|
ĐÀNH NHƯ THÂN GÁI BÓNG XAO TIỀN ĐƯỜNG
Cách đây đúng 40 năm, năm 1976, tại trại tù Quảng Ninh, sau mấy tuần lễ đặt chân lên đất Bắc, trên hành tŕnh lưu đày biệt xứ, chúng tôi được cán bộ cho mượn một số sách báo để “giải khuây”. Trong số sách báo ấy có quyển “Truyện Kiều, NXB Trung Đại Học Chuyên Nghiệp Hà Nội 1976”, nghĩa là quyển sách vừa mới “ra ḷ”. Có ít người đọc quyển này, nên tôi “ôm lấy”, đọc và ghi chép cả tháng. Bản chép tay “kỉ vật” ấy hiện tôi c̣n giữ trong tủ sách. Những trang cuối cuốn Truyện Kiều này có hai trang sách tôi để ư và lấy làm thích thú, v́ là lần đầu tiên được đọc, khác với Kiều thời đi học ở Sài G̣n tôi đă “gặm nhắm” nhiều rồi. Một trong hai trang sách ấy đăng bài thơ “Kính Gửi Cụ Nguyễn Du” của Tố Hữu, và trang khác đăng bài “Một Ư Kiến” của Hà Huy Giáp nhận định về tư tưởng “lạc hậu”, “phản động” của Nguyễn Du. Cả hai bài đều rất đáng đọc và rất đáng suy nghĩ. Tôi chép lại, cất giữ, kể cả tập Truyện Kiều. Bốn mươi năm, thời gian đă khá dài, đủ để tôi cảm thấy tự tin về suy nghĩ của ḿnh mà đọc lại bài thơ “Kính Gửi cụ Nguyễn Du” của Tố Hữu. Trước khi đọc và nhận định về bài thơ, xin giới thiệu vài nét về con người nhà thơ này.
1. Chân Dung Tác giả Tố Hữu, tên thật là Nguyễn Kim Thành (sinh ngày 4-10-1920 mất ngày 9-12- 2002). Sinh quán, tỉnh Quảng Nam. Nguyên quán, tỉnh Thừa Thiên, Huế. Năm 1938 ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản. 1948 Phó Tổng thư kư Hội Văn nghệ Việt Nam; 1976 Ủy viên dự khuyết. Từ 1980 Ủy viên chính thức Bộ Chính trị; Chủ tịch thứ Nhất Hội đồng Bộ trưởng nhà nước CHXHCNVN. Tác phẩm: có bảy tập thơ, hai tập tiểu luận. Có 47 bài thơ được coi là những bài thơ tiêu biểu, trong đó có bài “Kính Gửi cụ Nguyễn Du”. Là một nhà thơ tiêu biểu của “thơ cách mạng” Việt Nam, một nhà thơ “hàng đầu” của chế độ miền Bắc, đồng thời là một chính trị gia. Lúc đương thời có chức tước địa vị, Tố Hữu khét tiếng là “tay trùm” văn nghệ có quyền sinh sát trong giới văn nghệ sĩ miền Bắc. Nhiều người là trí thức, văn nghệ sĩ đă là nạn nhân của ông ta. Nhiều nhà văn, nhà thơ bị bẻ ng̣i bút, bị tước đoạt mọi quyền căn bản: quyền ăn nói, quyền suy nghĩ, quyền thể hiện tư duy, và kể cả quyền sống. Một số bị bỏ tù, một số bị đày đi lao động cải tạo, hoặc bị cô lập, giam lỏng ở địa phương, thân tàn ma dại... Dưới tay trùm và cai thầu văn nghệ này, mượn quyền sinh sát của đảng để khống chế, đàn áp, không một ai dám hó hé. Cùng lắm là chỉ lên tiếng phê b́nh tác phẩm với tư cách là những người làm văn học nghệ thuật. Hoàng Cầm, Tử Phác, Hoàng Yến, năm 1955 thẳng thắn phê b́nh tập thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu là “ít vốn sống thực tế”. Với bài thơ khóc Stalin: “Đời đời nhớ ơn ông”, Hoàng Cầm, Tử Phác, Hoàng Yến phê phán “Tố Hữu thương vay khóc mướn và bi lụy hóa t́nh cảm của nhân dân Việt Nam trước cái chết của Stalin”. Từ đó “Nhân văn-Giai phẩm” bị đàn áp