Vơ Hương An

 

VỤ ÁN MỸ ĐƯỜNG

 

          Mỹ Đường , tức Nguyễn Phúc Đán [1], tức Ḥang tôn Đán, là con trai trưởng của Đông cung Cảnh (Ḥang tử Cảnh), cháu đích tôn của vua Gia Long, người có thể kế vị vua Gia Long, sau khi Đông cung Cảnh mất v́ bệnh đậu mùa tại Gia Định vào năm 1801. Nhưng người được chọn kế vị là ḥang tử thứ tư, Nguyễn Phúc Đảm, tức vua Minh Mạng (1820-1841). Dưới triều đại này có ba vụ án lớn xảy ra. Kể theo thứ tự thời gian, th́ thứ nhất là vụ Mỹ Đường (1824), thứ hai là vụ Lê Văn Duyệt (1835), và thứ ba là vụ Lê Chất (1835) [2] . Với hai vụ Lê Văn Duyệt và Lê Chất, hầu như sách sử nào viết về triều Nguyễn cũng có nói đến ít nhiều và khá rơ, riêng vụ án Mỹ Đường th́ người ta viết một cách mù mờ, và đầy mâu thuẩn.
 

 

Người ta nói ǵ?

 

Trong Việt Nam Sử Lược, học giả Trần Trọng Kim đă viết:

“Việc ngài [Minh Mạng] giết chị dâu là bà vợ Ḥang tử Cảnh [3] và các cháu, th́ không thấy sách nào chép cả, chỉ thấy một đôi người truyền ngôn như thế mà thôi. Việc ấy thực hư thế nào không rơ.” [4]

Sử gia Phạm Văn Sơn trong Việt Sử Ṭan Thư th́ nói có vẻ quả quyết và rành rẽ hơn:

“. . . chỉ trong một tháng, sáu tỉnh miền Nam lọt cả vào tay Khôi [Lê Văn Khôi]. Trong dịp này, Khôi lấy danh nghĩa tôn phù một người con của Ḥang tử Cảnh, mất năm 1801. Vị Vương tôn đó bấy giờ đang ở Huế.

Nghe tin này, vua Minh Mệnh cho giết ngay con cháu và chị dâu để bọn Khôi hết đường lợi dụng.” [5]

Mấy chục năm sau, ở hải ngọai lại có người nhận định rằng:

“. . . không chừng chính ông (vua Gia Long) lại là người ủy thác ưu tư cho con, nên vua Minh Mạng (Nguyễn Phước Đảm, 1820-1840) mới bị một số nhà viết giáo sử cho là bạo chúa. Những người này c̣n gán rằng ông gian dâm với chị dâu (vợ Ḥang tử Cảnh) rồi lấy cớ bà này chửa hoang, giết bà ta và các cháu . . .” [6]

Nghe cứ như là sự thực Rashomon.
[7]

 

 

Chính sử Nhà Nguyễn nói ǵ?

Sách Đại Nam Thực Lục ghi lại rằng năm Minh Mạng thứ 5 (1824),

“Ứng Ḥa công Mỹ Đường có tội, bị miễn làm thường dân. Mỹ Đường là con trai cả của Anh Duệ Ḥang Thái tử [Ḥang tử Cảnh]. Trước có người cáo Mỹ Đường là người dâm dật, thông gian với mẹ đẻ là Tống Thị Quyên. Lê Văn Duyệt đem việc tâu kín. Vua sai bắt Thị Quyên giao cho Lê Văn Duyệt d́m chết mà cấm Mỹ Đường không được chầu hầu. Đến nay, Mỹ Đường dâng sớ nói là có bệnh, xin nộp trả sách ấn và xin miễn làm thứ nhân, về ở nhà riêng. Vua vời các thân công đại thần vào bàn, bèn y cho.” [8]

Mỹ Đường bị truất tước Công, phế làm người thường, xóa tên trong tôn phả,mất hết bổng lộc, riêng con cái th́ chỉ được biên phụ vào sau sổ Tôn thất. Việc thờ tự Anh Duệ Ḥang Thái tử, tức Hoàng tử Cảnh, được chuyển qua người em của Mỹ Đường là Mỹ Thùy.

Qua năm Minh Mạng thứ 6 (1825) lại thấy ghi một sự việc khác về Mỹ Đường:
“ Mỹ Đường đă có tội ở nhà riêng, thường đến thăm con ở xă An Ḥa, có người cho là trốn, tâu lên. Vua bảo rằng: “Hành vi của nó hơn là chó lợn, trẫm nghĩ cái t́nh Anh Duệ Ḥang thái tử nên không nỡ làm tội, nay lại nghe kẻ bậy bạ xui khiến, muốn làm ǵ chăng?” Liền sai thị vệ bắt về, phái binh canh giữ, rồi tha.”
[9]

Năm 1826, Mỹ Thùy bỗng mắc bạo bệnh và mất.
“Khi vua [Minh Mạng] mới được tin công mắc chứng hoắc lọan cấp tính [thổ tả) , tức th́ sai đại thần đem ngự y tới thăm, đến nơi th́ công đă chết rồi. Vua thương khóc, băi triều 3 ngày, cho thụy là Mẫn Khác, sai Tống Phước Lương và Tôn Thất Dịch trông coi việc tang, phát của kho cấp cho. Ngày táng, lại băi triều một ngày, xa giá đến nhà, vua thân rót rượu cúng. Con gái của công mới sinh, sai Trưởng công chúa nuôi nấng, chiếu theo bổng công nữ mà cấp bội cho.”
[10]

Để giải quyết vấn đề thờ tự Đông cung Cảnh, vua phục hồi ḥang tịch cho người con trai trưởng của Mỹ Đường là Lệ Chung, cho tập phong
[11] làm Ứng Ḥa hầu, cấp bổng lộc để lo việc tế tự. Có lẽ hai chữ Ứng Ḥa đă tạo nên một ấn tượng khó chịu nào đó nên năm Minh Mạng thứ 8 (1827), vua đổi phong làm Thái B́nh hầu.
 

Qua năm Minh Mạng thứ 14 (1833) khi biên sọan Ngọc diệp [12], đến phần của Đông cung Cảnh, Chánh và phó Tổng tài là Phan Huy Thực và Tôn Thất Bằng đă tâu rằng:

“ Mỹ Đường là con cả Ḥang thái tử Anh Duệ, trước v́ bị tội, các con cái phải phụ lục vào cuốn phả Tôn Thất. Nay thiết nghĩ rằng: tội của Mỹ Đường chỉ là tội tự làm hỏng ḿnh, sánh với tội phản nghịch có khác. Huống chi con là Lệ Chung hiện được tập tước để giữ việc thờ cúng ngành Anh Duệ. Ng̣ai ra, con trai con gái hắn cũng đều là cháu của Ḥang thái Tử Anh Duệ. Vậy xin cho liệt vào tôn phả theo thế thứ Ḥang thái tử Anh Duệ, mà bỏ chỗ phụ lục đi. Đến như tên và tự Mỹ Đường trong phả ḥang tử, dưới chỗ chép những chữ “Anh Duệ Ḥang thái tử tử nhị” xin chua rơ tội danh để lưu chiểu.”
[13]

Cái câu mà Chánh, phó Tổng tài đề nghị chua vào là,
“Con trưởng là Mỹ Đường, năm Gia Long thứ 15, được phong tước Ứng Ḥa công, v́ đắm đuối chơi bời tự biết có tội, Minh Mệnh năm thứ 5 [1824], mang nộp cả sắc và ấn, xin tha tội, được làm thứ nhân.” Vua Minh Mạng chấp thuận.

Tuy vậy, gia đ́nh Mỹ Đường vẫn chưa được yên thân. Năm Minh Mạng thứ 17 (1836), nhân khi duyệt xét lại Ngọc diệp, Tôn Nhân Phủ lại cùng Bộ Lễ tâu rằng, “ Thứ nhân Mỹ Đường tội ác rất nặng, con cái há nên c̣n để ở Tôn phả. Duy có Lệ Chung đă được tập phong để chủ việc thờ cúng ḍng dơi Anh Duệ, th́ xin cho miễn nghị, c̣n con trai là Lệ Ngân và các con gái là Thị Vân, thị Dao đều bị truất làm thứ nhân, tước bỏ tên trong sổ họ Tôn thất.”
[14] Lần này vua Minh Mạng cũng gật. Qua năm 1839, đổi phong Lệ Chung làm Cảm Hóa hầu, sai tiếp tục giữ việc thờ cúng.
 

