiều phía,  ngay cả những om x̣m nếp sống chán chường buông thả. Nhưng nó cũng nâng lên tầm cao ư thức trách nhiệm, *dấn thân*, *nhập cuộc*, *lên đường* và  đưa đến những quyết định chọn lựa, những thái độ trước thời cuộc của từng người.. Nó cũng ảnh hưởng trên những xu hướng chính trị, những xác lập về một thái độ cần phải có trước hiện t́nh đất nước như chống chiến tranh, khát vọng ḥa b́nh, mong mỏi đất nước không c̣n chiến tranh, cho cây rừng c̣n xanh lá. ( tựa đề sách của Nguyễn Ngọc Lan)

 

Đă có biết bao nhiêu đổi thay, biết bao ngă rẽ, chọn lựa, cảm thức về sự thành bại hay thất vọng, nhưng chúng tôi cảm thức được rằng chúng tôi đă nhận được từ một nền giáo dục ấy những hành trang cho tuổi trẻ lên đường. Chúng tôi hănh diện về điều ấy. Bài viết sau đây muốn đi lại từ đầu những vị đă đóng góp cho ngành triết học Tây Phương ở miền Nam Việt Nam, đồng thời nêu bật những đặc tính cũng như tinh thần giảng dạy của môn học này tác động trên giới trí thức thành thị như thế nào. Chúng tôi sẽ giải thích thế nào để chúng tôi có quyền hănh diện. Và đó là mục đích chính của bài này.

 

1.- Những người mở đường

 

Trong giai đoạn đầu tiên, v́ thiếu người có bằng cấp chuyên môn về triết học nên việc giảng dạy hầu như do các linh mục ngoại quốc cũng như Việt Nam đảm nhận. Ở ngoài Bắc, vào những năm 1950-1952, có các linh mục Vũ Kim Điền, thường được gọi là Điền Rôma, Trần Văn Hiến Minh, Bửu Dưỡng, Đỗ Minh Hồng (Papineau) nhất là cha Đỗ Minh Vọng ( Cras )[i]

 

Giáo sư Trần Văn Hiến Minh sau đó đă di cư vào miền Nam, tiếp tục dạy triết những năm 1955 cho học sinh Trưng Vương và Chu Văn An. Giáo sư Bửu Dưỡng chỉ c̣n dạy ít giờ ở Viện Đại học Đàlạt. Trong sách : Các nhân vật ở Huế có bài viết riêng về giáo sư Bửu Dưỡng. Cha Papineau tiếp tục giảng dạy ở các trường trung học do các bà sơ đảm nhiệm như Couvent des oiseaux, Régina Pacis và sau hết dạy tại Viện Đại Học Đàlạt. Riêng cha Đỗ Minh Vọng đă là thầy dạy của rất nhiều thế hệ sinh viên từ Bắc vào Nam. Cha đă có công xây dựng, sáng lập clb Phục Hưng và trước tác về triết học. Cha cũng đứng về phía dân tộc VN chống lại người Pháp, và đă có thời kỳ, ngài đă không được phép quay trở lại Việt Nam.[ii]

 

 Hiện nay, tôi c̣n giữ được một số những bài viết của cha như các bài : Nhân vị trong tác phẩm Hồn bướm mơ tiên. Bài thuyết tŕnh đă được cha Đỗ Minh Vọng viết bằng Tiếng Việt và thuyết tŕnh vào năm 1956, tại Câu lạc bộ Phục Hưng Sàig̣n. Trẻ già, hai thế hệ đối lập. Bài này đă được thuyết tŕnh tại Đại Học Hè 1960. Đàlạt trong khuôn khổ chủ đề : T́m hiểu người thanh niên VN ngày nay. De la mort d!un combattant Vietnamien ( Bài này chứng tỏ cha yêu dân tộc VN như thế nào) những văn bản học tập chữ Nho và cuối cùng bài viết Khánh thành clb Phục Hưng năm 1940, ở Hànội viết bằng tiếng Pháp. Có lẽ đấy là clb sinh viên đầu tiên ở Việt Nam do cha Vọng sáng lập và sau này tiếp tục duy tŕ ở miền Nam Việt Nam.[iii]

 

Ngoài Bắc lúc trước năm 1954, đặc biệt c̣n có Giáo sư Nguyễn Thiệu Lâu dạy triết tại trường Trưng Vương.

 

Sau 1954, ở trong Nam có thêm các giáo sư Nguyễn Khắc Kham, Lữ Hồ, Phạm Mạnh Cương, Nguyễn Bá Cường, cha Trần Đức Huynh. Ngoài Nha trang có giáo sư Cung Giữ Nguyên. Ngoài Huế, cha Cao Văn Luận là giáo sư đầu tiên dạy triết tại trường Quốc Học. Tiếp theo đó có giáo sư như Phạm Văn Hương, và sau thêm giáo sư Văn Đ́nh Hy.

 

Trong giai đoạn khởi đầu này, cần phân biệt 3 thành phần giáo sư đă góp công sức trong việc giảng dạy triết học Trung Học. Thành phần thứ nhất chiếm đa số là các lm phần đông tốt nghiệp đại học ở ngoại quốc hoặc có đủ tŕnh độ để giảng dạy như các lm Cao Văn Luận, Nguyễn Văn Lập, Đỗ Minh Vọng, Papineau, Bữu Dưỡngvv. Thành phần thứ hai là một số giáo sư không có tốt nghiệp đại học  về ngành triết học..nhưng v́ nhu cầu giảng dạy lúc đầu đă đảm trách việc giảng dạy như các giáo sư Cung giữ Nguyên, Phạm Văn Hương, Văn Đ́nh Hy, Nguyễn Bá Cường, cụ Nguyễn Khắc Kham, Bùi Hữu Sủng. Mặc dầu vậy, không thiếu những quư vị đó sau này trở thành những nhà văn hoá của miền Nam như các giáo sư Nguyễn Khắc Kham, Cung Giũ Nguyên,[iv] Bùi Hữu Sủng. Cả hai vị, giáo sư Nguyễn Khắc Kham và Cung Giũ Nguyên cho đến lúc này vẫn c̣n sống, mặc dầu rất cao tuổi, sắp sửa tiến tới con số trăm tuổi.

 

Việc giảng dạy lúc này c̣n có nhiều khó khăn v́ danh từ triết học chưa có đủ để diễn tả những khái niệm triết học. Theo anh Phạm Mạnh Cương, sau này cũng là một nhạc sĩ, sáng tác bản thu ca, năm 1953, lúc mớí 19 tuổi, một trong những học tṛ đầu tiên của cha Cao Văn Luận ở Quốc Học Huế. Anh cho biết là nhiều khi vừa giảng dạy bằng tiếng Việt, cha vừa phải chêm tiếng Pháp. Nhưng có cái may mắn là học tṛ giai đoạn đó đều thông thạo pháp ngữ cả.

 

Thành phần thứ ba, tương đối trẻ lúc đó là các giáo sư tốt nghiệp trường Sư phạm Cao Đẳng Đông Dương. Trường này chỉ có hai khoá, rồi sau đó băi bỏ, v́  có cuộc di cư từ Bắc vào miền Nam. Thật ra mà nói, các sinh viên thời kỳ này chỉ học có hai năm. Trong hai năm đó lại học đủ thứ như sử địa, văn học, triết học. Đó là những người như các anh Lữ Hồ, anh Phạm Mạnh Cương, khóa hai ra trường về dạy tại Mỹ Tho, sau đó đổi về dạy Pétrus Kư. Các giáo sự giảng dạy trong các lớp Cao đẳng sư phạm Đông Dương th́ có Cha Cras, cha Bữu Dưỡng, cha Papineau và cha Nguyễn Văn Lập ( dạy ngữ học).

 

Để giải quyết tài liệu giáo khoa triết trong việc giảng dạy trong giai đoạn này th́ cũng có một số giáo sư như Trần Văn Hiến Minh, Cao Văn Luận, Nguyễn Văn Khiết, Trần Đức Huynh và Phạm Mạnh Cương, Trần Bích Lan viết sách giáo khoa. Trong số đó, bộ sách giáo khoa của cha Cao Văn Luận được coi là bộ sách giáo khoa căn bản nhất, khá gọn, dễ hiểu và c̣n được học sinh dùng trong những năm sau này.

 

Những người đi mở đường đă hẳn là gặp nhiều khó khăn của thuở ban đầu. Cái khó khăn lớn nhất vẫn là trắc trở ngôn ngữ, làm sao chuyển dịch được những danh từ triết học sang tiếng Việt. Tỉ dụ các danh từ như thuộc tính, bản chất, bản tính, bản thể, hữu thể, hữu thể tính, tiềm thể, vô tính, hiện hữu, hiện sinh, hữu hạn, thực tại tính, thực tại tính khách thể, thực tại tính mô thể..

 

Và có thể nói việc học triết khởi đầu là biết đọc, hiểu được các thuộc tính của mỗi từ triết. Không nắm được ư của mỗi từ th́ kể như không nắm được triết thuyết và nhất là hiểu sai lệch triết thuyết ấy

 

Nếu nói như thế th́ cái công của cha Cao Văn Luận, Trần Văn Hiến Minh không phải là nhỏ đối với môn triết dạy ở trung học..cũng như sau này của Nguyên Sa Trần Bích Lan, Vĩnh Đễ, Trần Đức An.

 

Có thể có một nhận xét chung là các vị thầy thời kỳ này đều là những vị thầy khả kính về đức độ, về nhân cách một người thầy và ư thức trách nhiệm của một người thày.

 

Tôi xin được phép ghi lại đây một vài hồi ức của anh Nguyễn Trọng Văn về thầy Gaultier chứng tỏ tinh thần học Triết tây Phương lúc bấy giờ như thế nào. Trong  kỳ thi concours vào ngành Đại Học Sư Phạm triết với đề thi : Triết học là một thái độ luôn luôn đi trên đường ( en route). Và v́ thế, những câu hỏi thường quan trọng hơn những câu trả lời. Anh nghĩ ǵ về  tư tưởng trên.

 

Tôi không biết anh Văn đă viết ǵ về đề tài trên. Chỉ biết rằng anh đă viết ngược với chiều hướng chung, đi ngược với quan điểm của phần lớn các triết gia hiện sinh thời bây giờ. Thầy Gaultier là người đă chấm bài của anh và đă cho anh đỗ cao. Nhưng trong giờ đầu tiên học thầy, thầy đă hỏi ai là người đă viết bài đó. Sau đó thầy cho biết anh viết như thế là không có một chút nào compatible giữa anh và tôi. Và b́nh thường tôi có quyền cho anh rớt. Nhưng tôi tôn trọng quan điểm của anh và cho anh đậu cao. Thái độ của ông thầy đă hẳn trở thành tấm gương cho sinh viên và sau này Nguyễn Trọng Văn đă trở thành một giáo sư Triết xuất sắc, đồng thời anh vẫn giữ thái độ, lối viết phê phán ngược ḍng đối với nhiều vấn đề triết học.

 

Những cuốn danh từ triết học đầu tiên

 

Như đă nói ở trên. Học triết trước hết là học và hiểu danh từ triết học.. Không nắm được danh từ sẽ không nắm được tư tưởng của Triết gia. V́ thế, các giáo sư thời bấy giờ đă có một nỗ lực đáng kể là soạn ngay một bộ sách về danh từ triết học. Theo Cha Trần Văn Hiến Minh, trong lời mở đầu cuốn Từ Điển và Danh Từ Triết học, ngày 21 tháng 1, 1956 đă viết : Ngay từ năm 1952, xuất bản tại Hànội cuốn Danh từ Triết Học do một nhóm Giáo sư dạy Triết Học trong một số trường công tư.. Mục đích của những người biên sọan ra nó là muốn đáp lại nhu cầu Việt hóa môn Triết Học, một môn quan trọng trong chương tŕnh tú tài phần hai Việt Nam lúc đó vừa mới manh nha. Năm 1956, tại Sàig̣n, nhóm họp Hội nghị thống nhất ngôn ngữ từ 5-9 tớỉ 10-9. Trong Hôi Nghị này được thiết lập một ban từ ngữ chuyên môn mà chúng tôi hân hạnh được bầu làm Trưởng Ban. Riêng chúng tôi giữ Tiểu Ban danh từ Triết Học và đă cống hiến độc giả một số danh từ làm mẫu in trong Đặc san về Hội nghị thống nhất ngôn ngữ tháng 11-1956 của Văn Hoá nguyệt san, số đặc biệt 16..Năm 1959, một nhóm Giáo sư Đại Học Huế với sự hợp tác của nhiều nhân sĩ đă cho xuất bản cuốn Danh từ Triết Học mới để thay thế cuốn Danh Từ Triết Học 1952 đă không c̣n bán trên thị trường. Từ đó tới nay đă hơn 6 năm, sau bao nhiêu chờ đợi và lưỡng lự, chúng tôi đánh bạo xuất bản cuốn Từ Điển và Danh từ Triết học này, nhằm tiếp tục và bổ xung cho các cuốn trước..

