|
NHỮNG MẢNH ĐỜI TRÔI DẠT
(Riêng tặng Ngô Văn Thọ nhân vật của truyện)
Kiều Oanh học xong lớp Mười Hai Trung học. Cầm tờ chứng chỉ tốt nghiệp, tương đương với văn bằng Tú Tài Toàn phần của thập niên sáu mươi, ḷng nàng mừng vui vô hạn. Nhưng cùng ở thời điểm đó, biến cố 30 tháng Tư 1975 đă đẩy gia đ́nh nàng bước qua khúc ngoặt của định mệnh. Miền Nam đổi chủ. Sài G̣n bàng hoàng trong âu lo, ngơ ngác và tán loạn. Cha nàng đă vào trại tập trung cải tạo, bị đày ra núi rừng Việt Bắc. Tiệm buôn của mẹ nàng bị tịch thu. Các em nàng phải bỏ học. Kiều Oanh cầm lá đơn xin thi vào đại học, bất cứ nơi nào người ta cũng không nhận. Lư do của sự từ chối chỉ đựơc hiểu ngầm, nhưng ai cũng biết, đó là gia đ́nh thuộc thành phần Thiên chúa giáo, cha là Sĩ quan chế độ cũ, gốc Bắc Năm Tư, mẹ là "tư sản bóc lột", những thứ tối kỵ đối với chế độ hiện tại. Kiều Oanh nổi tiếng là một thiếu nữ đẹp và dịu hiền. Nàng sinh ra và trưởng thành trong một gia đ́nh giàu có, thuộc giới thượng lưu của xă hội miền Nam. Tuy vậy, Kiều Oanh lại mang một bản chất nhún nhường, khiêm tốn, giàu ḷng nhân hậu. Không bao giờ người ta thấy nàng có thái độ lạnh lùng, kênh kiệu như một số tiểu thơ đài các cùng trang lứa. Bà Đỗ Quỳnh Oanh từ một thuơng gia giàu có, tiếng tăm, bỗng chốc tán gia bại sản. Bà đă cố chống chọi với mọi hoàn cảnh, mọi tai họa, bà đă nhẫn nhục, chịu đựng mọi khổ đau để đùm bọc nuôi nấng ba đứa con và để ngóng chờ trong hy vọng ngày chồng bà được thả về. Kiều Oanh khi nào cũng bên cạnh mẹ. Nàng là đứa con và cũng là người bạn tinh thần, luôn luôn vỗ về an ủi mẹ. Nàng làm mọi cách để chia sẻ những nỗi đau buồn của mẹ. Có thể nói, cả hai mẹ con bà Quỳnh Oanh đều cảm thấy nếu thiếu vắng một người th́ người kia không thể sống nổi. Nhưng lẽ đời, nước mắt chảy xuôi, người mẹ nào mà không sẵn sàng có những hy sinh cao cả dành cho con cái. Trong hoàn cảnh thế cùng sức kiệt, v́ nghĩ đến tương lai của con cái về sau, bà quỳnh Oanh đă quyết định gánh vác hết mọi công việc, mọi hậu quả, chấp nhận mọi cảnh ngộ cô đơn, đè nén t́nh cảm nhớ thương, lo sợ, âm ỉ dằn vật và thu xếp cho con gái vượt biên. Kiều Oanh từ nhỏ đến lớn sống trong ṿng tay yêu thương và hơi ấm của cha mẹ, của gia đ́nh. Chưa bao giờ nàng thoáng có ư nghĩ là sẽ phải rời xa tổ ấm đó. Nhưng ba năm rồi cha nàng đă đi biền biệt sau cái thông cáo của Ủy Ban Quân Quản Sài G̣n- Gia Định kêu gọi các quan chức chính phủ Sài G̣n đóng mười ba ngh́n năm trăm đồng tiền ăn, tập trung "học tập trong một tháng". Mỗi năm gia đ́nh nàng nhận được vài ba lá thư viết trên giấy học tṛ, nội dung tẻ nhạt, khô khan. Nàng đâu biết được cảnh rừng thiêng nước độc, nơi cha nàng đang thụ h́nh mà cái địa chỉ trên góc b́ thư là một hàng ám số và ám tự : TD 613 YB / 03. Nàng đâu biết được đă ba năm rồi cha nàng đă chịu đựng biết bao nỗi nhục h́nh cay đắng trong cảnh trầm luân nơi địa ngục trần gian có thật của thiên đường XHCN. Nàng cũng đâu biết được lá thư kia, cha nàng đă phải chép đi chép lại mấy lần khi qua tay kiểm duyệt của cán bộ quản giáo, cán bộ giáo dục, cán bộ an ninh tŕnh độ cỡ lớp hai, lớp ba trường làng, trước khi bưu điện