Tôi đă
dụng tâm lấy lại tựa đề bài viết của Giáo sư Lư Chánh Trung
đăng trên tờ Tuổi Trẻ chủ nhật, 13.11.1988 làm tựa đề cho
bài viết của ḿnh. Ít ai làm như thế, v́ thiếu ǵ tựa đề.
Dụng tâm đó có thể là muốn nhắc lại, như ghi nhớ một người
thầy cũ, nhưng cũng đồng thời muốn nói cho mọi người, nói
cho độc giả đọc bài này thấy rằng: Cái tựa đề đó hay quá,
súc tích và đủ nghĩa, muốn chê cũng không được. V́ thế, phần
đầu bài viết của tôi chỉ cố gắng triển khai cái tựa đề của
ông thầy mà không đụng tới nội dung bài viết.
Ông thầy tôi, mặc dầu dân du học Pháp nhưng gốc gác vốn dân
Vĩnh B́nh, c̣n gọi là Trà Vinh, thuộc miền Tây. Ông bảo, về
đến Vĩnh B́nh là như chui vào cái rọ: tới nữa là lọt
xuống biển, sang hai bên th́ đụng hai cửa sông Cửu Long.
Ông là dân miệt vườn, chữ nghĩa tuy có đầy ḿnh nhưng cách
diễn tả vẫn là dân ruộng, có sao nói dzậy. Ông nói: một
môn học mà thầy không muốn dạy, tṛ không muốn học. Đối
với ông cũng như đối với dân ruộng, nói dzậy là đủ rồi. Qua
không muốn nói nữa. Đủ rồi là không cần nói nữa, nói nữa là
thừa. Nói nữa là qua nổi quạu.
Đă không nói nữa th́ ta thử xem, tựa đề đó muốn nói cái ǵ?
Có đời nhà ai, có cái môn học kỳ quái ǵ mà thầy không muốn
dạy, tṛ không muốn học? Thường th́ chỉ có tṛ không muốn
học. Điều đó hiểu được đối với những tên học tṛ lười. Nhưng
học tṛ giỏi, học tṛ chăm th́ vẫn muốn học. Nhưng chữ tṛ ở
đây, ông thầy muốn ám chỉ tất cả mọi tṛ, không trừ đứa nào.
Đứa dốt không muốn học đă đành, đứa giỏi cũng không muốn.
Đứa nhà quê, đứa ở tỉnh, đứa trong Nam, đứa ngoài Bắc, đứa
học năm nay, đứa năm tới sắp lên, đứa thế hệ hôm nay, đứa
thế hệ ngày mai… Tất tần tật. Tất cả các tṛ, bất kể lứa
tuổi, bất kể trai gái đều không muốn học. Chúng đồng ḷng
bảo nhau không muốn học.
Tṛ đă không muốn học, đến thầy cũng không muốn dạy là cớ
làm sao? Ai đă từng đi dạy học đều ôm lấy nghề, ấp ủ môn
ḿnh dạy như đứa con tinh thần. Nghề dạy nó chỉ cao quư ở
chỗ ấy, chỗ muốn truyền đạt, muốn để lại di sản tinh thần
cho những thế hệ đàn em. Nhưng chính ông thầy không muốn dạy
th́ c̣n ǵ là giáo dục? Không thể có một nền giáo dục chân
chính khi không có thầy, hay có thầy mà thầy không muốn dạy.
Không thể nói tới một nền giáo dục hay một môn học mà cả
người đi dạy và người đi học đều không muốn nh́n nhận nó.
Mà khi thầy không muốn dạy và tṛ không muốn học có nghĩa là
những người lớn, những đàn anh, những cha mẹ, những cô d́
chú bác, những bạn bè, những họ hàng, những láng giềng đều
đă có thời chui qua cái ngưỡng cửa hẹp của môn học đó rồi.