 

Có một vài điều đáng tiếc trong lời nói mở đầu này. Cha Trần Văn Hiến Minh đă không cho biết tên các tác giả là ai đă có công làm bộ sách Danh từ Triết Học đầu tiên này vào năm 1952, tại Hànội. Tôi chỉ có hai cuốn sau, cuốn đầu tiên không có và có thể không c̣n ai có. Đến cuốn Danh từ Triết Học của Viện Đại Học Huế một lần nữa cũng hẹp ḥi không ghi tên các tác giả đó. Thật ra họ là những người như Cao Văn Luận, Luật sư Đào Văn Tập, Giáo sư Nguyễn Văn Trung, Cha Xuân (Corpet) và ông Trần Văn Tuyên. Họ cũng muốn làm một bộ Tự Điển Triết Học như cuốn tự điển nổi tiếng Lalande. Nhưng bất hạnh là người chủ trương và bỏ tiền như ông Đào Văn Tập chẳng may mất. Thế là dự định soạn một bộ Bách khoa tự điển cũng tiêu tan theo.

 

Trong việc dịch danh từ Triết học th́ vấn đề quan trọng không phải là dịch danh từ mà là giải và định nghĩa danh từ. Thật vậy, chẳng hạn chữ Philosophie existentialiste của Sartre đă khác với chữ Philosophie exixtentielle của Gabriel Marcel và Karl Jaspers và cũng khác với Philosophie existentiale của Heideigger.

 

Có những chữ đă được dịch tùy tiện, thử nghiệm, thăm ḍ hoặc như một đề nghị như từ Aliénation, extranéation và extéorisation. Và đă có nhiều cách để dịch từ đó. Có người  như Trần Đức Thảo trong cuốn Triết lư đi đến đâu dịch là phóng khí. Chữ Phóng khí sau đó đă được nhiều giáo sư dùng theo. Nhưng chỉ một  thời gian khi Cuốn danh từ Triết học của nhóm Cao Văn Luận dịch là phóng thể (Hégel),[v]. Chữ phóng khí gần như không được ai dùng nữa. Một số bài viết của Nguyễn Văn Trung đôi khi lại dùng chữ con người bị tha hoá. Và đến Trần Văn Toàn trong cuốn T́m hiểu Triết Học của Karl Marx, ông đă dành hẳn chương hai, từ trang 58 đến trang 122 để chọn dịch là Vong Thân. Tôi dành trọn vinh dự này cho Trần Văn Toàn. Chữ Vong Thân của Trần Văn Toàn sau này được dùng nhiều hơn như Vong thân trong Cần lao, Vong Thân trong Chính trị, hay  ư thức về Vong Thân.  Từ đó diễn giải ra người nô lệ vong thân, người dân bị trị vong thân, người cùng khổ, kẻ làm đầy tớ vong thân, cô gái điếm cũng là vong thânvv..

 

Và chữ Vong Thân trở thành một từ quen thuộc đến không c̣n ai thắc mắc về  ngữ nghĩa của nó nữa.

 

Phải nhận rằng trong sách tự điển và danh từ Triết học của Trần Văn Hiến Minh đă khá hơn, đầy đủ hơn v́ đă khai triển thêm các từ được dùng trong Triết học Cổ, Triết Học kinh viện, triết học cận và hiện đại, cộng thêm các danh từ triết học Đông Phương trong tam giáo: Phật, Lăo, Khổng.

 

Nhưng kể từ sau cuốn Tự điển và danh từ Triết học của Trần Văn Hiến Minh.. đă không c̣n có cuốn nào khác bổ xung cho đến 1975.

 

2.-Những giáo sư triết đại học tiêu biểu.

 

Những vị giáo sư Triết tiên khởi chưa thực sự có ảnh hưởng trực tiếp đến sinh hoạt triết học Tây Phương ở miền Nam. Cùng lắm ảnh hưởng của họ giới hạn trong các học sinh thi tú tài hai và khuôn viên đại học. Chưa có  ảnh hưởng rơ nét trong sinh hoạt văn học như trong tiểu thuyết, trong nếp sống, nếp nghĩ, nếp hành động của giới thanh niên trí thức..

 

Đó là điểm khác biệt then chốt giữa hai thời kỳ.. Giữa triết học và đời sống thực tế có ranh giới rạch ṛi. Triết lư chỉ là lư thuyết, suy tưởng. Cuộc đời là một thực tế mà triết lư đôi khi trở thành vô bổ theo nghĩa Primum vivere. Phải đợi đến một lớp giáo sư trẻ từ ngoại quốc mới về, phần lớn là từ Pháp, Bỉ hay Thụy Sĩ, sau 1954 mới thực sự gây được một bầu khí sinh hoạt triết, gây thành một phong trào triết mà chủ yếu là triết hiện sinh. Không hẳn là họ giỏi, dù thực tế họ giỏi, nhưng chắc chắn tầm nh́n và tầm hiểu biết không như trước nữa. Đă có cái ǵ vượt qua chính các bậc tiền bối. Đọc lại bài Nhân vị trong Hồn bướm mơ tiên của cha Vọng thấy có chút ǵ ngây ngô, đôi chút buồn cười. Bài Già và trẻ : hai thế giới đối lập th́ xưa quá rồi.

 

 Nếu các giáo sư trẻ này gây được tiếng vang ǵ, chính bởi v́ họ đang truyền bá một thứ triết học nổi bật nhất thế kỷ 20. Đến có thể nói, nhờ triết lư hiện sinh đă làm nên thân phận họ. Như Trần Thái Đỉnh, trong lời nói đầu cuốn Triết học hiện sinh của ông viết : * Âu Châu đă trải qua những năm sinh hoạt triết học trầm trầm và buồn tẻ. Triết học hiện sinh đă xuất hiện rầm rộ, gần như tiếng sóng vang động cả trời đất, lay động xă hội Tây phương cách mạnh mẽ như chưa từng thấy trong lịch sử... Điểm son của nó là đă tạo nên được cả một phong trào rộng lớn và sôi nổi trong giới văn học.*[vi]

 

A.- Nguyễn Văn Trung, người gây một phong trào triết lư hiện sinh kéo theo một thế hệ giới trẻ với đám con hoang trong triết học và văn học.

 

Miền Nam lúc bấy giờ có khá nhiều giáo sư triết dạy đại học. Tuy nhiên có những người chỉ có ảnh hưởng giới hạn trong giới Sinh Viên như Lê Tôn Nghiêm, Thân VănTường hoặc có ảnh hưởng một phần vừa trong giới sinh viên, một phần ngoài đại học v́ họ có các bài báo, hoặc sách in như Trần Văn Toàn, Trần Thái Đỉnh. Có những người khác th́ hầu như chẳng có ảnh hưởng ǵ ngay trong giới Sinh Viên của ḿnh như Lê Thành Trị, Lâm Ngọc Huỳnh, LM Nguyễn Văn Khiết. Hoặc ít viết về triết học, nhưng ngược lại, qua những bài báo, tham luận về chính trị, xă hội lại có ảnh hưởng khá lớn đối với nhiều giới như thanh niên, trí thức. Đó là trường hợp Lư Chánh Trung.

 

Nhưng Nguyễn Văn Trung là trường hợp đặc biệt.  Sau đây, chúng tôi chỉ xin dẫn chứng ư kiến của anh Nguyễn Trọng Văn coi như tiêu biểu trong một bài viết gây chấn động và gây tiếng vang thời đó. Anh có hai bài viết nổi cộm thời đó v́ đụng đến những nhân vật tiêu biểu trong giới văn học là bài : Phạm Duy đă chết và bài đăng trên Bách Khoa, số 264, ngày 1-1-1968 nhan đề : Những người con hoang của  Nguyễn Văn Trung.

 

Trong đó Nguyễn Trọng Văn nhận định rằng :*Ông Trung là người có công trong việc giới thiệu những trào lưu tư tưởng mới của Tây Phương... Ông tŕnh bày một cách gọn gàng, mạch lạc. Những triết học hiện sinh, những danh từ có tính cách văn nghệ, triết lư dần được du nhập và phổ biến. Những Hiện tượng luận, đối thoại, tha nhấn, phản kháng, vong thân, ngụy tín, huyền thoại, thông cảm, những Alain Robbe Grillet, Nathalie Sarraute, Michel Butor, Sartre, Camus..đă được Nguyễn Văn Trung tŕnh bày hàng chục năm trước trong Sáng Tạo, Bách Khoa, Thông Cảm, Thế Kỷ 20[vii].

 

Nguyễn Trọng Văn viết tiếp :* Dù muốn dù không, ai cũng phải nh́n nhận rằng có những tư tưởng, những danh từ và những cách lập luận mà trước ông không ai dùng đến, nhưng sau ông th́ người ta dần dần quen biết và nhắc tới (tính cách quyến rũ và ám ảnh của hiện tượng luận, tính cách thú vị bất ngờ của vấn đề huyền thoại, cách thức lư luận về vấn đề cách mạng xă hội).

 

Theo như Nguyễn Trọng Văn ảnh hưởng của Nguyễn Văn Trung trên giới trẻ có thể là ảnh hưởng thuận chiều, hay chống đối, ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp, ảnh hưởng ngay cả trên b́nh diện triết lư chính trị. Không thiếu người người trân trọng và cũng không thiếu người đố kỵ. Chưa kể có những trường hợp ở hải ngoại, có người vu cáo, ông thuổng dịch sách của tác giả ngoại quốc làm của ḿnh.[viii]

 

Theo Nguyễn Trọng Văn, cách tŕnh bày dễ hiểu, cách đặt vấn đề, cách tra vấn, khả năng thuyết phục cao đă đặt giới trẻ vào tâm thức tra vấn, thức tỉnh, xao xuyến. Đồng thuận hay phản đối là quyền của họ, nhưng ảnh hưởng th́ vẫn là ảnh hưởng, trong đó có ảnh hưởng lật ngược cũng là mục đích nhắm của NVT. Chẳng hạn, Nguyễn Trọng Văn đă dẫn chứng có những người chịu ảnh hưởng trực tiếp như Trần Văn Nam trong tập thơ của anh. Hay trong bài viết : Văn chương t́m về viễn mơ hay hiện thực. Trần Nhật Tân với : Mơ về Mỹ thể. Nguyễn Văn Bảy với bài viết : Phê b́nh quan điểm cách mạng xă hội của hai ông Nguyễn Văn Trung và Lư Chánh Trung. Báo Sinh viên, số 6. Tạp chí sinh viên các số 3,5 và 6 với quan điểm : Hiện tượng hủ hoá của Sinh viên, những ảo tưởng của đàn anh cùng phê b́nh quan điểm cách mạng xă hội của ông Nguyễn Văn Trung và Lư Chánh Trung. Trần Văn Hảo với : Những ảo tưởng của đàn anh,  SV, số 5. Nam Trung với : Con đường cách mạng xă hội. Trách Nhiệm, số 3. Nguyễn Đăng Trừng với Một nền tảng phù hợp cho chế độ chính trị tại Việt Nam, Văn Học số 75, trang 9.   Tiếp theo, có thể là những ảnh hưởng gián tiếp của một số trí thức, nhà văn.. Thế Uyên với Nghĩ trong một xă hội tan ră . Nguyễn Khắc Hoạch với Đi vào đọan đường hôm nay. Thế kỷ 20, số 1, tháng 7-1960. Lữ Phương với Mấy vấn đề văn nghệ, xb Tŕnh bầy 1967, trg 140,141.