mang đến cho gia đ́nh nàng. Cũng ba năm rồi, các em nàng lêu bêu nơi các công trường thủy lợi. Mẹ nàng với tuổi bốn mươi hai mà trông già nua tiều tụy. Nàng không bao giờ muốn xa rời mẹ, dù chỉ một ngày. Nàng không bao giờ đành ḷng rời bỏ hai đứa em trong lúc này. Nàng đặt hết trông cậy và tin yêu vào cha nàng. Nàng hy vọng mănh liệt vào giây phút được chạy đổ xô lại, đón ṿng tay của ba ôm chặt lấy nàng khi ông được thả về. Trong khổ đau tăm tối của cuộc đời trước mặt, nàng vẫn vẽ cho ḿnh nhiều hy vọng và tin tưởng ở ngày mai. Nhưng rồi, cái ǵ tới đă tới, ngày đi đă định. Ngày N giờ G và điểm hẹn đă kề. Kiều Oanh ḷng ră rời, bịn rịn. Khi chia tay, mẹ nàng cúi xuống hôn lên mái tóc con gái. Nàng choàng tay ôm mẹ, khóc tức tưởi, nghẹn ngào. Nàng nói trong nức nghẹn : - Xin ba mẹ tha thứ cho con. Rồi nàng đứng lên, quay lưng bước vội vàng trong đêm tối như để trốn chạy người mẹ hiền yêu dấu, như để chạy trốn nỗi ḷng se thắt và sự mềm yếu có thể ngă quỵ của chính ḿnh. Có ai ngờ định mệnh oan nghiệt đă an bài. Chuyến đi ấy đă thất bại. Trên ba mươi người bị bắt. Một số người có đem theo vàng bạc đút lót th́ được thả ngay nơi "băi đáp". Có người được cố ư cho "chạy thóat" trên đường giải về trụ sở công an, như ông Nguyễn Tâm, cựu Hiệu Trưởng trường Phan Bội Châu, Sài G̣n sau khi đă cởi cho viên công an áp giải chiếc nhẫn một chỉ vàng, cởi đồng hồ đeo tay và cởi cả chiếc quần treillis, loại quần xanh lá rừng của " lính ngụy" mà cán bộ cách mạng khi vào được miền Nam rất ham. Những người không tiền đút lót, mua chuộc, đều bị giải từ Bà Rịa về Khám Chí Ḥa để điều tra, khai báo, t́m cho bằng được người tổ chức có túi vàng thu gom từ những "can phạm" chối bỏ thiên đường XHCN. Các can phạm c̣n phải làm" tự kiểm" nhận tội với cách mạng và khôn khéo lựa chọn cán bộ đến móc nối gia đ́nh, để được tha sớm. Một năm sau, tất cả những người không có " thế lực kim tiền" cứu gỡ đều bị chuyển lên trại tù Đồng Phú, tỉnh Sông Bé. Trong số đó có Kiều Oanh. Khi Kiều Oanh và đoàn "khách mới" nhập trại th́ trại Đồng Phú đă có sĩ số trên ba ngàn người, đủ mọi thành phần, tuổi tác, già trẻ, nam, nữ, từ một trí thức, giáo sư đại học đến một thằng bé móc túi mười ba tuổi đầu. Tất cả được giam chung lẫn lộn dưới một " mái trường" với cái tên thật kêu, thật đẹp : " Trường Phổ Thông Cải Tạo Công Nông Nghiệp." Kiều Oanh cùng ba cô bạn được biên chế vào đội số 13 toàn nữ. Đội trưởng là một người đàn bà trên ba mươi tuổi, có biệt danh từ ngoài đời là Nàng Chôm. Nàng Chôm đă ở đấy từ ngày mới dựng trại, tháng 10- 1977. Sau bốn năm trưởng thành trong làng chôm chĩa, sau khi bị Đội Quản Lư Thị Trường xô đẩy, giựt mất mấy thúng hàng rong bán ở lề đường, vào "trường" nhờ trao đổi kinh nghiệm, mánh khóe cùng các " môn phái" mà ngón nghề càng thêm tinh xảo. Nhờ " sống lâu lên lăo làng", nhờ mồm mép " lợi khẩu", lại nhờ vốn dĩ là dân chịu chơi, rút kinh nghiệm v́ chơi không đẹp với cán bộ Quản Lư Thị Trường nên vào trại nàng Chôm luôn luôn " chiều ḷng" các cán bộ, chẳng bao lâu nàng nổi bật trong hàng chức sắc, khét tiếng là tay hung thần của bất cứ đội tù nữ nào do ả làm đội trưởng.
