Thân Trọng
Sơn
CHÍN GIỜ TỐI, TẠI MỘT TRANG TRẠI
Nicolas Bouvier
( 1929 - 1989 )
Sinh tại Genève năm 1929, nhà
nhiếp ảnh, nhà văn. Trong những tác phẩm của ḿnh ( L’usage du monde -
1963, Chroniques japonaises - 1975, le Poisson - scorpion - 1981,
l’Échappé belle - 1996 ), ông thuật lại những chuyến du lịch của ḿnh
trên khắp thế giới. Ông định nghĩa người du khách là “ một nguồn vô tận
của những sự bối rối “, một con người “ sống nhờ những khoảnh khắc lấy
cắp được, những sự phản chiếu nhỏ nhặt, những món lợi bất ngờ và những
mảnh vụn.
Bouvier là con út trong gia đ́nh có ba người con. Ông đă trải qua tuổi
thơ của ḿnh trong một ngôi nhà mà theo lời ông “ chiếc máy cắt giấy
quan trọng hơn con dao cắt bánh ḿ “, một sự ám chỉ đến người cha thủ
thư và người mẹ “ người đầu bếp tầm thường nhất ở phía tây Suez « Trong
độ tuổi từ 6 đến 7 , ông đă đọc ngấu nghiến Jules Vernes, Curwood,
Stevenson, Jack London và Fenimore Cooper.
Từ năm 1946, nhiều cuộc phiêu lưu khác nhau đă đưa ông vào con đường của
một nhà du hành. Tuy nhiên ông đă đăng kư vào khoa Văn chương và Luật
của Đại học Geneva, theo đuổi sở thích về tiếng Phạn và lịch sử thời
trung cổ, và nghĩ đến việc theo đuổi bằng tiến sĩ.
Tác phẩm của ông được đánh dấu bằng cam kết tường thuật những ǵ ông
nh́n thấy và cảm nhận. Ông chủ yếu viết bằng tiếng Pháp, mặc dù ông có
đề cập đến việc viết một loạt bài về du lịch bằng tiếng Anh cho một tạp
chí địa phương.
Vào cuối những năm 1950, tổ chức Y tế thế giới đă yêu cầu ông t́m kiếm
h́nh ảnh về mắt và các bệnh về mắt. Do đó ông đă khám phá ra nghề người
t́m kiếm h́nh ảnh.
Một tác phẩm sau khi ông mất ( Entre errance et éternité) cung cấp một
cái nh́n đầy chất thơ về những ngọn núi trên thế giới.
Bouvier đă nhận được giải Prix de la Critique ( 1982 ), Prix des Belles
Lettres ( 1986 ) và năm 1995 là giải Grand Prix Ramuz cho toàn bộ tác
phẩm.
Năm 1998, ông mắc bệnh ung thư và qua đời.
Đoạn văn ngắn dưới đây trích trong tác phẩm Chroniques japonaises, nhà
xuất bản Payot ấn hành năm 1989. Trong tác phẩm này, Nicolas Bouvier rút
ra từ những cuộc du lịch của ông ở Nhật bản những điều mắt thấy tai
nghe, những suy nghĩ, có thể giúp người đọc thấu hiểu dần những hấp dẫn
của đất nước này. Trong chương này, ông thuật lại lễ hội Hoa ông đă tham
dự cùng một người bạn, trong một ngôi làng vắng vẻ .
Họ đang
đợi chúng tôi, người lính cứu hỏa ( 1 ) nói, nhưng "bạn bè" của anh ấy
đă đón nhận anh ấy khá tệ. Đối với tôi, họ giống một gia đ́nh rất khiêm
tốn mà cộng đồng phải quan tâm và bối rối khi chào đón chúng tôi. Ở đó
có ông bà, với đôi mắt ướt át, cảnh giác, người cha, người mà rượu khiến
đôi khi ủy mị, đôi khi kiêu ngạo, và một đứa bé ba tuổi, một anh chàng
mạnh mẽ trong chiếc tạp dề mới đang nhắm vào chúng tôi và bắn hạ chúng
tôi. súng máy nhựa.
Thảm đă cũ, gạch giấy rách, mùa đông
tràn qua căn pḥng và mọi lời nói đều được bao quanh bởi một dải sương
mù, nhưng chiếc tivi th́ mới tinh, và trên hết là sự sang trọng mà người
dân thành phố phải ghen tị nếu có. Tôi không quên nó: không gian. Dưới
sự sắp xếp duy nhất: ḿ tẩm bột, cải ngựa thái hạt lựu, dưa chuột, bánh
đậu, đầu cá sống và món cơm trắng mà chỉ vài thế hệ trước đây là đặc
quyền của những người có hoàn cảnh khó khăn.
Một bữa tiệc dành cho người nghèo được phục vụ với những ly rượu khoai
tây lớn. Mọi người uống khô để giữ ấm, c̣n người lính cứu hỏa th́ uống
quá nhiều. Anh ta vừa ném một nắm tiền lẻ lên bàn, bị gọi là "đậu đậu"
v́ sự ngu ngốc của ḿnh và hiện đang ẩn náu - đội mũ che mắt - trong sự
im lặng xấu hổ. Người cha cũng có gió trong cánh buồm ( 2 ) và nói ǵ
cũng được. Đôi mắt trợn ngược lên, anh đột nhiên hét lên:
- Hai người Pháp này có nước da của phụ nữ...
- Ngốc nghếch! Đồ vô lại … trả lời bà ngoại, người tát anh ta qua bàn và
quay về phía chúng tôi, cười hở lợi trong khi lắc lư như một con gấu
bông.
- Thế đấy, ông già nói với tôi khi rót đầy ly cho tôi, trong lễ hội, tất
cả những người đến từ các làng lân cận và tất cả những người trẻ ở đây
đều có quyền táo bạo. Ngay cả những người giàu nhất cũng có thể được lên
tiếng mà không cần cân nhắc: ngay cả với du khách. Nó được cho phép.
Anh ấy cũng giải thích với tôi rằng ở đây không phải lúa mà là gỗ mang
lại thu nhập và năm gia đ́nh chia sẻ rừng, mỗi gia đ́nh đều gửi một cậu
con trai đi học ở Tokyo. Anh ấy cảm thấy thích thú khi có người lạ đến
trang trại của ḿnh. Ông và vợ hoàn toàn thoải mái khi được chào đón.
Hai khuôn mặt tinh nghịch của họ, đen x́, ṃn mỏi như những đồng xu, là
những khuôn mặt duy nhất mà tôi có thể đọc được, bởi v́ ở tuổi của họ,
nhưng chỉ ở tuổi của họ, chúng ta mới t́m thấy sự tự do và sự buông thả
mà ở đây mang lại tất cả sự quyến rũ của họ cho những người già.
THÂN TRỌNG SƠN
dịch và giới thiệu
( tháng 9 / 2024 )
______
( 1 ) T́nh cờ gặp được, người lính
cứu hỏa đă mời hai du khách cùng đến ăn tối tại nhà một người bạn.
( 2 ) nguyên văn tiếng Pháp: a du vent dans les voiles, cách nói
thân mật để chỉ t́nh trạng say xỉn, không tự kiểm soát được.
art2all.net |