 

Cộng vào đó, có những ảnh hưởng theo đuôi, bắt chuớc, làm dáng trí thức đă đưa đến chỗ Nguyễn Trọng Văn gọi đó là : Những người con hoang của Nguyễn Văn Trung. Nguyễn Trọng Văn viết :* Chính những sinh viên chịu khó đi học và học bài, 100 người đă chắc ǵ 10 người hiểu được tới nơi, tới chốn Dasein, Hư vô, dự phóng, Ngụy tín, Hiện hữu.. là ǵ, nhưng khi họ viết văn th́ làm như ḿnh đă hiểu hết, đă nắm mọi vấn đề. Họ dùng chữ một cách chát chúa để vượt mặt người khác và chính họ, coi việc làm dáng là làm văn nghệ, là sáng tác đích thực.*.

 

Nói cho cùng, ảnh hưởng của triết lư hiện sinh qua cách tŕnh bày gợi hứng của Nguyễn Văn Trung, qua những giới thiệu tư tưởng của Sartre theo tiến tŕnh Sartre- Nguyễn Văn Trung- giới trí thức trẻ đă tạo ra những sản phẩm có thể quá tải, có thể là bắt chước, làm dáng trí thức như những nhận xét như kết án của Nguyễn Trọng Văn trong các thành phần xă hội sau đây. Cách đánh giá của Nguyễn Trọng Văn có thể đă từ một góc độ nh́n chính trị từ một quan điểm cách mạng xă hội theo hướng chủ nghĩa Mác Xít. Có thiên lệch không. Phần chúng tôi, đă nh́n lại trong một chừng mực có thể chấp nhận được ảnh hưởng qua lại, có phần của Nguyễn Văn Trung như gợi hướng, mở đường thôi. Phần  c̣n lại, có thể là ảnh hưởng trực tiếp từ các trí thức miền Nam đă đọc thẳng tài liệu từ các triết gia hiện sinh bằng ngoại ngữ.

 

  a.- Trong giới giáo sư dạy triết


Trong giới giáo sư thời đó, thế hệ thứ hai với những người như Đặng Phùng Quân, Nguyễn Quốc Trụ, Huỳnh Phan Anh, Trần Nhựt Tân, Trần Văn Nam.. Phải chăng họ cũng là những người mang những thông điệp của của triết lư Hiện sinh vào Việt Nam? Và kết quả họ đă đạt được ǵ?

Và hầu như tất cả các luận án cao học Triết thời đó đều đề cập đến các Triết gia Hiện sinh. Nhưng cũng đặc biệt chỉ có một luận án Triết của những người trong số họ đề cập đến Triết Hiện Sinh của Sartre? Làm sao cắt nghĩa được điều này?

Sau đây là một số luận án : Mối liên hệ người với người trong triết học G. Marcel. Nguyễn văn Phiên. L!existence d!autrui et la fidélié dans l!oeuvre de G. Marcel.Đặng Phùng Quân. Từ Hiện tượng luận Husserl đến Hiện tượng luận Heidegger. Trần công Tiến. Vấn đề thân xác trong triết học Merleau Ponty. Nguyễn Học Sĩ.. vvv

Huỳnh Phan Anh viết Văn chương và kinh nghiệm hư vô.  Nguyễn quốc Trụ viết Văn chương và sự khả hữu. Văn chương với Simone de Beauvoir của Đặng Phùng Quân. Viết về J.P sartre của Huỳnh Phan Anh.  Simone de Beauvoir và những h́nh ảnh đẹp của Huỳnh Phan Anh. Hành tŕnh của S. de Beauvoir của Huỳnh Phan Anh. Nguyễn Nhật Duật với kinh nghiệm và vực thẳm. Trần Nhựt tân với Đi t́m hiện hữu hay quyên sinh. Văn chương viễn mơ với trần Nhựt Tân, Trần Văn Nam.

 

Đă có bao nhiêu độc giả đă đọc họ và đă có bao nhiêu người hiểu họ? Tôi chỉ có thể hỏi mà không đủ tư cách để trả lời thay cho những người khác. Sự tŕnh bầy khó hiểu và đôi khi khúc mắc đến tối tăm lại là dấu tỏ một sự hiểu biết ngoại hạng và một sự ưu vượt tài trí hơn người..Họ đẩy người đọc vào tâm trạng cảm thấy một mặc cảm thấp kém của ḿnh khi đọc những bài viết như thế.. Không ai dám truy vấn chính ḿnh đến ngọn nguồn về tŕnh độ đọc sách và truy vấn người viết về khả năng hiểu biết và diễn đạt? Người đọc không lẽ mang cái dốt của ḿnh làm thước đo người khác? Người viết tự đồng hóa ḿnh vào sự hiểu biết mà không cần biết người đọc hiểu được bao nhiêu? Nếu người đọc không hiểu th́ phần lỗi về họ. Phải chăng những trí thức trẻ trên đúng là những kẻ truyền thừa của Sartre và cái triết lư ấy? Nguyễn Trọng Văn đă nhấn mạnh tới điểm này, nói tới một h́nh thái theo đuôi, bắt chước, thời thượng? Phê phán như thế có oan cho họ không? Với thiện chí của người trẻ, người trí thức, cố gắng đeo đuổi nghiên cứu triết lư Hiện sinh, họ bị xếp ngang hàng với những cậu choai choai Hippie? Thế nào là thời thượng, thế nào là không thời thượng? Thế nào là theo đuôi, thế nào là học hỏi, cầu tiến? Phải nh́n nhận như Nguyễn Trọng Văn là thế hệ những người trẻ thế hệ thứ hai đă không đóng nổi vai tṛ tiếp nối của lớp đàn anh. Không kế thừa và triển khai được những ǵ mà lớp đàn anh đă làm. Phải chăng chính v́ triết học hiện sinh đă đi vào thoái trào.  Hay là đă không c̣n ǵ để nói nữa, nói đến nhàm chán rồi. Những bài viết của Huỳnh Phan Anh, Nguyễn Quốc Trụ, Trần Nhựt Tân, Trần Văn Nam, Đặng Phùng Quân không đạt được những điều mà giới độc giả trông đợi ở họ như Nguyễn Trọng Văn đă nhận xét trong bài* Những con hoang của Nguyễn Văn Trung*. Và cho đến bây giờ, điều đó vẫn là sự thực khó ḷng biện minh.. Nhận xét như thế này, có thể các anh có thể giận và bực bội. Giận th́ tôi đành chịu. Ngay cả một số anh chị ra nước ngoài, ít lắm là có khoảng 10 người có điều kiện học lại, có bằng tiến sĩ cũng vẫn không đảm đương nổi vai tṛ tiếp nối. Chưa có một cuốn sách triết học nào được xuất bản có tầm cở và có anh3 hưởng đáng kể.. Và sau 30 năm mới có cuốn sách dịch Phê phán lư tính thuần tuư của Kant, do Bùi văn Nam Sơn dịch. Trừ phần Triết đông, dă có một số người viết thành đạt. Có cuốn được in ra cũng không ai hiểu viết ǵ. Không ai đọc nổi.. Điều này phải cắt nghĩa thế nào.

 

 b.- Trong phê b́nh văn học.


Trong nghiên cứu văn chương, người ta cũng đọc thấy những đế tài như: Chinh phụ ngâm với tâm thức lăng mạn của kẻ lưu đầy. Lê Tuyên. Nguyễn công Trứ với cảm thức Hư vô. Tản Đà với khát vọng vĩnh Cửu. Thời gian Hiện Sinh trong Đọan Trường Tân Thanh của Lê tuyên. Gặp gỡ giữa Ôn Như Hầu và Camus của Đặng Tiến ( tôi chưa được dọc). Những tiếp cận như thế là một cố gắng đào sâu các tác giả VN bằng cách so sánh với các tác giả ngoai quốc. Cô gắng đó có đạt được điều mà chúng ta mong muốn. Hay chỉ là gán ghép gượng ép. Chưa thể có được một tiêu chuẩn xác minh chứng thực. Nhưng phải nh́n nhận những thiện chí ấy.

 

Nhưng mà, tự nhiên Chinh phụ ngâm, Nguyễn Công Trứ, Tản Đà trở thành những triết gia bất đắc dĩ. Điều mà trước đây không ai đă có cơ hội truy cứu xem Tản Đà chỉ khát rượu, khát bạn, khát làm thơ ngông nay có thêm khát vọng vĩnh cửu? Cái hư vô của Nguyễn Công Trứ là cái ǵ? Có phải là một cảm nghiệm siêu h́nh giữa hữu hạn và vô hạn? Giữa có và không? Giữa Hữu Thể và Tuyệt đối thể? Hay chỉ là một cảm giác chênh vênh bên bờ, một chân gác bên này của Hữu Thể, chân kia chạm phải Hư Vô? Hay chỉ là ư thức về cái yếu đuối của cuộc nhân sinh, của tuổi xế chiều? Hay là một một xao xuyến trước cái mong manh của thời gian với cái Vĩnh Hằng? Đă có rất nhiều nhà văn ở tuổi già mơ hồ cảm được cơi người và cơi bên kia, cái hiện hữu khô trồi và cái mù khơi xa vời vợi? Từ một lúc nào đó nhận thấy h́nh hài ta là cát bụi, ta là có đấy rồi không đấy, là thực thể đang đối đầu với cái vô minh hay cơi chân không? Không biết bao nhiêu ngữ từ và cách thế diễn đạt về vấn đề này.

 

 Có  thể có rất nhiều điều mà  cả hai phía, Đông và Tây cùng một một cảm thức, nhưng ngôn từ diễn đạt làm ta có cảm tưởng họ khác biệt, xa nhau. Phải chăng v́ thế, nay nó trở thành một khám phá trong văn học? Từ cảm thức người thiếu phụ ngồi bên song cửa chờ đợi trong sự bất lực trở thành người đàn bà mang cảm thức lưu đầy.. Tâm trạng đó có thực chứng được không? Có cái ǵ vượt quá nhăn thức của người đàn bà? Có cái ǵ là gán ghép, ép uổng không? Hiện thực văn chương và phẩm b́nh văn chương có một chuẩn độ chung nào cho phép đi quá cái dự phóng của chính tác giả? Cứ như thế, các tác phẩm văn chương ở mức độ b́nh thường của người dân giả bỗng chốc mang vóc dáng người khổng lồ, được nâng cấp thành những tác phẩm lớn với tầm nhận thức và suy tưởng vượt xa tầm nh́n của chính tác giả. Phải chăng, phê b́nh trở thành một sự sáng tạo lần thứ hai? Lại c̣n vấn đề phóng chiếu cái quan điểm, cái nh́n hiện sinh vào nhân vật truyện như thể triết thuyết Hiện Sinh đă có từ rất lâu trong Văn Học Việt Nam? Cách này cách khác , người ta có thể t́m thấy bóng dáng cái triết lư ấy trong Nguyễn Công Trứ, Tản Đà và ngay cả Nguyễn Du nữa. Nếu cứ như thế th́ tại sao người ta lại không thể t́m thấy triết lư đó nơi câu chuyện Thằng Cuội. Ai cấm chú Cuội một lúc nào đó tự hỏi tại sao ḿnh lại ngồi gốc cây đa? Mà ngồi làm ǵ mới được chứ? Có phi lư không? Đến một lúc nào đó, Cuội sẽ đặt câu hỏi căn cơ và rốt ráo, câu hỏi cuối cùng của mọi câu hỏi là cuộc đời có đáng chán hay không đáng chán. Nếu cứ ngồi măi ở gốc cây đa như thế này? Để chờ? Chờ cái ǵ mới được? Chờ bao lâu?.

Những bài viết này phóng chiếu cái nh́n Hiện sinh vào những cảnh đời thường đến làm chúng ta ngạc nhiên tự hỏi đó chỉ là sản phẩm từ J.P Sartre không ?

c.- Trong giới Phật giáo.