Năm1847, Tự Đức nguyên niên, Đông Các đại học sĩ Vũ Xuân Cẩn – cũng là nhạc gia của vua -- trong một bản sớ rất thống thiết, kể lại công lao to lớn của Đông cung Cảnh, dụng ư xin gia phong cho Lệ Chung (để có bổng lộc cao hơn), trợ cấp cho Mỹ Đường để sống nốt chuổi ngày tàn, và cho con cháu Mỹ Đường được ghi tên lại vào Tôn phả như năm xưa. Vua Tự Đức nghe cũng xiêu xiêu, nhưng bảo Bộ Lễ ghi nhận, hẹn hết tang vua Thiệu Trị sẽ xét lại.


Qua năm 1848, Mỹ Đường bị bệnh chết. Cũng trong năm đó, kinh thành bị dịch bệnh. Theo tập quán, vua nghĩ rằng trời ra tai họa hẳn do có điều ǵ oan khuất đây, nên xuống chiếu t́m cách trừ thiên tai. Nhân đó, một nhóm các quan 30 người, do Tạ Quang Cự chủ xướng, đă dâng sớ nhắc lại đề nghị của Vũ Xuân Cẩn năm trước và xin cho gia đ́nh Mỹ Đường được trở lại quyết định của năm Minh Mạng thứ 14 (1823). Vua Tự Đức chấp thuận, và qua năm sau, gia phong cho Tôn thất Lệ Chung làm Cảm hóa Quận công. Kỳ ngọai hầu Cường Để chính là hậu duệ của ḍng này.


Tam sao thất bản

Khi so sánh phần trích dẫn chính sử ở trên và những trích dẫn của các tác giả vừa kể, hẳn độc giả cũng thấy được cái nạn tam sao thất bản do “nghe tin đồn” như thế nào.

Quả thực có việc vua Minh Mạng ra lệnh cho Tả quân Lê Văn Duyệt giết bà Tống Thị Quyên, vợ góa của Đông cung Cảnh, về tội thông dâm với con trai, nhưng ḥan ṭan không có việc vua giết hết các con của anh ruột. Về phần Mỹ Đường và các con – ngọai trừ Lệ Chung vẫn c̣n được giữ áo măo và bổng lộc do nhiệm vụ phải thờ phụng Đông cung Cảnh – quả có việ cbị tước bỏ ḥang tịch, phế làm thứ nhân, nhưng sinh mạng an ṭan.
 

Trong khi viết Việt Nam Sử Lược, sử gia họ Trần có tham khảo Đại Nam Thực Lục và Đại Nam Liệt Truyện nhưng đă lạc mất giữa cánh rừng rậm của hai bộ sách hàng chục cuốn đó, không đọc được điều muốn biết nên mới nói là “không thấy sách nào chép cả” . Dầu sao vẫn đáng quí ở chỗ không quả quyết về điều không rơ.

Trái lại, sử gia Phạm Văn Sơn th́ đă không thận trọng như thế. Ông không nắm được nguồn tài liệu nhưng lại đóan ṃ một cách quả quyết, thậm chí không để ư đến cả niên đại của sự kiện, nên nói ra điều mâu thuẩn mà không biết.
 

Như chúng ta đă thấy, lọan Lê Văn Khôi xảy ra ở Gia Định năm 1833, chừng một năm sau cái chết của Lê Văn Duyệt (1832), trong khi việc giết bà Tống Thị Quyên ( vợ Đông cung Cảnh) được vua Minh Mạng giao cho chính Lê Văn Duyệt thi hành từ năm 1824, 11 năm trước đó. Vậy th́ sao lại nói là “Nghe tin này [Lê văn Khôi tôn pḥ con Ḥang tử Cảnh], vua Minh Mệnh cho giết ngay con cháu và chị dâu để bọn Khôi hết đường lợi dụng”.
 

Từ chỗ ghi nhận sự việc sai lầm này hẳn sẽ dẫn đến nhiều sai lạc khác nữa cho thế hệ sau.


Sự chọn lựa Ḥang tử Đảm

Đông cung Cảnh chết lúc c̣n quá trẻ (1801, 22 tuổi ta) đă để lại một khỏang trống lớn trong vấn đề thừa kế ngai vàng, nhất là sau khi vua Gia Long thống nhất đất nước vào năm 1802.