Sau ba tháng "học tập", không chịu nổi những cực h́nh mang đủ
tính chất hành hạ của "Trường Phổ Thông Cải Tạo Công Nông Nghiệp", Kiều Oanh
cùng hai người bạn gái khác đă trốn trại. Hai người bạn bị bắt lại. Kiều Oanh
lẩn trốn trong rừng gần mười ngày. V́ không có lương thực, đói lạnh, cuối cùng
nàng đă kiệt sức, nằm chết dưới một gốc cây. Câu chuyện trên đây được Trúc Vân kể cho Nguyễn Lê nghe trong một buổi toàn trại lao động XHCN, đào mương thủy lợi. Nguyễn Lê là một trong những "người khách" mới, vừa được chuyển từ trại tù khác tới. Lê là bạn học với anh của Trúc Vân ở Đại Học Văn Khoa. Trúc Vân sửng sốt khi nhận ra Lê trong đám tù mới tới. Lợi dụng buổi lao động đông người nhốn nháo, Trúc Vân gặp Nguyễn Lê để thăm hỏi chuyện tṛ. Kể hết câu chuyện về Kiều Oanh cho Nguyễn Lê nghe, Trúc Vân cúi xuống, giấu những hàng lệ tuôn trào, sợ xung quanh để ư. Đợi cho Trúc Vân hết xúc động, Nguyễn Lê hỏi: - Thế th́ gia đ́nh của Kiều Oanh đă biết tin Oanh chết chưa? Trúc Vân nghẹn ngào: - Có lẽ chưa anh ạ. Ban Giám Thị chỉ báo cho gia đ́nh là Oanh trốn trại và coi như mất tích, mặc dù trại đă t́m thấy xác chị ấy. Mấy lần ra nhà thăm nuôi, em trông thấy mẹ của chị ấy ngồi cuối dẫy bàn, nhưng nội quy cấm tù tiếp xúc với ngườI đến thăm, hơn nữa bọn em không nỡ cho gia đ́nh bác ấy biết cái tin đau buồn đó. Nguyễn Lê ngồi đờ đẫn, thở dài, mắt dơi nh́n về phía cánh rừng trước mặt. Một con quạ đen lao tới rượt đuổi một con diều hâu. Con diều hâu nghiêng cánh, chao ḿnh rồi vút bay đi như trốn chạy. Nguyễn Lê liên tưởng đến cái nhăn hiệu con ó và màn kết thúc cuộc chiến Việt Nam. Giọng nói của Trúc Vân cắt ngang ư nghĩ của Nguyễn Lê: - Anh bị bắt v́ tội ǵ? Trước khi đến đây anh đă ở những trại nào? - Anh bị kết tội là đầu sỏ trong nhóm trí thức, tư sản Sài G̣n tổ chức vượt biên và liên lạc với các thế lực phản động ở nước ngoài. Sự thật, anh mới có ư định rủ một số người quen t́m phương tiện để ra đi, và chỉ mới nói ra ư định đó. " Tai vách mạch rừng" nên anh bị bắt. Anh bị đưa vào trại Phan Đăng Lưu và bị ở biệt giam, cùm hai chân mất bảy tháng mười sáu ngày. - Sao anh bị cùm lâu thế? - Tại anh căi lư với họ. Nói chính xác hơn là anh tranh luận với cán bộ chấp pháp. - Sao anh tranh luận với họ làm ǵ? - Lúc đó anh cứ nghĩ tranh luận để làm sáng tỏ vấn đề khi họ kết tội anh một cách vô căn cứ. Họ lại giảng cho anh những bài học chính trị một chiều, ngớ ngẩn nhất. Anh hối hận đă ngây thơ, nhưng nghĩ lại c̣n biết bao nhiêu người trước kia sống phè phỡn nhờ vào tiền bạc và ḷng tin cậy của người dân mà họ c̣n ngây thơ đến độ đem niềm tin cậy đó bán rẻ cho đối phương. Anh chấp nhận v́ ít ra ḿnh không hèn. - Anh có bị họ đánh không? - Không, anh không bị đánh, nhưng cách của họ là khi yếu lư lẽ, khi " chính nghĩa" của họ bị lật tẩy, họ mặc cảm bị xúc phạm nên họ trả thù. Đưa vào pḥng kỷ luật, cấm thăm nuôi, cấm viết thư, cấm nhận thư gia đ́nh, giảm mức ăn, biệt giam, tăng án v.v. Nói xong, Nguyễn Lê quay sang hỏi lại Trúc Vân: - Cô ở đây đă lâu, cô thấy Ban Giám Thị trại này thế nào? - Nơi nào cũng vậy anh ạ. Trại nào cũng dưới một hệ thống của Cục Quản Lư Trại Giam. Người cũng th́ cũng có người tốt, kẻ xấu. Trại này có ông Lem thường ưa ăn uống của nữ tù nhân, từ một tô mỳ đến một ly nước chanh. Nghĩ cũng tội nghiệp. Họ cũng đói thèm, thiếu thốn. Ông Tơm th́ hay nhờ người nhà ḿnh mua giùm đồ khi đến thăm nuôi mang vào rồi "quên" trả tiền. Đám cấp dưới th́ phần đông rất hống hách. Họ đánh đập tù nhân vô tội vạ. Họ chửi bới tù nhân khi họ không vừa ḷng. Hôm nọ có thằng bé trong đội thiếu nhi phạm pháp đi nhổ cỏ, bẻ một trái bắp mà bị cán bộ En đánh đến ngất xỉu. Trúc Vân xoay người, dùng lưỡi cuốc chim cạy lên một tảng đá ong rồi nói tiếp: - Dẫu sao ở trại này cũng dễ chịu hơn trăm lần so với ở các trại tạm giam, như ở trại Mạc Đĩnh Chi, Quận Một đó, quả thật là địa ngục trần gian. Ngoài chế độ quản lư hà khắc, c̣n bị cái nạn "đại bàng", bởi một loại băng đảng mà họ tự nhận là "hung thần thời đại". Đám này là những tay phạm tội h́nh sự do Ban Giám Thị cử ra dưới các chức danh Đội Trưởng, "Trật Tự", "Thi Đua", chủ trương lấy tù trị tù, dùng tù nhân đàn áp tù nhân, dưới sự chỉ đạo của các cán bộ. Đám này có quyền sinh sát trong tay. Chúng lấy bớt hoặc tước đoạt hết mọi thứ thức ăn, đồ đạc gia đ́nh gửi vào. Chúng sẵn sàng trừng phạt đủ mọi thứ roi đ̣n tàn bạo với bất cứ ai phản đối các hành vi của chúng. Nguyễn Lê đă từng ở trại tạm giam Phan Đăng Lưu, đă từng bị nhốt xà lim, đă nếm đủ mọi mùi vị cơ cực nhất, nhưng khi nghe Trúc Vân kể anh cũng cảm thấy rờn rợn, xúc động đến rùng ḿnh.