Đến Phật giáo, Lăo giáo cũng nhập cuộc. Người ta đọc được khá nhiểu bài dùng kính chiếu Hiện sinh vào Phật Lăo. Có những bài như Vào đạo Phật qua lối ngơ của J.P. Sartre hay : Từ lăng kính Nho, Phật, Lăo đến lăng kính Hiện Tượng Luận. Tam Ích. Phật Giáo và chủ nghĩa Hiện Sinh.. Quang Minh. Từ Biện chứng Hiện sinh đến Biện chứng tương quan Tuệ Sĩ . Tác phẩm La nausée dưới con mắt Phật tử. Vấn đề giải thoát con người trong Phật Giáo và tư tưởng J.P. Sartre. Heidegger, Jaspers và bối cảnh Phật Lăo Trang. Tam Ích. Tự Do hay Đau Khổ. Triết lư Ấn Độ dưới mắt các triết gia Hiện sinh. Tác phẩm La nausée dưới con mắt Phật Tử. Vào đạo phật qua lối ngơ Phật giáo. Thích đức Nhuận. Vị trí của vô thể của Heideigger trong tư tưởng Đại thừa. Ngô Trọng Anh. Trầm tư về cái chết trong tư tưởng Heideigger và Phật giáo. Chơn Hạnh.

Với rất nhiều bài viết như thế, người ta nghĩ một cách nghiêm chỉnh phải chăng có một cái diểm Oméga, điểm hội tụ nào giữa Triết lư Hiện sinh và triết lư Phật, Lăo Trang.. Những quan niệm về thời gian, về tự do, về đau khổ, về ư nghĩa cuộc đời có cái ǵ có thể chia sẻ được, so sánh được hoặc trùng hợp giữa hai triết thuyết? Những người viết về những vấn đề này đă hẳn có suy nghĩ cẩn trọng và đă t́m ra được yếu tính chung của hai phía.

Một dạo nét sơ thảo lịch sử tư tưởng con người cho thấy có thể có có những tiếp cận, những trao đổi giữa các triết thuyết. Sự tiếp cận của Phật Giáo đối với triết thuyết Hiện Sinh như bước thăm ḍ đă đi đến đâu? Đă đem lại được giải pháp hay tín hiệu ǵ? Không ai trả lời được câu hỏi đó. Chỉ biết sau này, ít c̣n ai đặt mối quan hệ giữa triết Hiện Sinh và Triết lư Phật giáo.

d.- Trong giới công giáo


Có một số dư luận cũng như một số người có thói quen cho rằng chính giới công giáo cổ vơ và truyền bá triết thuyết hiện sinh. Đó là một ngộ nhận thô thiển. Có thể có một vài giáo sư gốc công giáo đă có công tŕnh bầy triết thuyết đó. Nhưng giới thẩm quyền công giáo th́ chống kịch liệt triết thuyết này. Sự ngộ nhận đó thấy rơ rệt trên Giao Điểm số tháng 8, năm 2004 có cho đăng bài của Đào Trung Đạo nhằm phê phán bài viết của tôi. Tôi cũng lấy làm buồn v́ ông chủ báo cũng trong chỗ quen biết mà tôi cũng có bài cộng tác.. Ông đă cố t́nh không cho đăng bài của tôi, chỉ đăng bài phê b́nh.. Quả t́nh là không chơi đẹp tư nào.. Ong chủ bút trong lời mở đầu đă ám chỉ xa gần đến vấn đề đó.
Phải nói giới công giáo có một ảnh hưởng dội ngược, đối đầu.. Làm sao, giới thẩm quyền công giáo ở Việt Nam có thể chấp nhận một chủ thuyết hiện sinh vô thần? Cho nên, những ai muốn gán ghép triết thuyết Hiện sinh vô thần với công giáo quả thực là một gán ghép thiếu luận chứng.


Tại Pháp, có các triết gia hửu thần như Mounier, G. Marcel, thuộc cánh hữu, lập ra một trường phái Hiện sinh Hữu Thần với tờ Esprit làm cơ sở hoạt động.. Thay v́ chê trách, phê phán cánh tả hay triết lư hiện sinh vô thần, họ đề ra đường lối Hiện hữu với tha nhân, tương giao con người, huyền niệm, t́nh yêu và sự trung thành. Nhưng tiếng nói của họ không đủ mạnh và thuyế phục. Tại Việt Nam, công giáo cũng đi theo đường lối đó. Chủ nghĩa nhân vị ra đời mà mục đích là cho những mưu cầu chính trị không nhằm đối đầu với chủ nghĩa Hiện sinh vô thần mà để đối đầu với chủ nghĩa Cộng Sản miền Bắc. C̣n đối với chủ nghĩa Hiện sinh ở trong miền Nam, họ phê phán , công kích thậm tệ nhóm Hiện sinh kiểu Sartre-

Công giáo bảo thủ nhập cuộc bằng cách: hạ bệ và nguyền rủa thứ triết lư này. Đại loại có những bài sau đây như : Chúng tôi tố cáo mầm phản loạn trong Văn Nghệ. Lại một trạng thái cuồng lọan phơi bầy trong tiểu thuyết .Chúng tôi cực lực phản đối cái thuyết dă thú hóa ra con người của ông Thạch Chương. Tiểu thuyết Nguyễn thị Hoàng, sự buôn lậu tư tường trong một con bịnh dân thành phố

Đấy là những bài viết nhằm phê phán triết học ấy ở b́nh diện luân lư. Họ không nhằm phê phán triết Hiện Sinh của Sartre, họ chỉ nhằm phê phán những sản phẩm xă hội mà họ nghi ngờ là từ Sartre mà ra.. Những sản phẩm được coi là những đứa con hoang của Sartre..Cho dù theo hay không theo, phải chăng cũng là sản phẩm của Sartre?

d .- Trong lĩnh vực chính trị.


Hết văn chương, tôn giáo lại thêm chính trị nhập cuộc. Những người anh em theo phía bên kia nay chửi thứ triết lư Hiện sinh với ẩn ư chính trị với Lữ Phương( Lữ Phương ở thời điểm đầu 75, không phải là Lữ Phương bây giờ)., Khải Triều.. Chẳng hạn, Đọc các tác phẩm của Chu Tử. Hiện tượng dâm ô, đồi trụy trong Văn học hiện nay. Từ Văn Hóa cải lương đến văn chương đồi trụy và thứ cần sa của ngoại bang. Họ phê phán những sản phẩm xă hội đồi trụy cho những mưu cầu chính trị. Đă hẳn những bài viết như thế th́ không cần đ̣i hỏi bất cứ một chút kiến thức nào về chủ nghĩa Hiện sinh cả.
(phần bài viết này trích lại trong bài: Về những người con hoang của JP Sartre của chính tác giả)

 

Và để kết luận về phần nhận định, đánh giá về Nguyễn Văn Trung. Xin trích nhận xét của Nguyễn Trọng Văn như phần kết:*Có nhiều người cho rằng uy tín văn hóa của ông Trung là do giọng văn sáng sủa, mạch lạc cùng những tư tưởng tiến bộ mới mẻ của Âu Tây mà ông đă có công đem vào Việt Nam. Nhận xét như vậy không phải là sai lầm, nhưng chưa nói được điều đáng nói v́ có nhieều người viết sáng sủa mạch lạc, mặt khác mọi tư tưởng mới mẻ của Tây Phương chưa hẳn đă là tiến bộ đáng bắt chước. Thật ra uy tín của ông là ở tính Cách Biện Chứng của tư tưởng..nó thể hiện bằng ư chí muốn cọ sát tư tưởng với thực tế, muốn vượt mớ kiến thức thông ngôn để bắt đầu lại từ hoàn cảnh của Đất nước. So với Nhận Định 1, Nhận Định 2 th́ Nhận Định 4, chủ nghĩa thực dân, ca tụng thân xác.. là những bước tiến rơ rệt. Chính v́ vậy, dù có một thời kỳ đă từng là con hoang của văn nghệ và quê hương hiện nay, ông vẫn là khuôn mặt đáng kể trong văn học miền Nam.

 

B.-Trần Thái Đỉnh, người gieo trồng triết hiện sinh cùng với vô số trí thức ở bên ngoài đại học.

 

Nhắc tới Trần Thái Đỉnh, người ta nghĩ tới ông như một nhà giáo hơn là một nhà tư tưởng hay một triết gia. Ông có lối viết dản dị hoá vấn đề mà không trở thành thông tục, thêm có mạch lạc và có sư phạm. Đọc ông, người ta có thể hiểu được những vấn đề triết học khúc mắc và cao diệu. Đó là một thứ sách giáo khoa triết học như nhận xét của Bùi Văn Nam Sơn khi viết về Trần Thái Đỉnh: Những tác phẩm của giáo sư Trần Thái Đỉnh là những cuốn sách có tính chất giáo khoa để người đọc dễ dàng đi vào lănh vực triết tây. Dó là những cuốn sách gối đầu giừng cho những ai muốn t́m hiểu một cách căn bản và hệ thống các tác giả và các chủ đề về triết học*.

 

Đọc ông là nắm bắt được cái ǵ. Ông là người có công đầu trong việc gieo trồng, giới thiệu một số triết gia như Descartes với Triết Học Descartes, Những suy niệm Siêu H́nh Học và Phương pháp luận, rồi đến triết học Kant, Triết học Hiện sinh, Triết học nhập môn, Khái niệm bản ngă trong tư tưởng Triết học Phật giáo nguyên thủy ( Luận án tiuến sĩ, 1958.). Đặc biệt cuốn Triết học hiện sinh xuất bản năm 1969 do nhà xuất bản Thời Mới, mà theo ông Tràng Thiên, tức Vơ Phiến cho biết cuốn sách bán hết ngay 2500 cuốn, trong khi đó cuốn của Lê Thành Trị bán không được v́ viết khó hiểu. Xem ra như thế th́ triết không phải lúc nào cũng tối tăm khó hiểu đâu. Nó cũng tùy thuộc vào người viết. Có người viết dễ đọc, có người viết khó đọc.

 

Ông c̣n kư dưới bút hiệu Trần Hương Tử gồm một số bài được đăng liên tục trên Bách Khoa như: :

 

 Bộ mặt của Triết học Hiện sinh. Bách Khoa, số 114/1961

 Những đề tài Triết học Hiện sinh, số 115

 Hai ngành chính của 3 Triết Học Hiện sinh, số 16

 Kierkegard, ông tổ Triết Học Hiện sinh chính thức, số 117-118

 Nietzsche, Hiện sinh vô thần, số 119-120

 Husserl, ông tổ văn chương Triết lư Hiện Tượng Học, số 121

 Phương pháp Hiện Tượng Học, số 122

 Sartre, Hiện sinh và Siêu Việt, số 123

 Triết Gia và Hiện Sinh, số 124

 Siêu Việt thể của Jaspers, số 125-126-127

 Marcel Hiện sinh và Huyền Niệm, số 129-130-131

 Sartre hay là thuyết Hiện sinh phi lư, số 132

 Nhân sinh quan của Sartre, số 133-134/1962

 Tổng kết về Phong Trào Hiện Sinh, số 135-136

 Heidegger và bản chất của thi ca, số 169

 Triết Hiện sinh và chính trị số  264.

 Yếu tính của tha nhân. Trần Thái Đỉnh, tạp chí Đạo Học Huế

 Giới thiêu triết học Merleau Ponty. Tạp chí Đại học Huế.

 Heideigger và bản chất của thi ca.[ix]

 

Những bài báo trên đă giúp độc giả bên ngoài giới sinh viên đại học ít lắm hiểu được những đường nét chính của chủ nghĩa hiện sinh. Và cũng nhờ vào những bài báo đó giúp người đọc hiểu rằng triết hiện sinh vỉa hè đă không cùng chỗ đứng với triết học hiện sinh trường ốc.

 

Ngày nay, nh́n lại những công tŕnh trước tác của ông không khỏi nghĩ rằng, ông là người trực tiếp góp phần phổ biến triết thuyết ấy đến tay một số độc giả thuộc giới trung lưu thành thị. Cùng với ông có một số những người không thuộc giới chức đại học chuyên ngành, nhưng đă đóng góp bằng rất nhiều bài báo dưới h́nh thức khảo luận hay dịch thuật. Đó là quư ông Trần Bích Lan, Vũ Đ́nh Lưu, Trần Phong Giao, Trần Thiện Đạo, Tam Ích, Đỗ Long Vân, Lê huy Oanh, Đặng Tiến, Lê Tuyên, Lữ Phương, Khải Triều, Cao Thế Dung, Phùng Thăng, Phùng Khánh, Cô Liêu, Đặng Phùng Quân,Thích Đức Nhuận, Nghiêm Xuân Hồng...Trong số trên, có người viết ít, chỉ một hoặc hai bài, có người viết nhiều, có người viết chỉ để chống đối, đả phá như Cao Thế Dung, Lữ Phương, Khải Triều. Những trường hợp đả phá như thế, một cách vô t́nh cổ xúy cho phong trào phổ biến triết thuyết ấy. Gây thêm sôi động là một h́nh thức cổ xúy gián tiếp. Có người dùng các tư tương của các triết thuyết đó soi dơi cho những nhận định về văn học hay triết lư Dông Phương như Lê Tuyên,Tam Ích, Đỗ Long Vân, Tuệ Sĩ.  Những người viết đều, viết nhiều có ông Trần Thiện Đạo ở Pháp, Trần Phong Giao, Vũ Đ́nh Lưu.