Bốn năm sau ngày Đông cung Cảnh mất, vào mùa thu 1805, sử ghi nhận quần thần (không rơ những ai) xin lập thái tử. Vua đáp:

“Ta từ thuở nhỏ, gặp vận nhà không may, từng trải mọi gian hiểm mới có ngày nay, khó nhọc mà được, mới phải nghĩ truyền để lâu dài. Thái tử là ngôi vua sau này của nước, chính thống là ở đó. Nay ḥang tử ḥang tôn hăy c̣n nhỏ, trẩm đương ủy cho thầy dạy, rèn đúc thành tài đức rồi sau chọn kẻ nào hiền mới lập, thế cũng chưa muộn.”
[15]

Vua Gia Long có nhiều con trai, bốn người con đầu là các Ḥang tử Cảnh, Hy, Tuấn và Đảm. Sau khi Đông cung Cảnh chết đi, Ḥang tử Hy và Ḥang tử Tuấn cũng chết ở miền Nam trước khi đất nước thống nhất. Vào thời điểm vua Gia Long nói câu vừa rồi, người con trai lớn nhất là Ḥang tử Đảm – tục gọi là ông Ḥang Tư -- mới 15 tuổi, c̣n cháu đích tôn của vua, Ḥang tôn Đán mới chừng 6, 7 tuổi.
[16]

 

Trong số các đại thần bấy giờ, có lẽ không ai nóng ḷng về việc lập thái tử cho bằng Tiền quân Nguyễn Văn Thành. Năm 1812, trong một mật sớ đề nghị 4 điều th́ điều thứ nhất là xin sớm lập thái tử để yên ḷng người. Vua đồng ư nhưng chưa có quyết định.
 

Năm 1814, Ḥang hậu họ Tống – tức Thừa Thiên Cao Ḥang hậu, vợ cả vua Gia Long – mất. Vua chỉ định Ḥang tử Đảm đứng chủ tế, v́ ngay từ năm mới 3 tuổi, ông đă được Tống Ḥang hậu nhận làm con nuôi, có giấy tờ giao nhận đàng ḥang do Lê Văn Duyệt viết theo lệnh vua . Bầy tôi có người bàn nên để cho đích tôn là Ḥang tôn Đán làm chủ tế. Vua nói rằng:

“Ḥang Tư từng làm con của ḥang hậu, đă có giấy tờ, nên sai làm chủ tự, việc lớn của nhà nước không nên câu nệ theo lễ đích tôn thừa trọng như nhà thường.” Nguyễn Văn Thành cho thế th́ văn tế khó gọi. Vua bảo rằng: “ Con theo mệnh cha tế mẹ là việc danh chính ngôn thuận, có ǵ mà không nên.” Bấy giờ việc bàn mới định. Nguyễn Văn Thành tỏ ư không bằng ḷng.”
[17]

Càng ngày th́ ư của Nguyễn Văn Thành càng lộ rơ: không những cần phải lập thái tử, mà người đáng lập là Ḥang tôn Đán chứ không ai khác. Đại Nam Thực Lục có ghi lại một chi tiết rất sống động:

“Vua [Gia Long] tuổi đă cao mà chưa định người nối ngôi. Ḥang tử thứ tư hiền và lớn hơn cả, vua đă để ư. Bầy tôi đều có ḷng theo. Riêng một ḿnh Nguyễn Văn Thành là người ngạo mạn kiêu căng, muốn được vua nhỏ tuổi, không thích vua lớn tuổi. Một hôm mời các quan trong triều uống rượu ở nhà, nói lên rằng: “ Ḥang tôn Đán nối ngôi, tôi sắp tâu xin lập đây”. Trong đám ngồi, không ai dám nói ǵ. Trịnh Ḥai Đức sợ vạ lây ḿnh, bèn nói rằng: “ Việc lớn của nhà nước, quyết định do ở ḷng vua, nếu người bầy tôi định kế riêng, tham lấy công to th́ tội lại lớn”. Văn Thành bèn thôi. Sau có người nói đến tai vua. Vua giận, nói rằng: “ Hắn muốn dựng vua nhỏ để dễ khống chế, ngày sau có thể chẹt họng, vỗ lưng chăng. Ta há tối tăm nhầm lẫn, không biết đắn đo nên chăng, vội nghe lời hắn mà không v́ xă tắc chọn người sao!” Từ đó, hễ cứ Văn Thành vào yết kiến là chỉ xin dựng thái tử. Vua nín lặng. Văn Thành tự biết không được thỏa ư, càng thêm ngờ sợ.”
[18]