Họ đều đă có thời không muốn học. Và ngay cả những kẻ cầm
quyền, những kẻ đang ḥ hét ở bên trên bắt người khác phải
học cái môn học đó, cũng đă một thời cố thu nhỏ ḿnh lại để
có thể chui lọt qua cái lỗ nhỏ của môn học ấy. Họ cũng đă cố
nhồi nhét cho xong, trợn mắt trợn mũi nuốt cho bằng được chữ
nghĩa của môn đó, ê a tụng như tụng kinh cứu khổ. Họ học mà
không tin, biết nó tào lao, nhưng vẫn học.
Nói cho cùng, té ra cả nước đều không ai muốn học.
Nhưng nếu không muốn dạy mà vẫn phải dạy, không muốn học mà
vẫn phải học th́ cớ sự sẽ ra làm sao? C̣n làm sao nữa, chết
cả nước! Hậu quả không lường hết được. Nào ta thử xem. Thầy
không muốn nói cứ phải nói trở thành giả dối, nói điều không
thật, nói một đằng nghĩ một nẻo, hay nói xuôi, nói ngược,
nói lắt léo. Thầy lúc đó đánh mất phẩm cách, tự hạ giá ḿnh.
Thầy phải đóng kịch giả bộ như tin tưởng vào điều ḿnh muốn
nói, giả bộ khen lấy được. Đóng kịch như thế thầy không c̣n
là thầy, thầy không phải là người mà hóa ra ngợm. Tṛ không
muốn học mà vẫn cứ phải học hóa ra đầu óc trở thành tŕ trệ,
u tối, nói sảng hay học vẹt. Mất sáng kiến, mất sáng tạo,
thiếu óc phê b́nh, thiếu tinh thần cầu học, thiếu óc t́m ṭi.
Thà đừng học, nói cho cùng là càng học càng ngu. Cứ nhân bội
số lên cả nước th́ sẽ có một dân tộc đầu óc tŕ trệ, xuẩn
động. Một dân tộc có tinh thần nô lệ, bảo thủ, giáo điều cản
trở mọi xu hướng canh tân, mọi đà phát triển. Nếu cả nước
đều đóng kịch th́ cả nước sẽ làm thành một vở kịch. Cả nước
đóng kịch cho nên bộ môn kịch nước ta coi như không khá được.
Trước đây c̣n miền Nam, trụ sở nhà hát lớn đổi thành trụ sở
Quốc hội. Trước th́ nghệ sĩ tŕnh diễn, nay có các dân biểu
tŕnh diễn thay thế họ. Đă thế th́ cần ǵ phải đi coi kịch
nữa.
Và đây là một vài kết quả để chúng ta cùng nhau suy nghĩ về
hậu quả của nền giáo dục của đất nước chúng ta.
Báo Tuổi Trẻ, ngày 21.08.1993 đă báo động về nguy cơ hụt
hẫng nghiêm trọng đội ngũ cán bộ giảng dạy có tŕnh độ cao.
Dân chúng nghi ngờ các bằng tiến sĩ, phó tiến sĩ ở Việt Nam
như ông H.N.H, một người đỗ tiến sĩ ở Liên Xô về đă nói đại
ư: «Dắt con ḅ sang Liên Xô về cũng đậu tiến sĩ». Nói quá
đáng chăng? (Trích Nh́n lại những chặng đường đă qua,
Nguyễn Văn Trung, Nhà xuất bản Nam Sơn, Montréal, 1989).
V́ thế, người ta trù liệu ở Việt Nam đến năm 2010 có khoảng
35 ngàn tiến sĩ 62 ngàn thạc sĩ. Con số kể là lớn, đáng nể,
nhưng chỉ tội là có đến 75% các ông bà có bằng tiến sĩ đó
không giảng dạy mà lại đi làm cho các cơ quan công quyền.