 

 Phải nói họ đă làm đầy đủ chức năng gây trồng của một người trí thức.

 

Sự đóng góp qua báo chí đă giúp vào việc phổ biến rộng răi triết học hiện sinh, nhất là hiện sinh của J P Sartre.

 

Nguyễn Văn Trung với các bài sau đây:

 

-         Vấn đề giải thoát con người trong Phật giáo và tư tưởng của J.P Sartre.

-          Những t́nh bạn dang dở.

-          Văn chương và siêu h́nh học.

-         Thi ca và triết học.

-          Văn chương hiện sinh.

-         Luân lư và văn học.Trở lại vấn đề luân lư và văn học.

-          Sartre trong đời tôi.

-          Cái nh́n hay đám cưới với cuộc đời.

-         Tưởng niệm Camus.

-         Vài cảm nghĩ về t́nh cảm phi lư của kẻ lưu đầy.

-          Cuộc đời như một tra hỏi.

-         Đọc vũ trụ chữ nghĩa của J.P Sartre.

-         Quê hương và lưu đày, giới thiệu Camus. Người phản kháng.

-          Những t́nh bạn dang dở.

-         Triết học hiện sinh, giờ thứ 25 của của triết học Tây phương.

-          Dịch và giới thiệu: Người đàn bà ngoại t́nh của của Camus.

-         Chủ nghĩa hiện sinh ( trả lời phỏng vấn) của Trần Thái Đỉnh.

-         Triết học hiện sinh. Điểm sách của Trần Thái Đỉnh.

-         Quê hương và lưu đày. Nguyễn Văn Trung giới thiệu

-         Người phản kháng.

 

Như đă tŕnh bày ở trên, những bài báo của Nguyễn Văn Trung gây ra khá nhiều tranh luận và là cái đích duy nhất để nhiều tác giả khác nhắm vào. Nhiều bài báo có tính cách truy chụp, viết dưới góc cạnh chính trị hay luân lư và cho thấy chẳng có chút hiểu biết ǵ về triết lư hiện sinh. Hoặc là đă không phân biệt được loại triết lư hiện sinh vỉa hè vốn chẳng có liên quan ǵ đến Sartre hay Heideigger. Hoặc là chỉ lưu ư tới phần văn chương tiểu thuyết mà không cần biết đến triết thuyết ấy. Nhiều bài có tính cách diễu cợt bên lề. Theo Trần Phong Giao, nhờ những bài báo đó, báo bán chạy, có lúc được 15 ngàn số hồi 1967-1968 đến chẳng cần quảng cáo hay trợ của chính quyền.

 

 Nhưng cũng cho thấy được rằng, có một không khí sôi động tạo ra những tranh luận đôi khí hăng say quá đà, nhưng nó cũng chứng tỏ tinh thần tự do phát biểu, tranh luận công khai ở thời kỳ đó. Sau đây là một số bài viết trong thời kỳ đó:

 

-         Nhân đọc bài Luân lư và văn học của ông Nguyễn Văn Trung, từ thái độ cởi mở đến sự phủ nhận luân lư trong lĩnh vực văn học. Bùi Tuân.

-         Một thái độ khó hiểu của ông Nguyễn Văn Trung Văn Đàn số 23, 12-11-1960

-         Chúng tôi tố cáo mầm phản loạn trong văn nghệ. Bút Nhọn

-         Tán thành hay phản đối văn chương hiện sinh. Anh Chức.

-         Lẳng lặng mà nghe. Kính dâng hương hồn sống của các đồ đệ JP. Sartre. Sa Nhăng.

-         Cười nụ. Hiện sinh. Nam Phương Sóc

-         Chúng tôi cực lực phản đối cái thuyết dă thú hóa ra con người của ông Thạch Chương. Cô Thùy Dương.

-         Thanh niên hư hỏng và thuyết hiện hữu của J.P Sartre. Vô Vi

-         Theo dơi một cuộc tranh luận( vế luân lư và văn học). Quốc Minh.

-         Giải đáp thắc mắc những con của Sartre, Nguyễn Văn Trung. Nguyễn Mạnh Côn.

-         Đặt lại giá trị và giới hạn của triết lư J.P Sartre. Phạm Công Thiện

-         Nghĩ về văn chương hiện sinh . Thế Nguyên

-         Tiểu thuyết Nguyễn Thị Hoàng, sự buôn lậu tư tưởng trong một con bịnh dân thành phố. Cao thế Dung.

-         Văn nghệ, văn hóa qua những h́nh thái thông ngôn nô dịch. Cao Thế Dung.

-         Từ văn hoá *cải lương* đến văn chương đồi trụy và thứ cần sa của ngoại bang. Khải triều.

-         Mại bản văn hoá và mấy h́nh thái văn chương nô dịch. Cao thế Dung

-         Hiện tượng dâm ô đồi trụy trong văn học hiện nay. Tin Văn

-         Đọc tác phẩm của Chu Tử

-         Văn học Hiện tượng luận có phải là  văn học khiêu dâm không. Tam Ích

-         Sartre và Heideigger, các ông là ai, và bây giờ các ông đi đâu. Tam Ích.

-         Sự thất bại toàn diện của Heidegger và con đường tư tưởng VN. Phạm Công Thiện.

-         Triết học hiện sinh và những người cầm bút ở VN. Nguyễn Trọng Văn, phê b́nh dưới quan điểm nh́n từ chủ nghỉa Mác xít

-         Hoàn cảnh những người cầm bút miền Nam trước và sau 1963. Nguyễn Trọng Văn.

-         Từ Hiện sinh đến tính dục.

-         Những con hoang của Nguyễn Văn Trung. Nguyễn Trọng Văn.

-         Triết lư ảo tưởng hay ảo tưởng triết lư. Nam Hà Trung.

 

Trần Thiện Đạo.

 

Ông Trần Thiện Đạo, một trí thức ở Pháp là một cây bút viết nhiều, nhằm giới thiệu trào lưu hiện sinh với những bài viết dịch thuật có giá trị . Nhưng rất tiếc lại ít được người trong nước lưu ư tới.

 

-         A. Camus, J.P Sartre.

-          Cuộc tranh luận về Văn nghệ giữa Sartre, Y. berger, Simone.

-          Sartre tỏ rơ thêm về quyển *les mots*  bài của J.Piatier do Trần Thiện Đạo dịch.

-         T́m hiểu Đạo đức Sartre.

-          J.P Sartre và giải Nobel

-          Tiền Phong là ǵ của JP Sartre do Trần Thiện Đạo dịch.

-         Gió về Djémila. Camus

-         Kín cửa ( Huis clos).

-         T́m hiểu về kịch LES MOUCHES của J.P Sartre

 

Trần Phong Giao.

 

Cũng như Trần Thiện Đạo, ông đóng vai tṛ giới thiệu triết học hiện sinh bằng cách dịch thuật phần triết lư hiện dưới dạng tiểu thuyết, nhất là dịch các truyện của Camus.

 

-         Camus. Thân thế và tác phẩm.

-         Những người trung thực ( dịch Les Pestes) của A.Camus.

-         Tại sao tôi dịch cuốn * Guồng máy*.

-         Không một nấm mồ ( Morts sans sépultures)

-         Guồng máy ( L!engrenage)

-         Sự Đă rồi ( Les Jeux sont faits). Trần Phong Giao và Nguyễn Xuân Hoàng dịch.

-         Les séquestrés d!Altona

 

Nhân tiện đây, cũng xin trân trọng nhắc đến tác giả TPG, một người đă cống hiến cuộc đời cho việc viết báo và giới thiệu văn học nước ngoài. Cũng như giáo sư Trần Thái Đỉnh, nay ông cũng không c̣n nữa ở trên dương thế này. 

 

Những bài bào như trên được đăng mỗi tháng như những món ăn tinh thần không thiếu được của giới sinh viên trí thức thành thị. Người ta chờ đợi, t́m đọc, nghiền gẫm, tranh luận với say mê thích thú.

 

C.- Trần Văn Toàn, người tŕnh bày triết học Mác xít, Lư Chánh Trung, người xử dụng triết học Mác cho những xu hướng chính trị cách mạng về một  một chủ nghĩa xă hội không Cộng Sản.

 

Mới đây, có một tranh luận nhỏ giữa anh Nguyễn Quốc Trụ và Trần Trung Đạo về sách của chủ nghĩa Mác ở miền Nam. Theo như tôi dược  biết th́ các sách căn bản về chủ nghĩa ấy đều có trong thư viện Đại học Đàlạt. Có thể mượn và đọc thoải mái, chỉ không có sức mà đọc. Nói như thế đế thấy tinh thần tự trị, tinh thần tự do tư tưởng ở miền Nam như thế nào. Nó khác miền Bắv và ưu vượt hôn miền Bắc v́ nó tôn trọng sự tự do tư tưởng. Riêng Trần Văn Toàn th́ có ba cuốn sách bàn về chủ nghĩa ấy là : Hành tŕnh đi vào Triết học, Xă hội và con người và cuối cùng là cuốn T́m hiểu triết học của Karl Marx.

 

Cuốn đầu, dù chỉ là cuốn triết học nhập môn dùng cho sinh viên năm dự bi văn khoa ở Huế, vào năm 1961-1962. Có năm chương th́ chương hai với tựa đề Hiện thân con người ở đời dựa trên cơ sở học thuyết Karl Marx. Với những đề tài như hiện thân trong vật giới, hiện thân trong nhân giới, xă hội lư với tương quan ông chủ-thằng ở. Chính là những khởi điểm suy nghĩ đi vào triết học Mác.

 

Trong cuốn Xă hội và con người, một lần nữa ông đào sâu thêm về thân phận làm người với những giao ngộ, tư do rồi cạnh tranh sinh tồn giữa ta và người khác. Từ chỗ đó đi đến kết quả tha nhân, kẻ làm mất bản thân tôi đến ư thức nô lệ và vấn đề ư thức hệ.

 

Cuốn thứ ba dặt vấn đề trực diện với việc : T́m Hiểu triết học của Karl Marx. Trong đó chương hai quan trọng nhất nói về Vong Thân với các loại vong thân và ư thức vong thân cũng như vấn đề ư thức hệ Cộng Sản.

 

Cần nhấn mạnh để tránh hiểu lầm là Trần Văn Toàn tŕnh bày học thuyết Mác như một triết lư Mác Xít khác hẳn lối tŕnh bày kinh điển hay nh́n nó như một chủ nghĩa Mác- Lênin. V́ thế, cách tŕnh bày của ông không có tính cách giáo điều, tính áp đặt. Tất cả những sách trên dù chuyên môn, nhưng theo tôi đọc khá dể hiểu và lư thú.  Khi những cuốn sách đó được in ra, tôi đă lư thú đọc và bắt được những nội dung, những thème chính cũng như những ư tưởng mà tác giả muốn tŕnh bày. Hơn nữa, những sách trên đă kịp thời đáp ứng t́nh thế xă hội và chính trị lúc bấy giờ vào cuối thập niên 60.  Tóm lại, Trần Văn Toàn đă tŕnh bầy cặn kẽ, mạch lạc, hệ thống tư tưởng Mác ở phạm vi triết học và cũng tránh đi vào những phạm trù lôgích như định đề của chủ nghĩa ấy.

 

Cho đến hiện nay, đọc lại những sách đó, tôi vẫn cảm thấy thích thú và tâm đắc hơn những cuốn sách do chính những người Cộng Sản viết. Ông là một trong những người duy nhất giúp trí thức miền Nam hiểu được một phần triết lư của Mác như thế nào. Về điểm này, không ai hơn ông được.