Năm 1816, vua Gia Long chính thức công bố lập ḥang tử thứ tư làm Đông cung Thái tử. Lễ tấn phong long trọng diễn ra vào mùa hạ năm đó. Qua năm sau, 1817, bị cáo về tội có con là Nguyễn Văn Thuyên âm mưu cùng Lê Duy Hóan làm phản, Nguyễn Văn Thành tự vẫn khi nội vụ c̣n đang được tra xét. Tháng 1 năm 1820, vua Gia Long băng hà, Thái tử Đảm nối ngôi, lấy hiệu là Minh Mạng (1820-1841).
 

Nếu Nguyễn Văn Thành c̣n sống đến đời Minh Mạng, chắc cũng khó được an thân. Tuy nhiên, vua Gia Long đă tiên liệu và giúp cất gánh nặng cho con rồi.

 

Điều có thể hiểu và điều khó hiểu

Trong vụ án Mỹ Đường, có mấy điểm đặc biệt không giống với các vụ khác.
 

Thứ nhất, can án có hai người, là Tống thị Quyên và Mỹ Đường, nhưng chỉ có Thị Quyên bị bức tử dưới tay Lê Văn Duyệt do lệnh của vua. C̣n Mỹ Đường, đầu tiên mới chỉ bị cấm chầu hầu. Sau đó mới bị miễn làm thứ nhân là do biết tội mà tự nguyện, với sự đồng ư của các đại thần và sự chấp thuận của vua. Điều này thể hiện đúng cái ư “nghĩ cái t́nh Anh Duệ Ḥang thái tử nên không nỡ làm tội” như vua Minh Mạng đă có lần nói. Tống thị phải chết để cho Mỹ Đường được sống, v́ “máu lơang c̣n hơn nước lạnh.” và có lẽ vua không muốn mang tiếng nồi da xáo thịt, nhúng tay vào máu anh em.

Đặc điểm thứ hai của vụ án này là không có bản án. Nó mang tính cách “thanh lư môn hộ”, giải quyết nội bộ hơn là đưa ra công khai. Điều này có thể hiểu được v́ nội dung vụ án là chuyện thương luân bại lư, một lọai làm điếm nhục gia phong, chẳng tốt đẹp ǵ để làm to chuyện, phơi bày ra cho bàn dân thiên hạ đàm tiếu.

Bên cạnh những điều có thể hiểu được đó, có một điều không rơ, ấy là : vụ gian dâm này không phải bị bắt quả tang, mà do “Trước có người cáo Mỹ Đường là người dâm dật, thông gian với mẹ đẻ là Tống Thị Quyên. Lê Văn Duyệt đem việc tâu kín.” Vậy, trước khi đem việc này “tâu kín” lên vua, Lê Văn Duyệt có điều tra không? Có bằng cớ ǵ không? Chả lẽ sau khi nghe Lê Văn Duyệt tâu kín là vua Minh Mạng có ngay biện pháp, mà không cần có một sự phối kiểm nào? Hay là trong thực tế, quả có sự điều tra nào đó nhưng chi tiết dơ dáy nên sử thần không chép? Chỉ biết rằng vua tỏ ra rất giận Mỹ Đường về chuyện sai trái nên đă có lần dùng lời rất nặng nề, gọi “Hành vi của nó hơn là chó lợn”.

 

Sự thực ở đâu?

Chính cái điểm khó hiểu, mập mờ vừa nói đă dẫn đến dư luận cho rằng đây là một vụ thanh tóan đối thủ trong vấn đề tranh chấp quyền lực, nên hơn 150 năm sau, có tác giả đă viết:

“Thời ấy, có 2 tội thuộc hàng đại ác, không thể tha, ấy là bất trung và thất đức. Bất trung th́ con trai trưởng của Hoàng tử Cảnh chẳng có biểu hiện ǵ, vậy th́ Minh Mạng muốn yên vị trên ngai, ắt phải khép Mỹ Đường vào tội thất đức là thông dâm với mẹ. Ôi, giá mà Mỹ Đường chẳng phải cháu đích tôn của Gia Long th́ đời ông sẽ êm thấm biết ngần nào! Vua Minh Mạng tiếng là do bà Thuận Thiên Cao Hoàng hậu sinh ra nhưng từ nhỏ đă được bà Thừa Thiên Cao Hoàng hậu nuôi dưỡng, nghĩa là với Hoàng tử Cảnh nào có khác chi anh em cùng cha cùng mẹ, thế mà cam tâm giết hại chị dâu và đày đoạ các con của anh. Ai đó đă nói rằng phàm đă là hoàng đế th́ chẳng thể dung tha ḍng trưởng của tộc họ nhà ḿnh. Mức độ đúng sai với ai chưa rơ, nhưng với vua Minh mạng, chí lư thay!"
[19]