Hai tháng sau, kể từ ngày gặp Trúc Vân trong buổi lao động XHCN đào mương thủy lợi, cả trại tù Đồng Phú xôn xao khi nghe tin Nguyễn Lê đă trốn trại. Toàn thể Ban giám thị và hơn ba công an gác tù nhốn nháo chạy ra chạy vào. Lịch tŕnh lao động của tù nhân không thay đổi, nhưng số công an súng dài gác tù chỉ c̣n lại một người kiêm luôn nhiệm vụ "quản giáo". Nhiều toán vơ trang truy nă được thành lập, chia thành các hướng vào rừng lùng sục. Một số cải trang thường dân giả dạng khách đi xe đ̣ về Sài G̣n ḍ la tin tức, manh mối. Khu vực gia cư của thân nhân, họ hàng Nguyễn Lê do công an mỗi phường bố trí bám sát theo dơi hai mươi bốn giờ, suốt ngày đêm. Toán truy nă có bí số Z.3 gồm ba người do Hùng Lé dẫn đầu, vô t́nh lại đi sát mục tiêu nhất. Từ lúc vượt thoát, thoát khỏi hàng rào ṿng cung canh gác của trại Đồng Phú, ban ngày Nguyễn Lê t́m hang hốc, lùm cây dùng lá khô, cây cỏ phủ lấy người để ẩn trốn. Ban đêm lần ṃ ra ven lộ t́m hướng đi về tiếp. Tới đêm thứ ba, sau ba ngày vượt bộ, thiếu ăn, thiếu ngủ, Nguyễn Lê đă mệt mỏi, đuối sức. Anh quyết định t́m nơi an toàn ngủ một đêm, sáng sớm tiếp tục t́m hướng vượt rừng, thay v́ lần theo đường bộ. Khoảng mười hai giờ đêm, bỗng đâu như có bàn tay người nào vỗ vào vai anh, bảo thức dậy. Anh mở mắt. Hai vệt đèn pile từ đằng xa rọi lại, chiếu xéo qua chỗ anh nằm cách mấy mét. Rồi một vệt sáng quét thành ṿng cung. Vệt sáng lại quét xéo theo hướng cũ, mỗi lúc một gần. Anh nằm im bất động. Tiếng sột soạt gần thêm. Vệt sáng xa dần về phía trước. Nguyễn Lê nghe rơ tiếng Hùng Lé : - Tao không tin là nó đă trốn thoát. Nó vẫn ở trong khu rừng này. Không lẽ ḿnh chịu thua nó. Tiếng Dữ "đầu ḅ" đáp lại: - Có thể nó đợi ḿnh chán nản, rút về rồi nó mới đi. Biết đâu nó đă đi thoát rồi. Mà ḿnh chịu thua nó có sao đâu. Tụi nó đâu làm hại ǵ ḿnh. Tao khổ quá rồi. Ba đời ở đợ, ba đời làm mướn mới khoác được cái aó công an này. Hănh diện đéo ǵ. Ngày tám tiếng vác súng theo tụi nó dạo khắp ngoài đồng, đêm về ôm súng gác ngoài pḥng giam, nghe tụi nó cười nói, ngửi mùi thức ăn thơm lừng trời do gia đ́nh tụi nó tiếp tế... hết chịu nổi. Mày hăng hái cứ tiến lên đi, bắt được thằng phạm mày sẽ được b́nh bầu chiến sĩ thi đua kỳ này. Dữ bỏ lửng câu... Hùng Lé quát lên, âm thanh sắc nhọn nhưng nặng trịch, lạc lơng giữa rừng hoang trong đêm vắng: - Đồng chí. Câm miệng lại. Nguyễn Lê nghe giọng nói của một người thứ ba: - Đề nghị các đồng chí im lặng và tiếp tục nhiệm vụ. Hắn đổi giọng thân mật : - Biết đâu nó cũng sẽ chết giữa rừng như người con gái trước đây. Anh Hùng c̣n nhớ con Kiều Oanh, con nhà sĩ quan ngụy ấy không? Hùng Lé không trả lời. Người lính thứ ba nói tiếp: - Mất ba ngày đêm rồi, đói cực thấy mẹ. Nếu