và những nhà thơ này sống không yên, đă bị Tố Hữu trù dập đến thân bại danh liệt. Khi Tố Hữu c̣n quyền uy thanh thế, không một ai dám đả động đến. Nhưng sau khi đă nhắm mắt, dư luận bắt đầu có tiếng nói, nêu đích danh Tố Hữu (TH) với những chuyện khó ưa. Đầu tiên là bài "Gặp Tố Hữu tại biệt thự 76 Phan Đ́nh Phùng", Tố Hữu trả lời phỏng vấn có ghi âm của Nhật Hoa Khanh năm 1997, công bố năm 2004, sau khi TH mất. Vợ ông, bà Vũ Thị Thanh phản đối, cho là những tài liệu giả mạo, trong khi các tờ báo chính thống tại Việt Nam đă đồng loạt phổ biến. Sở dĩ bà Vũ Thị Thanh, vợ Tố Hữu phản đối v́ nội dung bài phỏng vấn nêu lên các sự kiện văn học trước kia như Nhân văn-Giai phẩm và các nhà văn, nhà thơ từng là nạn nhân của ông ta, mà khi trả lời phỏng vấn, Tố Hữu lại hết lời ca ngợi họ.. Năm 2013 trên tờ báo điện tử “Nhân Văn” TPHCM, tác giả Nguyên Hạnh nêu trường hợp Trần Đăng Khoa, trong “Chân dung và Đối thoại” viết, “Tố Hữu thừa nhận chưa bao giờ được HCM khen thơ của ông”. Và Nguyên Hạnh đưa ra mấy nhận định: 1- Tố Hữu chỉ là một người hơi ấu trĩ và ngây thơ trong nhận thức về XHCN và cách mạng. Tệ hơn, Tố Hữu luôn ngợi khen người lănh đạo cộng sản nào cũng vĩ đại. Sai lầm lớn nhất của TH là lớn tiếng ca ngợi Stalin và Mao trạch Đông. 2- Tư tưởng Tố Hữu tỏ ra rất non nớt, thơ Tố Hữu đôi khi hay thổi kèn đánh trống ầm ĩ về chiến thắng, có những câu thơ khá “lộng ngôn”. (*) Trong cuộc chiến xâm lăng VNCH, CSVN đưa ra khẩu hiệu “sinh Bắc tử Nam”, thu gom toàn bộ thanh thiếu niên miền Bắc, xua vào chiến trường miền Nam. Cũng có nhiều nhân vật cao cấp được/bị đưa vào miền Nam như Vơ Văn Kiệt, Phạm Hùng, Nguyễn Văn Linh, Trần bạch Đằng, Nguyễn Chí Thanh v.v.. th́ Tố Hữu có được/bị chỉ định vào miền Nam hoạt động cũng không phải là chuyện lạ. Tại sao lại không?
Tố Hữu đi đâu qua huyện Nghi Xuân vào lúc
nửa đêm trong thời kỳ cuộc chiến Bắc Nam? Hay thời gian 15
năm “luân lạc” trên chính trường (1960 -1975) có ǵ đó làm
nản chí “nam nhi”, khiến tác giả quên rằng: “đă mang lấy
nghiệp vào thân/ cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa” (câu
3249), mà nảy ư định nhảy sông... Tiền Đường. Sao tâm trạngï
lại “ngẩn ngơ”, “chua cay” đến thế, như từ tay ông viết
xuống. Đó là lư do người viết “đi vào” tâm trạng TH trong
bài thơ “Kính gởi cụ Nguyễn Du” sau đây. 2. Bài thơ Kính gởi cụ Nguyễn Du
Nửa đêm qua huyện Nghi Xuân Bài thơ “Kính gởi cụ Nguyễn Du” phải nói là một bài thơ hay, đầy cảm xúc mà những cảm xúc này rất thật, không vẽ vời, không hư cấu; mượn chuyện người để nói chuyện ḿnh, mượn cảnh ngộ của người để thổ lộ tâm trạng, cảnh ngộ của ḿnh. Thời gian và không gian trong bài thơ được tác giả ghi nhận rất cụ thể. Người đọc không biết ngày tháng, năm nào, nhưng thời điểm rơ ràng là vào lúc nửa đêm và nơi chốn là huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh - địa danh nói tới ai cũng biết, quê hương Nguyễn Du.