Theo Viện Thông tin Khoa học Philadelphia, từ 1998 đến 2002,
Việt Nam có công bố gần 1500 công tŕnh khoa học tự nhiên,
nghĩa là cứ 200 người làm công tŕnh khoa học ở Việt Nam,
chỉ có hơn một người có công tŕnh nghiên cứu (0,3 ở Mă Lai,
tức cứ ba người làm công tác khoa học, có một người có công
tŕnh. Ở Đại Hàn, riêng năm 2001, có đến 43.000 bằng sáng
chế). Đă thế, có vị có bằng tiến sĩ về sinh vật, nhưng lại
viết hằng trăm bài về những đề tài chẳng có liên quan ǵ đến
ngành học của ông cả (trích «Cái
danh và cái thực của Giáo sư, Phó Giáo sư ở Việt Nam»,
tác giả Nguyễn Thế, talawas, 16.11.2004).
Đă đến lúc, cần quy định rơ ràng như ở Mỹ, Publish hay
Perish, hoặc là công bố công tŕnh nghiên cứu hay xé bỏ
văn bằng như tấm giấy lộn. Ở nước người, sau ba năm cầm cái
bằng tiến sĩ về treo ở pḥng khách mà không dùng để làm ǵ,
không có công tŕnh cũng không có giảng dạy th́ nếu có tư
cách, nên tước bỏ cái danh đó đi. Đó chỉ là một thứ tiến sĩ
giấy giống như những ông cửu phẩm, bát phẩm thời xưa thôi.
Về phía học tṛ, dưới đây, xin ghi lại một vài câu trả lời
theo lối học vẹt, trả lời ngô nghê đến như... vô học.
«Năm 1963, dưới sự chỉ đạo của đồng chí Nguyễn Cao Kỳ, cuộc
đảo chánh Ngô Đ́nh Diệm đă đi đến thành công tốt đẹp.»
«Đến rạng sáng ngày 30 tháng tư năm 1975, quân và dân ta
hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ và tay sai đầu hàng với một
số đă rút về nước và một số đă trúng vào mũi tên đă tẩm
thuốc độc đă hơn 4000 năm của dân tộc Việt Nam ta.»
«Nhiệm vụ của cụ Phan Chu Trinh là đứng ra thành lập Đảng
Cộng sản để lănh đạo các tổ chức của phong trào quần chúng
thay đổi về nền kinh tế theo lối tư bản chủ nghĩa.» (Sách đă
dẫn, trang 430.)
Ngay từ những năm sau Hiệp định Genève, tháng 10 năm 1956,
nghĩa là 3 tháng sau khi Đảng nh́n nhận những sai lầm trong
cải cách ruộng đất, luật sư Nguyễn Mạnh Tường, giáo sư
trường Đại học Văn khoa, Hà Nội đă đọc một bài tham luận: «Qua
những sai lầm trong cải cách ruộng đất, xây dựng quan điểm
lănh đạo», nhằm vạch ra những sai lầm trong sự
lănh đạo của Đảng và nhà nước. Cũng v́ bài diễn văn này, ông
đă mất chức giáo sư đại học và sống cuộc đời c̣n lại trong
túng thiếu và bị bỏ rơi. Năm 1991, nhân được dịp sang Pháp,
ông đă đưa cho nhà xuất bản Quê Mẹ ở Paris in và phát hành
cuốn sách tự thuật của ḿnh: cuốn L’ excommunié (Kẻ
bị khai trừ).
Kể từ lúc ông thầy cho đăng trên nhật tŕnh cái bài báo quái
đản: «Một môn học mà thầy không muốn dạy, tṛ không muốn học»
đến nay đă gần 20 năm. Mặc dầu có chính sách cởi trói cho
khoa học xă hội, mặc dầu đất nước đă có những thay đổi lớn
lao về mặt kinh tế theo định hướng kinh tế thị trường với
những quy luật của nó, cái môn học đó vẫn ngồi ĺ ra đó.
Mới đây, không phải vô t́nh mà là có chủ đích, trên trang
hai của số báo Đi Tới, số 82 bộ mới, năm 2005, tôi thấy anh
chủ bút cho in ba bức h́nh và một thông cáo của Bộ Giáo dục
và Đào tạo. Thông cáo nói về việc thi cử, trong đó thí sinh
tốt nghiệp phải thi các môn là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh. Ba bức h́nh đó muốn nói lên điều ǵ? Và
nhất là cái thông cáo về thi cử? Muốn hiểu rơ điều này, có
lẽ cần đi lại từ đầu.