 

Lư Chánh Trung

 

Nói đúng ra, Lư Chánh Trung là người duy nhất dạy triết mà không dạy triết. Ông dạy triết hay viết triết chỉ để biện minh cho những tư tưởng xă hội chính trị mà ông cưu mang ấp ủ. V́ vậy, chẳng bao giờ ông có tham vọng giảng dạy triết thuần túy theo lối trường ốc. Ông cũng chẳng tŕnh bày mạch lạc bất cứ triết thuyết nào, ngay cả học thuyết của Mác. Trong các bài giảng của ông như Bạo Động và lịch sử trong môn Đạo Đức học hay Nhiệm Vụ học cho các lớp dự bị Chính trị kinh doanh th́ đều bàng bạc tư tưởng triết học của Mác. Những bài viếr đó đề cập đến vấn đề bạo động giữa con người, vấn đề đạo đức và cách mạng, vấn đề biện chứng giữa ông chủ-thằng ờ, vấn đế giai cấp tư bản và vô sản, vấn đề bất bạo động theo quan điểm của Gandhi và sau cùng quan trọng nhất là  vấn đề làm cách mạng xă hội không cộng sản. Tư tưởng chủ đạo của ông là thực hiện một cuộc cách mạng xă hội chủ nghĩa không Cộng Sản.

 Có nhiều khuynh hướng khác nhau về một cuộc Cách mạng không cộng sản như nhóm của thầy Nhất Hạnh với trường Thanh niên Phụng Sự xă hội, nhóm của Mỹ với phong trào Học đường mới vv.[x]. Ở đây, chỉ tŕnh bầy nhóm Hành Tŕnh với Nguyễn Văn Trung và Lư Chánh Trung.

Danh từ Cách Mạng xă hội chủ nghĩa không Cộng Sản chỉ xuất hiện từ 1964. Dựa vào t́nh thế bế tắc lúc bấy giờ, với một cuộc nội chiến tương tàn, không lối thoát, -vấn đề ai thắng ai th́ cũng thế mà thôi- họ thất vọng cả hai phía. Phiá Cộng Sản th́ chủ thuyết Mác- Lê với thuyết duy vật sử quan đă tỏ ra lỗi thời. Những kinh nghiệm quá khứ cho thấy chủ nghĩa đó quá bạo tàn và khắc nghiệt như đă xảy ra ở Liên Xô và các nưóc xă hội chủ nghĩa khác. Nội bộ các nước đó chia rẽ, đàn anh đàn em như trường hợp Nga Xô và nước Tầu. Về kinh tế cho thấy các nước theo XHCN đều rơi vào t́nh trạng lạc hậu, thụt lùi. Đối với phe Tự do cho thấy chế độ tư bản chỉ là duy tŕ cơ cấu bóc lột chuyển từ h́nh thức thực dân cũ sang thực dân mới. Tư bản Mỹ duy tŕ t́nh trạng chiến tranh ở VN mà nguy cơ là chắc chắn không thể thắng được. Quan điểm này cho rằng có thể có một đường lối thứ 3. Có nghĩa là không chấp nhận cả hai khối Tự Do và Cộng Sản. V́ cả hai đều có những nhược điểm. V́ thế, người ta có thể thực hiện một cuộc cách mạng xă hội bên ngoài đường lối Cộng Sản.
Theo Lư Chánh Trung, các nước Á Phi, Châu Mỹ La Tinh chỉ có thể thoát khỏi t́nh trạng tủi nhục của sự lệ thuộc, đói rách, thối nát, bất ổn khi nào có can đảm thay đổi toàn diện những cơ cấu mục nát do chế độ thực dân để lại, dám thắt lưng buộc bụng dể tạo dựng những cơ sở vững chắc hầu có thể tự ḿnh giải quyết những vấn đề của ḿnh. Nghĩa là phải phá bỏ cơ cấu bạo động bóc lột do thực dân để lại.. Trong lời mở đầu của cuốn Cách Mạng và Đạo Đức, Lư Chánh Trung viết : " Tại các nước chậm tiến, cách mạng xă hội là một vấn đề sanh tử, một vấn đề danh dự "
Tại miền Nam, thay v́ làm cách mạng xă hội, người ta chống Cộng. Nhưng thật ra chỉ có một cách chống Cộng hữu hiệu là làm cách mạng xă hội. Các đảng phái, nhà cầm quyền chỉ biết chống Cộng, nhưng lại duy tŕ cơ cấu thối nát thay v́ làm cách mạng cơ cấu đó.
Không thể tin tưởng vào những giải pháp quân sự hay sự can thiệp của Mỹ vào miền Nam. Miền Nam chỉ c̣n một lối thoát là làm cách mạng xă hội " Muốn có một chính quyền mạnh, vừa phải đối phó với Cộng Sản, vừa phải độc lập cả với Mỹ th́ điều kiện tiên quyết là phải được ḷng dân và dựa vào dân. Muốn có hậu thuẫn trong dân chúng, phải làm Cách Mạng xă hội, " Lư Chánh Trung. CMĐĐ, trg 103).
 

Đặc biệt về điểm này, Lư Chánh Trung đă để hết tâm huyết khai thác, tŕnh bày quan điểm của ông  trên tờ Tŕnh Bày thời đó. Người ta biết đến Lư Chánh Trung rất nhiều, chính là ở giai đoạn này. Đặc biệt, ông viết cuốn T́m về dân tộc mà mụch đích chỉ là cổ xúy cho một cuộc cách mạng xă hội, lấy dân tộc làm căn bản.

 

d.- Lê Tôn Nghiêm : Kẻ gieo trồng không được mùa.

 

Lê Tôn Nghiêm có một đời sống thật dản dị và có một  tấm ḷng say mê triết học đến khó ai sánh b́. Cả đời ông lăn lộn, sống với nó. Ông đọc và say mê mỗi khi khám phá ra điều ǵ mới. Ông hăng say nói ra. Nhưng trong cách đọc, cách viết, gần như ông đánh vật với chữ nghĩa. Ông trăn trở, ông kiếm t́m, mày ṃ, tra cứu học hỏi. Nhưng cách tŕnh bày lan man, không nắm rơ khiến ông lúng túng vụng về khi giảng dạy cũng như khi viết. Ông đă dịch và giới thiệu Karl Jasper với cuôn Triết học nhập môn, Trung tâm văn hóa Đông tây xuất bản. Cuốn sách rất hay như thứ sách gối đầu giường của giới sinh viên. Ông cũng là tác giả cuốn sách mỏng : Đâu là căn nguyên tư tưởng. Hay con đường triết lư từ Kant đến Heidegger. Nxb Tŕnh Bày, 1970. Rồi Heideigger trước sự phá sản của tư tưởng Tây phương. Lá Bốí 1970. Triết gia người là ai. Thế nào là tính thể con người. Tư tưởng với Nghệ thuật. Vấn đề con người trong tư tưởng K. Jasper. và sau đó là bộ Lịch sử triết học Tây phương 3 cuốn, nxb tp Hồ Chí Minh. Rất tiếc, bộ sách lịch sử  này mới xb được 3 cuốn, đi hết được phần triết học thời Trung cổ với triết học các giáo phụ và triết học kinh viện. Viết cho đầy đủ cả bộ, chắc cần cả 10 cuốn như thế nữa nữa. Ông mất đi coi như đứt gánh giữa đường, dang dở nhiều truyện, hiểu lầm, ngộ nhận đến phiền muộn cũng không thiếu.

 

Trong số các triết gia hiện sinh, ông say mê thần phục và cũng một lẽ đó ông nh́n thấy tính cách phá sản trong tư tưởng của Heidegger. Nhưng ông đă không thành công mấy trong việc chuyển tải những ư tưởng hay những chủ đề ṇng cốt của Heidegger đến giới sinh viên. Ảnh hưởng của các triết gia này v́ thế cũng không dược chú trọng đúng mức và bản thân ông cũng không gây được tiếng tăm ǵ nơi giới Sinh viên.

 

3.- Các giáo sư triết dạy trung học.

 

Nói đến triết học Tây Phương ở miền Nam không thể không nói đến đội ngũ các giáo sư triết ban tú tài 2. Họ là thế hệ thứ hai được đào tại tại ba trường là Văn Khoa Sàig̣n, Đại Học sư phạm Đàlạt và Đại học Huế. Số lượng các giáo sư này cứ thế lớn lên mỗi năm, thay thế dần thế hệ đàn anh thứ nhất và đồng thời môn triết học Tây phương được trải rộng tại các tỉnh phía Nam cũng như miền Trung. Chỗ nào có trường Trung Học đệ nhị cấp là có họ. Họ đi gieo trồng môn triết trên khắp miền Nam, đem những tư tưởng, trào lưu triết học đến thế hệ học sinh khắp nước. Công việc làm của họ có thể âm thầm. Nhưng hậu quả thật lớn, v́ nhờ đó cả một thế hệ thanh nhiên được truyền thụ tinh thần tự do tư tưởng, được tiếp xúc với những nhà tư tưởng lớn của thế giới.

 

Họ là những người như chim đầu đàn, đáng lư phải xếp vào thế hệ hàng đầu như Nguyên Sa Trần Bích Lan. Thật ra, ông viết về triết không nhiều. Ngay tờ Hiện Đại do ông làm chủ bút chỉ có hai bài về A. Camus của Trịnh Viết Thành. Riêng ông sau này viết như một phủ nhận triết thuyết ấy với bài : Rời bỏ nền văn chương trú ẩn, đăng trên tờ Đất nước. Ngay trong phạm vi dạy triết trung học, ông chú trọng vào việc luyện thi hơn là truyền bá một loại kiến thức triết sâu xa ǵ. Tiếp theo là những Nguyễn Vĩnh Đễ, gs triết tại Collège de Trois-Rivières với : Le problème de l!homme chez Jean-Jacques Rousseau. Considérations actuelles, essais philosophiques với nhiều tác giả. Trần Đức An, tác giả sách giáo khoa, Trương Toàn, Lê Thanh Hoàng Dân, dịch triết học hiện sinh. Dịch Bức tường, Le Mur. Nguyễn Xuân Hoàng, nhà văn trrước 75 và chủ bút báo Văn. Có dịch chung với Trần Phong Giao như đă nói ở trên. Đinh Văn Hải, Phạm Việt Cường, cao học triết  Đại học Văn khoa, Sàig̣n, chị Hoàng Mỹ Hiền, chị Chu Kim Long, rồi Nguyễn Trọng Văn, Nguyễn Đa, Bùi Ngọc Dung. Anh Bùi Ngọc Dung có viết một số bài như Camus và nền văn chương triết học. J.P Sartre , từ hiện sinh đến biện chứng. Trần Công Tiến với luận án Từ Hiện tượng luận Husserl đến hiện tượng luận Heigeigger, 1969. Anh cũng có viết bài từ Heideigger 1 đến Heideigger 2.  Đặng Phùng Quân, cao học Triết là một trong những người viết nhiều nhất, năng nổ và dài hơi nhất. Hiện hữu tha nhân với G.Marcel. Triết học và Khoa học. Chân dung triết gia. Triết học và văn chương. Hành trạng tư tưởng giữa hai thế kỷ. Phê phán hệ tư tưởng Mác xít, tập truyện ngắn Miền Thượng Uyển, trủ ch́ trên Web Gio-o.. Nguyễn Quốc Trụ, viết cho các web Talawas về đủ đề tài. Thụ Nhân, tác giả cuốn sách dịch L!existentialisme est un humaniste và cuốn L!existentialisme. Huỳnh Thanh Tâm, trước đây với nhiều bài viết về triết học như đă nói ở trên, nay chuyển sang dịch thuật. Trần Văn Nam, Trần Nhựt Tân phân tích các chủ đề văn chương trong đó có : Tập thơ độc nhất. với luận án Quan niệm của Sartre về hữu thể., Nguyễn Nhật Duật, viết phê b́nh văn học. Ngô Đức Diểm, nhà thơ với Tập thơ Cơi người ta.. Nguyễn Vy Khanh, viết Văn học Việt Nam thế kỷ 20 dịch Ngô Đ́nh Diệm và nỗ lực hoà b́nh dang dở, dịch Lỗ Tấn và truyện xưa viết lại. Bốn mươi năm văn học chiến tranh 1957-1997, Văn Học và thời gian. Phạm Phú Minh, chủ bút tờ thế kỷ 21. Nguyễn Đồng, Lê Mạnh Thát, học ở Đàlạt, sau đi du học ở Mỹ và nay là phó viện trưởng thừng trực Học Viện Phật giáo VN. Thày viết Lịch sử Phật giáo VN ( ba tập) Triết học thế thân  Vasubandhu Trần Thái tông toàn tập, Trần Nhân Tông toàn tập.  Nguyễn Tử Lộc, đă mất, anh có dịch : thi sĩ da đen. J.P. Sartre. Tô Văn Lai, giám đốc Paris by Night. Nguyễn Văn Vũ, Trương Đ́nh Tấn, Nguyễn Văn Thuộc, Nguyễn Hữu Dư, Đặng Thần Miễn, với bài thơ tiếng hát da mầu, được Nguyễn Ngọc Lan và Lê Hảo dịch ra : Chant de louange pour la peau d!ébene trong tập : Le crépuscule de la violence, nay là nhà dịch thuật. Vũ Chí Hùng, Uông Dại Bằng, Vơ Văn Bé, Phạm Minh Quư, Vơ Túc, Nguyễn ĐăngTrúc với Sinh hoạt cảm xúc trong Hiện Tượng luận M. Scheler. Hiện nay, anh là giáo sư phân khoa thần học NH Strasbourg, Pháp, tác giá các sách : Văn Hiến, nền tảng của minh triết. Tiếp cận tư tưởng VN : vấn đề triết học. Và anh đang sắp sửa cho in cuốn sách triết học trong đó tŕnh bày thời kỳ tiền triết học gồm : Eschyle, Sophocle, Héraclite, Parménide, Socrate..đồng thời làm chủ nhiệm tờ Định Hướng. Đỗ Phương Anh, Phạm Ngọc Đảnh, Nguyễn Ngọc Phách với Tương quan giữa tư tưởng và tượng trưng. (Hiện tượng luận thông diễn của Paul Ricoeur) Trương Toàn, Nguyễn Thanh Tùng, Hoàng Minh Khánh, Vĩnh Phiếu, Nguyễn Văn Thuộc, chị Phan Thanh Gia Lai, chị Đoàn Phi Loan, chị Thanh Tân, Nguyển Duy Diệm, Nguyễn Văn Lan, Nguyễn Mẫn, Nguyễn Nhật Duật, đă mất, viết phê b́nh văn học. Hồ Công Hưng, Bùi Văn Nam Sơn, có đi học thêm Triết ở Đức với công tŕnh đồ sộ là dịch cuốn Phê phán Lư tính thuần túy của Emmanuel Kant, nxb Văn Học, dày 1261 trang. Hồ Công Danh, Vơ Doăn Nhẫn, làm thơ. Nguyễn Văn Lục, viết phê b́nh Văn học. Bành Ngọc Quư, Dương Văn Ba, Nguyễn Quốc Tuấn, Phùng Quyên.

