|
Phong Thu*
NỬA THẾ KỶ VIỆT NAM Cuộc Nội Chiến và Hành Tŕnh Bi Thảm của Dân Tộc Việt Nam
Từ năm 1980, trong trại tù Thanh Hoá, người tù Song Nhị đă từng viết:
Ta chờ xóa vết chân hoang Và sau 10 năm miệt mài, trang huyết sử đă ra đời. Nó thấm đẫm nước mắt và xương máu của hàng triệu người tù cải tạo. Tôi nhận được quyển sách của tác giả gởi tặng khi vừa in xong và tôi là người đầu tiên đă phân tích tác phẩm của ông. Chỉ trong ṿng 3 tháng, “Nửa Thế Kỷ Việt Nam” đă tái bản lần thứ nhất, số trang từ 467 tăng lên thành 500 trang, bổ sung thêm những ư kiến chọn lọc, đầy ngợi khen của tất cả các văn thi hữu, những nhà phê b́nh văn học khắp nơi ở hải ngoại. V́ sao quyển sách thu hút người đọc đến như vậy? V́ ông là một nhà giáo, một nhà báo một nhà binh, một nhà thơ, một nhà văn, và sau cùng ông là một người tù lương tâm như hàng vạn người tù của Miền Nam Việt Nam sau biến cố 30/4/1975. Những yếu tố trên đă h́nh thành nên phong cách của ông trong sự nghiệp văn học. Ông đă sống trọn vẹn với chính ḿnh, với đời và với văn học. Một cuộc đời lênh đênh, trôi giạt từ miền Bắc Việt Nam sang nước Lào, từ Nam Quan cho đến Mũi Cà Mau, từ Sài G̣n cho đến các nhà tù cộng sản. Ngay từ trang 7 “thay Lời Tựa”, tác giả viết “...Tôi đă viết và đă xoá từng ḍng. Tôi đă viết và đă xoá từng trang. Tôi đă xoá nhiều lần như vậy...”. Quyển sách gây cho tác giả nhiều trăn trở, đau xót nên phải xoá đi xoá lại nhiều lần trước khi đến tay người đọc. Quyển sách dày 500 trang bao gồm 16 chương. Mỗi chương chia làm nhiều tiểu đoạn. Tác giả đă lấy mốc thời gian từ năm 1945 cho đến năm 2009 để sàng lọc, biên soạn, t́m kiếm tài liệu thông qua kinh nghiệm cuộc đời và ghi chép lại trung thực những ǵ mắt thấy, tai nghe những sự kiện, con người mà ông đă từng chứng kiến, gặp gỡ, và t́m ra nguyên nhân của cuộc nội chiến và hành tŕnh bi thảm của dân tộc Việt Nam suốt nửa thế kỷ. Nỗi gian truân của ông bắt đầu từ quê hương Hà Tĩnh, nơi mà một đứa trẻ tiểu học như ông phải chứng kiến những cuộc đấu tố tàn ác trong chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất của cộng sản mà gia đ́nh và ḍng họ ông chính là nạn nhân. Rồi 8 năm trong nhà tù cộng sản từ tháng 6 năm 1975 đến tháng 5 năm 1983, ông đă bị giam giữ nhiều nơi, từ Long Thành, Quảng Ninh, Thanh Hoá, Xuân Lộc, ông đă nh́n thấy được sự va chạm, “cọ xát” giữa con người với con người, giữa thiện và ác, giữa nhân ái vị tha và bần tiện, giữa nhân cách cao trọng và lối sống ti tiện, hèn mọn. Vụ án điển h́nh làm rúng động trong và ngoài nước là vụ án Bùi Đ́nh Thi mà LM Nguyễn Hữu Lễ đă viết trong quyển Hồi Kư “Tôi Phải Sống”. Nhà thơ Song Nhị đă nhắc lại vụ án nầy trong chương VIII “Bùi Đ́nh Thi Chiêm Nghiệm Nhân Duyên Nghiệp Quả”. Chúng ta cũng sẽ thấy trong quyển sách h́nh ảnh nhạc sĩ Vũ Thành An, khi vào tù đă từng viết “...Nay mới biết đế quốc Mỹ là quân xâm lược. Bọn nguỵ quyền là lũ tay sai. Bao nhiêu năm cung cúc tận tụy miệt mài. Cứ ngỡ rằng ḿnh lo việc nước...”. Bạn đọc cũng sẽ nhận ra những con người hạ tiện v́ muốn có một miếng ăn với đặc quyền đặc lợi trong tù, họ sẵn sàng làm tôi tớ cho bọn cộng sản bức hại anh em. Nhà thơ Song Nhị tố cáo chế độ tàn ác, bất nhân của nhà tù cộng sản. Nó thể hiện rơ nhất trong chương 10 (X). Nơi giam giữ tù nhân như giam súc vật (Lư Bá Sơ, Danh Bất Hư Truyền (trang 222). Thê thảm và khủng khiếp hơn là trại tù cải tạo đă biến con người thành con vật: “...Người nào đầu cũng lớn hơn thân ḿnh. Hai hàm răng nhô ra, cặp mắt lơm vào sâu hoẵm. Tay chân khẳng khiu như que củi...” (Đoàn Ma Đói Chờ Điểm Số Lên Đồi (trang 256). Không những hành hạ về tinh thần, bỏ cho đói khát, tuyệt vọng. Cộng sản c̣n hành hạ thể xác bằng cách làm lao động khổ sai đi vác đá. (Tôi Đi Giữa Đoàn Tù Vác Đá) (Trang 226). Tàn ác hơn là h́nh thức kỷ luật kiên giam, đánh đập tù nhân h́nh sự một cách tàn bạo v́ người nầy đói phải ăn cắp một bụi khoai ḿ: “...Người công an mở cửa một cái hầm cầu tiêu, dắt một người tù h́nh sự lại trước cửa hầm, bảo đứng quay mặt vào trong, rồi đưa chân lên cao tống một đạp vào lưng, người tù bổ sấp xuống úp mặt vào hầm cầu tiêu. Người công an đóng cửa hầm cầu, thản nhiên quay lưng đi...” (trang 275).