Cách đây hai năm, trong số kỷ niệm 10 năm báo Đi Tới, tôi
cũng đă có dịp bầy tỏ lối tŕnh bầy h́nh ảnh của anh chủ bút:
«Giở một số báo, từ trang b́a đến ruột nó. Chỗ nào cũng
thấy bóng dáng của anh. Anh viết rất ít, hiếm lắm, hay qua
một bút hiệu th́ không biết được. Vậy mà viết nhiều đấy.
Chọn một h́nh b́a. Trang trọng tŕnh bầy một đầu đề cho một
bài báo. Rồi đóng khung, in nổi ư chính của bài. Người viết
nào cho Đi Tới mà không cảm thấy đă quá, v́ có người trân
trọng bài viết, hiểu được ư ḿnh. Nhờ anh mà một bài báo
được lên cấp, gây được chú ư và thích thú cho người đọc.
Trong cái cách viết của anh chủ bút, chỉ nh́n những bức h́nh
anh sưu tập, bỏ công khó kiếm cho ra, đặt nó một cách trang
trọng đúng chỗ. Những bức h́nh đó nói lên nhiều lắm. Chẳng
hạn trong số 50, bộ mới, tháng 10.2001, tờ b́a báo chụp một
em bé 4, 5 tuổi đang bới rác với lời chú thích: Trẻ em Việt
Nam năm 2000. H́nh chụp băi rác Phước Cơ, phường 11, thành
phố Vũng Tầu, Việt Nam năm 2000. H́nh ảnh đó soi rọi về một
viễn ảnh tương lai thế hệ trẻ Việt Nam. Chả có tương lai ǵ
cả. Nó ḍ, đục khoét vào chế độ, vào những người quản lư đất
nước.» (Đi Tới, số 69-70, tháng 5 và 6.2000, trang 8.)
Vẫn theo cái style viết cố hữu của anh chủ báo. Độc
đáo đến không có đến người thứ hai. Dùng h́nh ảnh thu lượm
đâu đó nói thay cho lời, nói đắt giá. Mỗi bức ảnh tự nó nói
lên một điều ǵ. Anh để độc giả tự xem, tự nghĩ, tự hiểu.
Trong đó đ̣i hỏi độc giả phải có con mắt khác thường, phải
tỉnh để hiểu những h́nh ảnh được tŕnh bầy. Xem phớt,
giở nhanh là không thấy ǵ, hoặc thấy cái không thấy. Cái
khó là ở chỗ đó. Phần anh chủ bút là một cách để anh bầy tỏ
thái độ, lập trường của tờ báo một cách rất trí thức. Không
ồn ào. Không rậm lời.
Trước cả lá thư chủ bút, anh đi một loạt ba h́nh ảnh. H́nh
một: Thanh niên Đông Đức Tây Đức: phá sập bức tường ô nhục
Bá Linh. H́nh hai: Cách mạng Nhung Tiệp Khắc tháo bỏ quần
tượng Lenin-Stalin. H́nh ba: Tuổi trẻ Âu Châu vĩnh
biệt Lenin. Chữ Goodbye Lenin được in trên ngực
một thanh niên Âu Châu. Ba bức h́nh đó muốn nói điều ǵ?