 

Ngoài Huế có thêm các chị Phương Chi, Diệu Trang, Thái Kim Lan, dịch giả Huệ Tím của Hermann Hesse và kịch Người hảo tâm thành Tứ Xuyên của B.Bretch. Tập Chức năng của cảm giác tính trong việc phê phán lư tính thuần túy. ( luận án tiến sĩ) Tống Thị Lan, Nguyễn Châu, viết nghị luận. Hoàng Phủ Ngọc Tường, nhà văn với bút kư Ai đă đặt tên cho ḍng sông. Thơ với Người hái hoa phù dung.  Hoàng Văn Giầu, với Phồn Hoa kinh, hiện nay chủ bút mạng Chuyển Luân, bên Úc. Lê Tử Thành, Nguyển Nguyên Phương, Trần Xuân Kiêm, dịch thuật triết học cùng với Trần Công Tiến, Phạm Công Thiện, Trương Đăng Dung cuốn Martin Heideigger.

 

Không có những người thợ gieo gặt này, ở khắp nơi trên mảnh đất miền Nam, từng ngày, từng năm, âm thầm truyền đạt, cấy niềm tin, cấy những luồng tư tưởng mới, mỗi người mỗi cách truyền đạt, mỗi người mỗi thái độ chọn lựa, gieo vào đầu óc thế hệ thanh thiếu niên miền Nam những giá trị tinh thần với sự xác tín. Nói rộng ra, từ các cô giáo viên tiểu học đến Trung Học, trong đó có các giáo sư Triết, giáo sư Việt Văn.. ít nhiều đều có sự xác tín như thế. Dạy học mà không có xác tín, không cấy được niềm tin th́ không có giáo dục. Nhưng cũng xin nhấn mạnh ở đây, xác tín ở đây là  sự ưng thuận tự nguyện, không do nhồi sọ, tuyên truyền, áp đặt. Hăy nh́n lại thế hệ các thanh niên thiếu nữ được đào tạo thời kỳ đó và thời kỳ 30 năm sau 75..Chúng ta sẽ nhận ra đâu là giáo dục, đâu là không giáo dục.

 

Trong số những giáo sứ này, điều chính mà tôi muốn nhấn mạnh là sự đóng góp của họ trong thời gian 20 năm triết học Tây Phương ở miền Nam. Phần c̣n lại sau này có viết được ǵ không nằm trong khuôn khổ của bài viết này nữa. Chỉ xin lược kê mà không có ư kiến.

 

Phần cá nhân tôi, dù rằng chẳng học được bao nhiêu ở các thày. Nhưng cái tính thần học hỏi, cơ hội học hỏi trau dồi hiểu biết th́ không thiếu. Điều đó buộc tôi nghĩ rằng, tôi đă may mắn được sống ở miền Nam, được lớn lên, được nuôi dưỡng, được giáo dục trong cái môi trường đó, được trở thành giáo sư Triết ở đó. Tôi không có ǵ để hănh diện hơn nữa. Càng nghĩ đến xă hội hôm nay, niềm chua xót càng lớn.. Thật tiếc cho giới trẻ hôm nay ở miền Nam, chúng đă không có cái may mắn như chúng tôi, mặc dầu có thể chúng tôi đă mất hết.

 

Có thể tôi đă quên nhiều người. Xin tạ lỗi. Điều đó không tránh được. Nhưng xin nói với các bạn đồng hành, tinh thần học hỏi của triết học Tây Phương, đó là cái ưu vượt của miền Nam mà mỗi người phải tự hănh diện và giữ lấy về những năm tháng ấy.

 

4.-Tinh thần học Triết và dạy triết Tây phương ở miền Nam.

 

Trước vài giờ lên máy bay về lại Canada, tôi nghĩ cần phải nói những điều tôi đang suy nghĩ với một người bạn. Tôi kêu xe Honda ôm lên nhà Nguyễn Trọng Văn để chỉ muốn bày tỏ với anh ta một điều: cái ǵ là đặc điểm của triết học Tây phương ở miền Nam. Tôi đă nói cái ư đó ra, chúng tôi cùng phá lên cười, cười nghiêng ngả v́ trúng ư nhau, rồi cảm động đến ứa nước mắt. Những ḍng sau đây viết để tặng tất cả những người bạn thời tuổi trẻ.

 

a.- Tinh thần tự do suy nghĩ, phát biểu, giảng dạy

 

Ở miền Nam trước đây, người ta cứ nói tới độc tài Ngô Đ́nh Diệm, độc tài trong tôn giáo, độc tài Nguyễn Văn Thiệu. Nhất định là có đấy không phải không..Nhưng xin nhắc mọi người rằng, độc tài chính trị không có chỗ trong các giảng đường đại học. Quyền tự trị Đại học là tuyệt đối trong phạm vi tư tưởng. Nó có thể bị o ép trong phạm vi hành chánh, quản trị nhân viên trong việc bổ nhiệm và điều đó có thể đă xảy ra. Về tư tưởng, chưa bao giờ mà chủ nghĩa nhân vị có thể lọt vào các giảng đường.  Nó có thể len lỏi vào Suối lồ ồ. Nhưng giảng đường th́ không. Ở nơi đây, các trào lưu triết học cổ, trung cổ, cận đại, hiện đại đều có chỗ. Triết học Phật giáo, Ấn độ giáo, Trung Hoa, triết học hiện sinh hữu thần và vô thần và triết học Mác Xít cũng được giảng dạy trong cours Triết sử. Tự do đến thế. Điều ngạc nhiên đến không ai ngờ tới là khoa thần học công giáo lại không có mặt. Nhưng những vụ án như Galilée th́ lại có. Điều đó muốn nói lên điều ǵ. Những giáo sư dạy triết sử như Raguin dạy Ấn Độ giáo, Phật giáo đến độ say mê tưởng lầm đâu rằng ông là một tỳ kheo, hay khất sĩ. Larre cũng thế. Tchen1, Tchen 2 cũng không khác. Và tôi đă hỏi các bạn tôi, dù một lần thôi, họ có nói đến tôn giáo của họ cách này này cách khác. Không. Nguyễn Trọng Văn, Lư Chánh Trung, Trần văn Toàn bê khệ nệ ông Mác vào giảng đường, nào có ai nói ǵ không. Bê Sartre, bê Heideigger hoặc vác G. Marcel vào thao diễn nói hay làm luận án là tha hồ. Tư tưởng nghịch chiều nhau, tư tưởng tả khuynh, hữu phái, cấp tiến hay bảo thủ đều có thể có mặt.

 

Trong những lúc t́nh thế sôi bỏng bên ngoài với sự xáo trộn chính trị, tôn giáo đủ loại, chúng ta thử nh́n xem những phản ứng thái độ của các viện trưởng, khoa trưởng như thế nào. Trong khuôn viên trường Đại Học Văn khoa, Sàig̣n, trải qua nhiều thời kỳ biến động chính trị. Nó vẫn giữ được phong cách của ḿnh. Phong cách đại học, vị thế nh́n, vị thế đối đấu và thường chọn lựa vị thế đó. Vẫn tự lập, tự chủ. Vẫn có bản sắc, có tiếng nói riêng, chọn lựa cho ḿnh. Tiếng nói đó là tiếng nói của tuổi trẻ, của lư tưởng và không muốn khuất phục, cúi đầu. Tiếng nói trung thực, không xu nịnh, bè phái, không nghiêng ngửa. Về chính trị thường là tiếng nói khuyn tả, đi ngược lại chính quyền đương đại. Đó là niềm tự hào của giới trẻ. Khánh Ly, Trịnh Công Sơn, các phong trào phản chiến cũng từ nơi đó cất cao lên tiếng hát của ḿnh.

 

Và đó là sự khác biệt  sâu xa, khác biệt nền tảng tận cùng bản chất giữa miền Nam, miền Bắc trong thời kỳ đó. Bên đây giới trẻ ngửng đẩu, bên kia cúi, bên đây nói không, bên kia nói dạ. Bên đây mỗi người mổi khác, bên kia tất cả là một. Bên đây đa dạng, bên kia đồng phục.

 

b.-  Tinh thần học triết học : ư thức ưu tư và thức tỉnh. 

Bài học vỡ ḷng cho các môn sinh bước vào ngưỡng cửa triết học là  biết ưu tư, biết xao xuyến, biết thức tỉnh hay biết vươn lên ( theo nghĩa của Kierkegaard). Tinh thần đó giúp con người vượt cái hiện hữu tự thân ( en soi), ù ĺ, nhàm chán tiến tới hữu thể tự quy ( être pour soi). Từ đó phải kiếm t́m. Phải thao thức, đặt lại vấn đề đưa đến thái độ hoài nghi, phủ nhận mọi hệ thống, chủ nghĩa giáo điều, chống lại cái nghiêm chỉnh ( esprit du sérieux) cái đă h́nh thành có sẵn. Chống nên lúc nào cũng như thể bắt buộc đi lại từ đầu trong một cuộc t́m khiếm không ngừng, như thể đang đi trên đường (en route). Cũng từ đó nảy sinh khái niệm con người hoàn cảnh, nhập cuộc, dấn thân, trách nhiệm, tự do chọn lựa..

 

Học triết trong cái tinh thần đó nên dễ có thái độ đặt lại vấn đề, ráo riết triệt để dễ đi đến cực đoan, phủ nhận, hư vô hóa.