Tác giả cũng đă ghi lại những h́nh ảnh
hiếm hoi về những người không cùng chiến tuyến nhưng c̣n
biết đau khổ, xót thương cho cảnh tù đày của người sa cơ, lỡ
vận. Một nữ công an đem một chai nước mắm đến cho cả buồng....
và nói “chắc các anh nhớ nhà, nhớ vợ con lắm phải không?”.
Nói xong, người nữ công an im lặng một lúc, hai hàng nước
mắt lăn tṛn trên đôi g̣ má...” (Trang 187). Trong trang 188, tác giả có nhắc đến một người tù trẻ tuổi, một anh hùng. Anh cô đơn chống lại bầy sói dữ:” người bạn nói giọng rắn chắc: “Hăy ngẩng đầu lên mà đi các anh ơi. Người nầy chết có người khác đứng lên...”. Tác giả cũng nhắc đến ông Phạm Dương Đạt v́ phát biểu tố cáo chế độ cộng sản, ông đă bị bắt đi biệt tích (trang 195). Có những người tù bất khuất. Họ đă chọn cái chết để giữ ǵn khí tiết của một quân nhân như: Lê Quảng Lạc, Nguyễn Đức Điệp, Nguyễn Mậu, Huỳnh Văn Lượm, ... Tác giả cũng đă gởi lại trên trang sách ḿnh ḷng biết ơn sâu sa đối với những vị ân nhân đă bền bỉ, bỏ thời gian, công sức để yêu cầu chính phủ Hoa Kỳ can thiệp cứu giúp những người tù cải tạo như Cựu Đại Tướng John Vessey và ông Robert Funseth, bà Khúc Minh Thơ, Chủ Tịch Hội Gia Đ́nh Tù Nhân Chính Trị Việt Nam, ông Nguyễn Ngọc Bích, Huỳnh Công Ánh, Nguyễn Hậu, Linh Quang Viên, Đào Văn B́nh, Giao Chỉ... và nhiều cá nhân, tổ chức hội đoàn khác đă đóng góp công sức tài vật cho thành quả giải thoát những người tù cải tạo...” (trang 420). Đọc “Nửa Thế Kỷ Việt Nam”, độc giả sẽ soi rọi lại một góc tối khác mà chúng ta chưa biết về nhà tù cộng sản. Từng chương, từng tiểu đoạn tưởng chừng như giống nhau, nhưng phong cách diễn đạt rất mới mẻ. Với cách tŕnh bày khoa học, văn phong trôi chảy, nhẹ nhàng, tác giả đă lôi cuốn người đọc từ trang đầu cho đến trang cuối. Chính cuộc sống dày dạn phong trần đă khiến ng̣i bút của ông tuôn chảy như những ḍng máu của hàng triệu người tù, của những giọt nước mắt đau khổ của toàn thể nhân dân Việt Nam từ Bắc tới Nam trong suốt nửa thế kỷ. Và hiện nay, nhà tù vẫn chưa khép lại. Nó vẫn mở rộng chào đón những người trí thức yêu nước, thương ṇi mơ ước xây dựng một đất nước Việt Nam dân chủ, phú cường.
Tôi có thể kết luận rằng “Trí thức, yêu
nước, trong sạch và nhân ái” là kẻ thù của cộng sản.
Maryland, Ngày 13/11/2010 ______
* Nhà Văn. Phóng viên
|