Bức h́nh thứ nhất: Thống nhất nước Đức, thống nhất hai miền
bằng một cái giá: Phải triệt hạ bức tường ô nhục, triệt hạ
cái làm cho nước Đức chia cắt. Phần tôi, rất cảm kích v́
những h́nh ảnh này. Tôi đă xúc động và cảm nghiệm sâu xa về
bài học thống nhất nước Đức. Dân Tây Đức đă bảo nhau bóp
bụng hy sinh hết tỉ đô la này đến tỉ đô la khác để vực Đông
Đức ra khỏi nghèo đói, thất nghiệp và tŕ trệ. Nghĩ đến thôi,
tôi ngậm ngùi cho đất nước Việt Nam v́ thiếu những nhà lănh
đạo khôn ngoan và hiểu biết như những người lănh đạo nước
Đức từ hai phía. Không có trả thù, không có học tập cải tạo,
không có tù đầy, không có chính sách hà khắc phân biệt, chỉ
có ch́a vai nâng đỡ đưa nước Đức lên trở thành một nước Đức
thống nhất và phú cường. Bài học 30 tháng Tư ở Việt Nam,
chúng ta chẳng những không triệt hạ bức tường ô nhục mà c̣n
dựng thêm nhiều bức tường ô nhục khác. Ô nhục kẻ thắng,
người thua. Ô nhục với đủ những tên gọi như: Bọn tay sai,
bọn ngụy quân, ngụy quyền, bọn lính đánh thuê, bọn Mỹ ngụy.
Bọn tay sai văn hoá đồi trụy. Đến có thể nói: Xoá
trắng hàng loạt cuộc đời và sự nghiệp (chữ của Phạm Thị
Hoài). Miền Nam không phải mất một chính quyền, mà mất tất
cả. Con người không có chỗ mà về, kẻ chết không có chỗ an
nghỉ. Đến nỗi hàng triệu người sau giải phóng đă phải bỏ
nước ra đi.
H́nh ảnh thứ hai cho thấy tự nó nói đủ về cái chết của chủ
nghĩa Mác-Lê. Các nước được gọi là tư bản th́ nay không c̣n
sợ cái bóng ma của Mác nữa. Các nước Đông Âu và nhất là Nga
Sô nay đă đồng loạt từ bỏ con đường xă hội chủ nghĩa, rồi
cộng sản chủ nghĩa. Nhưng những người lănh đạo Đảng vẫn
gióng lên ngọn cờ «tiến lên chủ nghĩa xă hội», vẫn cố
t́nh áp đặt cái chủ nghĩa đă lỗi thời, đă phá sản, đă bị
nguyền rủa, đă bị tẩy chay ngay từ các nước cộng sản Đông Âu.
«Chính Đảng cộng sản và các người cầm đầu kể từ Hồ Chí
Minh đă là nguyên nhân cho không biết bao nhiêu sai lầm, di
lụy đến số phận dân tộc, đất nước. Di lụy đó kể từ chính
sách cải cách ruộng đất, hợp tác hoá, cải tạo tư sản, đấu tố,
chỉnh huấn, Nhân Văn Giai phẩm, chống xét lại.» (Trích
Lữ Phương: «Lại
một bóng ma của Mác», talawas, 16.4.2005).
V́ đánh mất cơ hội, họ lấn sâu thêm một lần nữa vào những
sai lầm đáng nhẽ có thể tránh được sau 20 năm sai lầm ở miền
Bắc. Nay th́ có những sai lầm với những tên gọi mới: Chính
sách đi vùng kinh tế mới, chính sách bần cùng hoá toàn bộ
dân chúng miền Nam bằng đổi tiền, đánh tư sản mại bản, đánh
tàn dư văn hoá Mỹ ngụy và nhất là chính sách học tập cải tạo
đối với quân nhân và công chức miền Nam. Đất nước Việt Nam
thống nhất, một lần nữa ch́m đắm trong những hận oán, trả
thù đă quẳng hàng triệu người ra biển theo chính sách «con
ḅ sữa thuyền nhân». Sau 30 năm, chưa hề có một ngày vui.
Chưa hề có một lời xin lỗi và chúng ta đ̣i hỏi cái tối thiểu
là một lời xin lỗi đối với dân miền Nam.
Xin lỗi tất cả không trừ.