tóm được tao sẽ cho nó vài ba chục cái báng súng thử xem nó cứng đầu đến đâu. Lần này Hùng Lé đáp lại tàn nhẫn hơn: - Cho nó vài viên kẹo đồng là xong. Đánh đấm làm ǵ cho mệt sức. Tiếng đối đáp trong câu chuyện của họ mỗi lúc một xa dần rồi khuất hẳn. Nguyễn Lê nghe nhẹ hẳn nơi ṿm ngực, tỉnh táo trở lại. Anh trở người, t́m thế nằm thoải mái hơn. Mấy tiếng đồng hồ sau, Nguyễn Lê nghe giọng nói của một người con gái : - Anh Lê, thế là anh đă qua được một lần hoạn nạn. Em đă dơi theo từng bước anh trong suốt ba ngày qua. Trước đây tù trốn trại, công an chỉ đi truy nă nhiều lắm là ba ngày. Lần này họ sẽ đi lâu hơn. Đă có lính áo vàng giả dạng đón anh ở nhà và các gia đ́nh bà con, hàng xóm của anh. Ngày mai anh đi về hướng Đông Nam, đi khoảng ba cây số sẽ gặp một con suối cạn. Nh́n sang phía bên kia có một lối ṃn trên sườn núi. Anh băng qua con suối, men theo lối ṃn đó, đi măi sẽ gặp một căn nhà tranh. Anh vào gặp một người đàn bà, xin họ một bộ quần áo, ăn uống xong ra đường đón xe về Sài G̣n, nhưng không được về nhà. Sau đó anh nên đi xa như đă quyết định. Nguyễn Lê tiến lại gần cô gái. Nàng là một thiếu nữ nhan sắc tuyệt đẹp, đang ngồi trên một khúc cây, tóc xơa che nghiêng một phần khuôn mặt. Nguyễn Lê nói trong ấp úng: - Xin cho biết cô là ai mà có mặt ở đây, giờ này? Sao cô lại tổn hao công sức với tôi như vậy. Nếu sau này tôi được yên ổn, làm sao tôi có thể biết để đền tạ ơn cô. Giọng người con gái vẫn thều thào như tiếng gió: - Anh đă từng gặp gỡ và tâm sự với Trúc Vân. Em và Trúc Vân không phải là người xa lạ. - Thế ra cô là Kiều Oanh, bạn của Trúc Vân? Kiều Oanh ngẩng mặt nh́n Nguyễn Lê. Cặp mắt to tṛn và sáng rỡ. Giọng như thều thào, hối thúc: - Anh đi đi. Đi mau lên. Đă hết giờ hạnh ngộ. Đi mau lên ! Nguyễn Lê giật ḿnh như vừa tỉnh dậy sau một giấc mơ. Anh không biết là ḿnh vừa trải qua một giấc chiêm bao hay vừa qua một cuộc tiếp xúc thật sự với người thiếu nữ. Anh ngồi lên, hai tay ôm lấy đâu gối, cả thân ḿnh lạnh buốt, run rẩy. Tiếng gió hoà lẫn âm thanh hỗn độn của côn trùng, giữa rừng khuya hoang vắng làm anh thêm rợn người. Anh trấn tĩnh, ôn lại diễn tiến những ǵ đă hiển hiện mà như một giấc chiêm bao. H́nh ảnh người thiếu nữ như mẫu người trong một truyện liêu trai mà anh đă đọc hồi nào. Đúng nàng, là hiện thân của Kiều Oanh, bạn của Trúc Vân. Phải, Trúc Vân đă kể cho anh nghe về người bạn xấu số đó. Anh đă được quư nhân dẫn đường, phù hộ. Nguyễn Lê lấy lại b́nh tĩnh, vận dụng hết nghị lực. Ngồi im một lúc, nghe ngóng, anh đứng lên quay về hướng Đông Nam, miệng lâm râm khấn nguyện. Rồi anh bước đi. Phía sau lưng hai con b́m bịp kêu dồn, nhỏ dần rồi im tiếng. Khu rừng ch́m vào màn đêm tịch mịch, vắng lặng.