Là một nhà thơ lớn như Tố Hữu, dù muốn dù
không, với Nguyễn Du, Cao Bá Quát... là những kẻ “đồng hội
đồng thuyền”. Khi đi qua huyện Nghi Xuân, một người như TH
làm sao không chạnh ḷng tưởng nhớ đến Nguyễn Du, đến Truyện
Kiều (TK), huống ǵ tác giả đang mang một tâm trạng “thương
yêu tê tái” giữa ḍng đời (trong đục), dẫy đầy những hơn
thua, được mất, công danh, sự nghiệp, hiện tại, tương lai
... mà thân phận bấp bênh như cánh bèo lênh đênh trôi nổi: Bây giờ giữa đêm khuya vắng, nơi huyện Nghi Xuân, sau lưng và trước mặt, sẽ đi về đâu? Vào Nam hay ra Bắc? Đi vào sinh lộ hay tử lộ? Quả là một nỗi mênh mang tâm sự:
Ngổn ngang bên nghĩa bên t́nh Ở Nghi Xuân có ḍng sông Lam, bao la, trong xanh bát ngát, nhưng tác giả không gieo ḿnh ở đó. H́nh bóng nàng Kiều nơi sông Tiền Đường được nhắc đến chính là thái độ chấp nhận của tác giả trước hoàn cảnh trái ngang của ḿnh. Hai câu thơ này không c̣n là những ẩn dụ, ví von nữa, mà là một khẳng định “đành như thân gái”, ta cũng như nàng đành chấp nhận liều thân:
Ngẩn ngơ trông ngọn cờ đào Nàng Kiều gặp Từ Hải, sau “nửa năm hương lửa đương nồng” (TK. câu 2213), Từ Hải lại xông pha trận mạc, Kiều lại một ḿnh “chiếc bóng song mai”, lại nhớ quê nhà, nhớ mẹ cha, và nhớ quay quắt về Kim Trọng:
“Tiếc thay chút nghĩa cũ càng Trong bài thơ, tác giả không nhớ về t́nh cũ như nàng Kiều, mà nghĩ về nỗi niềm, về cảnh ngộ của ḿnh, “Nỗi niềm nghĩ đến mà thương” (câu ) - những ǵ được, những ǵ mất, những vương vấn với gia đ́nh, với công danh, sự nghiệp.. biết mất c̣n ra sao đây. Nỗi niềm ấy nghĩ đến mà xót thương thân phận. Nỗi niềm ấy chết cũng chưa xong. Hơn hai trăm năm, hậu thế đă khóc cùng Tố Như, nhưng hậu thế sẽ có ai khóc cùng tác giả:
Nỗi niềm nghĩ đến mà thương Hai trăm năm trước Nguyễn Du mô tả thân phận nàng Kiều. Hai trăm năm sau không ngờ tiếng thơ Truyện Kiều lại vận vào thân phận tác giả. Tiếng vọng cung đàn xưa, nỗi đau và cuộc t́nh dang dở từ hai trăm năm trước giờ đây thẩm nhập sâu xa vào tâm tư người hậu thế đang đứng giữa đêm khuya, nơi huyện Nghi Xuân.
“Mai sau dù có bao giờ” Khi ngổn ngang về cảnh ngộ của ḿnh, tác giả quả thật đă chạnh ḷng nghĩ tới nàng Kiều. Là thân phận đàn bà - thân ấy biết là mấy thân, đă từng với Sở Khanh chốn thanh lâu, với Thúc Sinh khi th́ Lâm Truy, Quan Âm các, khi th́ lầu xanh Châu Thai, “thanh lâu hai lượt/ thanh y hai lần”, rồi cùng Từ Hải... trải qua bao nhiêu sóng gió, “nửa đời nếm trải mọi mùi đắng cay” (TK. câu 3036) nhưng Kiều vẫn nặng ḷng với t́nh, không phải t́nh trăng hoa, nàng đă cự tuyệt đêm giao hoan với Kim Trọng sau khi tái hợp, nhưng ḷng thơ vẫn... t́nh đời tha thiết:
Trải bao gió dập sóng dồi
Ngẫm xem qua kiếp phong trần “Phần vui” nửa đời ấy, cũng là “phần vui” của tác giả bài thơ. Cũng khoảng 15 năm, kể từ ngày gia nhập đảng CS (năm 1938) đến năm 1955 là Ủy viên chính thức Trung ương; 1960 được bầu vào Ban Bí thư. Từ thập niên 60s cho tới năm 1975; Mười lăm năm “đứng yên tại chỗ”.
Khổ thơ đang từ “vui” đột ngột chuyển sang buồn, cay cú, gay
gắt để thổ lộ một tâm trạng.
Song c̣n bao nỗi chua cay Đoạn thơ tiếp nối là những lời lên án “quân Ưng Khuyển”, “bầy Sở Khanh”, “loài hổ báo”, “phường gian ác”..., những lời nguyền rủa thấu tận trời đất, vọng đến ngh́n thu để hôm nay và ngàn năm sau tiếng thơ Nguyễn Du vẫn như tiếng mẹ ru hời. Câu cuối bài thơ là lời kết của tác giả “kính gửi cụ Nguyễn Du”, sau khi đă bày tỏ cùng cụ những “ngẩn ngơ trông ngọn cờ đào, cảm thơ thuở trước đâu ngờ hôm nay, song c̣n bao nỗi chua cay” v.v.., toàn những tâm sự buồn. Vậy th́ làm sao lại có “khúc vui” chia sẻ với người muôn năm cũ được? Nếu tác giả dùng hai chữ “khúc nôi” (Khúc nôi xin lại so dây cùng người); hay hơn thế nữa “Nỗi đau xin lại so dây cùng người” th́ bài thơ toàn ư. Nhưng không được, nó lộ liễu quá, “đụng chạm” quá. Chắc chắn sẽ bị quy kết là bất măn, là lệch lạc quan điểm lập trường, nên đành biến khúc nôi, nỗi buồn, thành “khúc vui” vậy:
Tiếng thơ lay động đất trời
|