Xin lỗi ngững người làm ăn buôn bán v́ bị tước đoạt tài sản,
nhà cửa, tiền bạc. Truất hữu, chiếm đoạt tài sản của hằng
trăm ngàn người, phải gọi tên nó là ǵ? Xin lỗi những nhà
văn, những nhà trí thức v́ bị sỉ nhục, mất cái quyền được
phát biểu, được viết. Xin lỗi những sĩ quan, công chức đi
học tập cải tạo chỉ v́ khác chiến tuyến, chỉ v́ thua và
thắng, bất chấp luật lệ, giam giữ vô hạn định. Xin lỗi vợ
con những người đi học tập, v́ đă chia cắt, xa ĺa vợ chồng
con cái, làm đổ nát tan vỡ không biết bao nhiêu gia đ́nh.
Xin lỗi những người lính đă nằm xuống như tử sĩ ở nghĩa
trang Biên Hoà v́ không được mồ yên mả đẹp. Xin lỗi tuổi trẻ
v́ đă đánh mất tương lai, lẽ sống của họ vào những chủ nghĩa
giáo điều áp đặt. Không muốn dạy mà phải dạy, không muốn học
mà phải học. Xin lỗi cả nước v́ bao nhiêu năm đă làm cả nước
buồn. Trước giải phóng, người dân miền Nam cùng lắm chỉ biết
lo. Sau giải phóng, chưa có một ngày vui, người dân chỉ thấy
buồn. Nỗi buồn đó lan khắp phố phường, từ ngoài ngơ đến
trong nhà, rồi thâm nhập vào tâm hồn mỗi người. Cái cảnh mà
Trần Dần đă từng ghi lại:
Tôi
bước đi
không
thấy phố
không
thấy nhà.
Chỉ thấy mưa sa
trên
mầu cờ đỏ.
Tuệ Sĩ cũng ghi lại cùng một cảm nghiệm như thế :
Phố
trưa nắng đỏ cờ hồng
Sầu trên thế kỷ điêu linh.
Giấc mơ hoang đảo thu h́nh tịch liêu
Hận thù sôi giữa nắng chiều
Sông tràn núi lở nước triều mênh mông
Khói mù lấp kín trời Đông
Trời ơi tóc trắng rũ ḷng quê cha
Con đi xào xạc tiếng gà
Đêm đêm trông bóng Thiên hà buồn tênh.
Cũng xin ghi lại đây cảm nhận của một người xa quê hương,
sau 13 năm du học, trở về thăm quê nhà vào năm 1977: «Trở
về Huế sau mười mấy năm xa cách, tôi đă gặp lại một Huế thật
là – người Huế thường chỉ t́nh trạng này bằng bốn chữ ‘xanh
xương mét máu’ - một Huế đang giật ḿnh, một Huế đang run sợ
kinh hăi cho ngày mai, bên cạnh một Huế rất nghèo,
rất khổ. Đi trên đường phố, ít ai ngẩng đầu lên, có trao đổi
một nụ cười với ai th́ nỗi gượng gạo nơi người ấy đă ngăn
vành môi bên kia không cho cười hết miệng. Huế 1977
mà tôi gặp lại là một Huế lơ đăng, sầu hận và nghi ngờ, một
Huế bị phá sản hết mọi thiết tha.» (Thái Kim Lan, «Một
niềm vui. Một giọt nước mắt», 1977).
Xin lỗi chính họ v́ sự mù quáng, dốt nát của họ đă làm cả
nước khốn khổ.
Lẽ dĩ nhiên là họ không bao giờ nhận lỗi. Họ cũng chẳng tự
khúm núm để xin lỗi chính ḿnh. Nhưng tôi vẫn cứ đ̣i. Đ̣i
hôm nay. Không được. Mai đ̣i nữa. Không xin lỗi, cho nên
không lạ ǵ, sau 30 năm, người miền Nam vẫn không quên và
hiện nay vẫn chưa hàn gắn được những vết thương cũ. V́ thế,
đất nước chỉ thống nhất về mặt địa lư, nhưng ḷng người vẫn
chưa thực sự thống nhất.