Hai mươi ba ngày sau, kể từ hôm Nguyễn Lê trốn trại, bà Thanh
Thảo nhận được một lá thư từ trại tỵ nạn Paulo Bidong gửi về qua địa chỉ của
người d́ họ. Cầm b́ thư nh́n tên và địa chỉ người gửi, bà Thanh Thảo sửng sốt
như đang trong mơ. Bà cẩn thận lấy kéo cắt vội phong b́. Mở trang thư, bà đọc
theo từng nét chữ, hơi thở dồn dập. Sau gần một tháng, kể từ khi em quyết định trốn khỏi trại tù Đồng Phú, hôm nay em đă đến đây, dưới bầu trời rộng mở. Chắc chắn là từ đây em sẽ được thực sự làm người và được sống một cuộc sống ư nghiă. Em đă lựa chọn một lối thoát với đầy phiêu lưu, bất trắc và sẵn sàng chấp nhận mọi rủi may, thành bại, kể cả mạng sống cuả em, v́ sự đày đoạ trong các trại tù cải tạo đă quá sức chịu đựng của con người. Em đă giấu giếm ư định với mọi người là để giữ an toàn và không gây phiền lụy cho ai. Xin chị chuyển lá thư kèm, cho em tạ lỗi và báo tin mừng đến ba má. Em không biết nói ǵ, viết ǵ trong lúc này về chị và gia đ́nh. Cuộc đời của em đă có lại b́nh minh ở chân trời trước mặt. C̣n chị ? C̣n biết bao người khác ... Chị vừa lập gia đ́nh chưa được hai năm, anh chị đă phải xa nhau. Em c̣n nhớ ngày anh xách gói ra đi, trong anh đầy ắp niềm tin ngây thơ vào cái thông cáo " đi học tập một tháng." Đă hơn ba năm rồi, anh vẫn biền biệt. Mỗi năm một vài lá thư anh viết gượng gạo, e dè, có đủ làm niềm tin cho tháng năm dài đợi chờ của chị ? Ba má ngày một già thêm trong nỗi buồn héo hắt. Em rời bỏ cả thiên đường tuổi thơ ra đi, rời bỏ tổ ấm gia đ́nh để đầu thai vào địa ngục trần gian. Để thoát khỏi địa ngục, em lại phải rời bỏ xứ sở thân yêu, rời bỏ tất cả mà bỗng chốc cơ hồ như bội bạc, như xua đuổi, như vong ân. Trong lịch sử nhân loại chưa có một dân tộc nào mà người dân lại phải bỏ xứ ra đi không kịp nói lời từ biệt, không kịp nhỏ giọt nước mắt khóc cảnh chia ĺa. Ra đi trong nỗi háo hức được ra đi. Ra đi không biết đi về đâu, ra đi không hẹn ngày trở lại. Ra đi như không c̣n nuối tiếc, như không c̣n bịn rịn. Ra đi, bỏ lại đằng sau tất cả ... gia tài, sản nghiệp, cha mẹ, anh em, quá khứ, kỷ niệm, thành phố, xóm làng, đất nước, quê hương... Bỏ tất cả để trốn chạy chính người anh em, đồng bào của ḿnh. Trong ḍng nghịch lũ ấy, em đă phải ra đi, như ba mẹ chúng ta đă ra đi từ năm 1954, như vạn vạn người ra đi từ năm 1975, như bao người đă ra đi, đi dân công, đi vào tù, đi kinh tế mới, đi xuống biển, đi lên rừng ... Và cứ thế, em tin rằng trong ḍng người bị xua đuổi ra đi, như măn nguyện ấy sẽ có anh chị, sẽ có những bà cụ già, sẽ có những em bé, sẽ có những bác sĩ, những kỹ sư, sẽ có những chuyên gia, những trí thức, những mảnh đời trôi giạt trong ḍng lũ nghịch thường, xô giạt cả một xứ sở đang trôi giạt trong cơn lũ nghịch thường này, c̣n lại trên đất nước một băi hoang lịch sử của một thời hoang dă cuối thế kỷ hai mươi.
Em cầu xin cho anh chị, cầu xin cho gia đ́nh, cho dân tộc,
cho đất nước sớm qua cơn đại nạn này.
|