 

Nhưng một mặt khác tinh thần triết lúc đó như một lời thúc dục say mê, mới mẻ, khám phá.  Cứ cả đời như thế miệt mài, câu hỏi sẽ quan trọng hơn câu trả lời, đi t́m quan trọng hơn là t́m thấy.

 

H́nh ảnh người học triết như kẻ suốt đời lang thang, chẳng bao giờ ngưng nghỉ, chẳng bao giờ bằng ḷng với chính ḿnh, phủ nhận cái tôi đang là tiến tới cái tôi sẽ là.

 

Tinh thần đó đă giúp nhiều sinh viên, giáo sư đứng trước mỗi t́nh huống, trước mỗi ngă rẽ, biết chọn lựa, biết dấn thân, biết trách nhiệm trong mỗi hoàn cảnh để cho cuộc đời một ư nghĩa.

 

Coi như thế, triết học không hẳn chỉ là một kiến thức nữa mà là kẻ hướng dẫn soi đường cho mỗi người thanh niên, nhất là trí thức khi vào đời. Bài viết này, dù đă dài, nhưng vẫn chưa đủ, v́ vẫn chưa tŕnh bày đày đủ được mọi khía cạnh, mọi đóng góp của nhiều trí thức trong  20 năm vừa qua.

 

c.- Ư thức trách nhiệm và  thái  độ dấn thân nhập cuộc bằng hành động.

Triết học với ư hướng trách nhiệm  đă mở đường cho những thái độ dấn thân, những chọn lựa nhiều thứ mà quan trọng nhất là con đường thứ ba. Quan điểm của giới trí thức thiên tả giúp soi sáng một lối ra cho Việt Nam. Ngoài giải pháp quân sự, c̣n có một con đường thứ ba để có thể thoát khỏi guồng máy chiến tranh đă nghiền nát bao nhiêu thế hệ thanh niên vào cái chết vô ích. Người ta không thể đánh nhau măi. Phải t́m một giải pháp mới. Phần đông giới trí thức Việt Nam ở Âu châu, do chịu ảnh hưởng của thành phần thứ ba này, chủ trương một lập trường trung lập (Position neutraliste), không Cộng sản (non communiste).

Vào năm 1968, Liên đoàn Sinh viên và Thợ thuyền ở Paris tuyên bố:

“Le peuple Vietnamien ne veut pas la paix que les communistes voudraient lui imposer. Il veut la paix dans la dignité humaine. Il veut, en même temps, une profonde révolution sociale pour assurer l’avenir de la République Vietnamienne.”

(Tạm dịch: “Người dân Việt không muốn có một nền ḥa b́nh do người Cộng sản muốn áp đặt. Họ muốn có một nền ḥa b́nh trong sự tôn trọng phẩm giá con người. Đồng thời, họ muốn có một cuộc cách mạng xă hội sâu rộng để bảo đảm tương lai nền Cộng ḥa của Việt Nam.”)

 T́nh h́nh chiến sự thời đó đă đến hồi quyết liệt. Ḷng người dao động. Viễn ảnh một cuộc thua trận gần kề.. Có người trông vào ḥa giải như một thứ giấy triển hạn, kéo dài một niềm hy vọng đă không c̣n hy vọng nữa.

Các trí thức thành phần thứ ba đưa ra một giải pháp Cách mạng Xă hội không Cộng sản trong t́nh huống lúc bấy giờ là một điều khó thực hiện được. Cộng sản một bên, Mỹ một bên với một chính quyền dựa hoàn toàn vào Mỹ. Liệu họ có thể dựa vào điều kiện khách quan nào, dựa vào nhà lănh đạo nào để có thể có điều kiện thực hiện một cuộc Cách mạng cho người nghèo? Một cuộc cách mạng không Cộng sản? Lư Chánh Trung đă trả lời về vấn đề này cho nhà báo Pháp khi được hỏi về sách lược của các nhóm thành phần thứ ba. Ông nói:

“La troisième force, C’était une grande aspiration plutôt qu’une force réelle. Seules quelques centaines de personnes étaient organisés. Ces groupuscules étaient ouverts à tous les vents, à toutes les influences. Ils n’avaient aucune idéologie précise”.
(Tạm dịch: “Lực lượng (hay thành phần) thứ ba cuối cùng chỉ là một khát vọng hơn là một thực lực thực tế. Tổ chức vỏn vẹn có vài trăm người. Nhóm người đó mở ra mọi phía và đón nhận nhiều ảnh hưởng. V́ thế, họ không có một ư thức hệ chính xác nào.”)
 
“Et cette dernière raison explique pourquoi certains Vietnamiens pensent que Thiệu ne constituent pas la dernière carte Américaine dans le Sud. Cette dernière carte, c’est la Troisième Force et les Américains seront sans doute amenés à la jouer, sans doute mal ou trop tard

(“Tạm dịch: Và nguyên nhân cuối cùng giải thích tại sao một số người Việt Nam cho rằng Thiệu không phải là lá bài cuối cùng của người Mỹ ở miền Nam Việt Nam. Lá bài cuối cùng, chính là lực lượng thứ ba mà chắc người Mỹ muốn sử dụng, chắc chắn đă quá muộn hoặc sẽ có kết quả không hay.”)

  Nh́n theo viễn tượng đường dài, ảnh hưởng của thứ triết học với ư thức trách nhiệm, dấn thân, nhập cuộc và ngay trong t́nh huống của sự thất vọng thua cuộc đi nữa, giới trí thức miền Nam vẫn trở thành nhân chứng của một giai đoạn và trở thành kẻ tố cáo, kẻ tiên tri cho giai đoạn sau 30 tháng 4. Bởi v́, cho đến bây giờ, những khát vọng tự do và dân chủ, những khát vọng xóa bỏ bất cứ thứ độc tài cá nhân, đảng trị, hay toàn trị, những khát vọng về công b́nh xă hội, những khát vọng về một cuộc cách mạng xă hội cho người nghèo, v́ người nghèo, thiết nghĩ, vẫn c̣n là một khát vọng của đất nước Việt Nam chúng ta. Do vậy, trí thức miền Nam, thông qua các trào lưu tư tưởng triết lư Tây Phương với những cao trào chính trị, những cuộc đấu tranh đ̣i tự do, b́nh đẳng, t́m về dân tộc..., thay v́ là một thất bại, sau 30 tháng 4, bỗng nhiên trở thành một thực chứng, một đ̣i hỏi cần thiết.

 

Sau Hơn 30 năm nh́n lại, chúng tôi nhận thấy rằng các trào lưu tư tưởng triết lư Tây Phương, nhất là triết lư Hiện sinh  thông qua J.P Sartre đă có những ảnh hưởng nhất định  đến đời sống sinh hoạt trí thức miền Nam. Ảnh hưởng không chối căi được cũng là niềm hănh diện không chối căi được khi so với nền giáo dục độc đoán và toàn trị của miền  Bắc. Dù thua cuộc, dù thế nào đi nữa, nền giáo dục miền Nam bảo đảm cho tinh thần tự do, dân chủ, tôn trọng ư kiến người khác và có tính cách nhân bản. Sau hơn 30 năm nh́n lại, so sánh giữa hai miền.. Điều đó là một khẳng định khó mà nóí khác được.


 

 


 

[i] LM Alexis Cras (1909-1962), tu sĩ ḍng Đaminh, qua VN từ 1932, đă sáng lập CLB Phục Hưng (cercle renaissance) tại Hànội 1941 và Sàig̣n 1955, giúp giới SV Đại học. Giáo sư trường Louis Pasteur từ 1938-1944. Cha giữ chức vụ Bề trên phụ tỉnh Đaminh chi Lyon từ 1954-1961, đồng thời là giảng viên tại Đại học Văn Khoa Sàig̣n (1956-1962) và Đàlạt (1958-1962). Tháng 5-1962, ngài trở về bên Pháp  nghỉ ngơi th́ bị bệnh đau tim và mât ngày 07-7-1962, tại Lyon, Pháp, thọ 53 tuổi.

 

 

[ii] Xin xem thêm luận án Les Catholiques Vietnamiens pendant la guerre d!indépendance 1945-1954 entre la reconquête coloniale et la résistance communiste. Tran thi Liên. 1996

 

[iii] Những tài liệu liên quan đến cha Đỗ Minh Vọng là do lm Đỗ xuân Quế, Phục Hưng, cho phép tôi được sao chụp lại. Đây là vết tích cuối cùng c̣n để lại của cha Vọng, những trước tác, tài liệu khác, chắc đă bị phát tán, thất lạc ngay từ sau 1975.

 

[iv] Giáo sư Cung Giũ Nguyên vốn chỉ là một trợ giáo tập sự tại trường Nam tiểu học Nhatrang. Bài thơ đầu tiên là bài Le Mot, đăng trong tập san France-Adie, 1948. Tiếp theo là Một người vô dụng, 1930. Nhân t́nh thế thái, 1931. Nợ văn chương, 1934. Volontés d!existence, 1954. Le fils de la baleine, 1956. Le daumaine maudit, 1961 và Thái Huyên, 1995.

 

[v] Xem danh từ Triết học Cao Văn Luận, Đào văn Tập, Nguyễn Văn Trung, Linh Mục Xuân, Trần Văn Tuyên, trang 17.

 

[vi] Trích Triết học Hiện sinh, Trần Thái Đỉnh, nxb Văn Học, trang 7.

 

-          [vii] Văn chương hiện sinh. Thế kỷ 20, số 3 tháng 9, 1960.

-          Văn chương và Siêu h́nh học Thông cảm, 9-57

-          Tiểu thuyết mới trong văn chương Pháp, TK 20, số 6, tháng 12

-          Nhận Định 1 với những bài như cái nh́n, hối hận, thông cảm, e lệ, tự tử.Tất cả những bài viết trên đă dùng phương pháp Hiện Tượng Luận để mô tả.

-          Sau hết, có lẽ cũng nên kể đến những đóng góp trong việc giới thiệu những vấn đề cơ cấu, huyền thoại, tha nhân, hiện tượng luận, dục tính, thân xác vong thân, ngụy tín, những vấn đề mà bất cứ một sinh viên văn khoa nào cũng ít nhiều biết đến

 

 

 

 

 

 

 

[viii] Trên diễn đàn GĐ, có bài của Trần Nghi Hoàng cho rằng cuốn Nhận định1, một bản văn sao chép toàn bộ và chính hiệu từ cuốn * Les grands Courants de la pensé contemporaine Existentialisme, Marxisme, Personnalisme chrétienne của tác giả Jean-Marie Grevillot, nxb Édition du Vitrail. Trong khi đó cuốn Nhận định 1 đề cập đến các đề tài sau đây : Cái nh́n, Hối hận, Thông cảm, E lệ, Tự tử. Theo lối diễn tả Hiện Tượng Luận. Những đề tài này và cả nội dung cuốn Nhận Định1 cho thấy không trùng hợp một chút síu nào với các chủ nghĩa Hiện sinh, chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa nhân vị TCG cả  trong cuốn sách của Jean-Marie Grevillot. Ông TNH đă có dịp đọc và so sánh cả hai cuốn sách chưa. Nếu chưa , sao ông dám viết như thế.  Sau này, một lần nữa,  ông Đào Trung Đạo cũng đă dựa vào đó để tố cáo mà không dẫn chứng cụ thể.. Bôi bẩn là một hiện tượng rất hải ngoại.

 

[ix] Tất cả những nhan đề bài viết của Trần Thái Đỉnh, Nguyễn Văn Trung hay  của Trần Thiện Đạo, Trần Phong Giao th́ đều trích dẫn từ cuốn sách, in photocopie tựa đề : Nh́n lại những chặng đường đă qua. Người cầm bút, kẻ làm chứng, Montreal 2000, của Nguyễn Văn trung. Trong đó, đặc biệt chương 3 với Văn chương hiện sinh, từ trang 323 đến trang 392.

 

[x] Trích Chủ nghĩa xă hội không Cộng sản , thời Mỹ Nguỵ : Nội dung và ảnh hưởng. Nguyễn Trọng Văn.

 

[x]

Trích trong Catholiques et bouddhistes au Viet Nam, Piero Gheđo, Groupes des editions Alsatia diffusion 17, trg 366 Sản, tại miền Nam VN , thời Mỹ Nguỵ : Nội dung và ảnh hưởng. Nguyễn Trọng Văn.