H́nh ảnh thứ ba: H́nh ảnh một thanh niên Âu Châu trên chiếc
áo T-Shirt với câu: Good bye Lenin. Thế hệ thanh niên,
thế hệ tương lai của các dân tộc trên toàn thế giới giă từ
cái chủ ngĩa Mác-Lê để lên đường. Điều đó cũng muốn nhắn nhủ,
hay mong mỏi, hay ước mơ, hay cầu vọng tuổi trẻ Việt Nam
cũng có cơ may giă từ cái chủ nghĩa ấy để cùng với thanh
niên thế giới, để có cơ hội xây dựng một đất nước Việt Nam
chẳng những thanh b́nh, thịnh vượng mà c̣n Nam Bắc một nhà.
Ba h́nh ảnh đó tóm gọn cái kết thúc của một thứ chủ nghĩa
nay xét ra không c̣n thích hợp nữa và mở ra một viễn tượng
tương lai con người bước vào một kỷ nguyên mới.
Nhưng, tiếp ngay sau đó đến ngỡ ngàng, ông chủ bút cho đăng
cái bản thông cáo ra ngày 22.12.2004 của Bộ trưởng Giáo dục
và Đào tạo như sau:
Hai phương án thi tốt nghiệp đại học các môn Mác-Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh
Bộ Giáo dục Đào tạo vừa đưa ra 2 phương án cho các trường
Đại học, CĐ áp dụng tại kỳ thi tốt nghiệp đối với các môn
khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Theo đó, sinh viên các Đại học, Học viện, các trường Đại
học, CĐ hệ chính quy nếu đủ điều kiện quy định theo quy chế
phải thi cuối khóa các môn khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh được cấu trúc thành 3 học phần.
Các trường có thể chọn một trong hai phương án:
Thứ nhất :
·
Triết
học Mác-Lênin và chủ nghĩa xă hội khoa học
·
Kinh tế
chính trị Mác-Lênin
·
Lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh
Thứ
hai:
·
Triết
học Mác-Lênin, kinh tế chính trị Mác-Lênin
·
Chủ
nghĩa xă hội khoa học
Một môn
học mà thầy không muốn dạy, tṛ không muốn học.
Tác giả Hoàng Tùng, với bài tham luận «Thời đại mới, tư
tưởng mới» đă đề ra những hướng thay đổi chủ nghĩa xă hội
cho kịp thời đại mới, nhưng vẫn khăng khăng cho rằng cho đến
nay «chưa có học thuyết nào hơn hẳn học thuyết Marx trong
việc thay thế chủ nghĩa tư bản để xây dựng tương lai con
người.» (trích Lữ Phương, bài đă dẫn). Nhưng bằng vào cái ư
hướng muốn cải sửa chủ nghĩa Mác của một số người trong Đảng,
người ta vẫn hy vọng Đại hội 10 đem lại một chút ánh sáng
mới vào đêm trường tối tăm của cái chủ nghĩa ấy.
Trong bài viết của ḿnh, ông thầy tôi kể rằng vào năm 1975,
ông Phạm Như Cương, Viện trưởng Viện Triết học có cho rằng
cần mở thêm một khoa triết học đầy đủ ở trường Đại học Tổng
hợp Hà Nội. Đă 30 năm rồi, lời hứa của ông Phạm Như Cương
vẫn chưa thực hiện nổi. Ông thầy tôi viết: «Chúng tôi
nghĩ không phải chỉ học triết học trước Mác, mà c̣n học cả
triết học sau Mác... ngay cả cái triết học mà chúng ta đă
phê phán rất nhiều như triết học hiện sinh th́ nó cũng có
những phần tích cực của nó. Một anh học tṛ cũ của tôi, đă
thoát ly đi kháng chiến năm 1968, sau đó khi ra Hà Nội th́
mấy anh có hỏi: tại sao anh lại đi theo cách mạng, động cơ
nào thúc đẩy anh đến với cách mạng? Anh học tṛ trả lời rằng
do triết học hiện sinh, chính v́ triết học hiện sinh mà tôi
đi theo cách mạng.»
Câu trả lời thật trớ trêu, nhưng vẫn là sự thật.
HOME
contact : lekhanh@art2all.net
|