Do đó, câu hỏi nổi bật trong vụ án Mỹ Đường, đối với riêng tôi, là: liệu đây là một vụ án h́nh sự hay thực chất là một vụ án chính trị mặc áo h́nh sự? Để trả lời câu hỏi này, thiết nghĩ có thể đặt một câu hỏi khác, cụ thể và dễ hiểu hơn: có thực vua Minh Mạng cần thiết phải triệt hạ Mỹ Đường để củng cố ngai vàng không?

Như đă tŕnh bày ở trên, Ḥang tử Đảm phải chờ đợi 15 năm ṛng mới chắc chắn rằng ngai vàng thuộc về ông. Bề ng̣ai, đó là một sự lựa chọn đầy thận trọng của vua Gia Long, nhưng bên trong, theo thiển ư, thời gian 15 năm c̣n có một ư nghĩ khác. Đó là việc dọn đường, nghĩa là chuẩn bị mọi điều kiện thuận lợi cho người kế vị để việc chuyển giao quyền hành được êm ái, tránh sự xáo trộn làm nghiêng ngă triều đại mà ông đă tốn bao công sức mới dựng nên.

Trong vấn đề chọn người kế vị, vua Gia Long không thể không quan tâm tới hai yếu tố căn bản:


- thứ nhất là khả năng và tư cách của người thừa kế;
- và thứ hai là, phản ứng của các công thần sẽ như thế nào đối với người kế vị, v́ phản ứng này rất quan trọng, ảnh hưởng tới sự an nguy của triều đại.
 

Bằng vào kinh nghiệm chính trị của một người lập nghiệp từ khi trong tay “ đất chỉ một thành, quân chỉ một lữ[20], vua Gia Long có thừa khôn ngoan để dự kiến được rằng người kế vị sẽ phải đối phó những vấn đề ǵ trong nội bộ, do các công thần gây ra giữa các điểm thu hút quyền lực mang danh nghĩa là con hoặc cháu. Nếu vua chọn cháu (Ḥang tôn Đán) th́ phải đề pḥng phản ứng của phe các con; và ngược lại, nếu chọn con, phải đề pḥng phản ứng của phe cháu, bởi v́, giả dụ bản thân các con và cháu muốn yên thân tuân theo lệnh cha, ông, đi nữa, cũng không tránh t́nh trạng bàn ra tán vào, xúi giục này nọ của các đại thần, nếu họ có quan điểm ngược lại với vua. Trong sự tŕ hơan quyết định của vua, chắc chắn có cái thâm ư mua thời gian đủ để thăm ḍ phản ứng của các đại thần, và quả nhiên Nguyễn Văn Thành mắc bẫy.
 

Chính sau khi cái ư của Nguyễn Văn Thành đă bộc lộ rơ ràng, vua mới công bố quyết định dứt khóat.


“Tháng 3, ngày Canh dần (2/1816), đặt triều nghi ở điện Cần Chánh, triệu bầy tôi đến, đều cho ngồi. Dụ rằng: “ Trẫm nay làm việc đă mỏi, rất lo đến kế lớn của Xă tắc. Thái tử là người trừ nhị [người nối ngôi] của nước, cần phải sách lập để trọng chính thống và giữ bền gốc nước”. Bèn triệu Thượng thư Bộ Lại là Trịnh Ḥai Đức đến trước giường ngự, sai viết “Lập ḥang tử Hiệu [ tức Đảm] làm Ḥang Thái tử” để đưa cho bầy tôi xem. Vua nói: “ Ai đồng ư th́ kư tên vào”. Quần thần đều nói: “Thánh ư định trước, thực là phúc không cùng của Xă Tắc, bọn thần xin noi theo mệnh lệnh”.

Tiếp theo quyết định này là tiến hành thủ tục phong Thái tử. Vào mùa hè năm sau, 1817, Tiền quân Nguyễn Văn Thành uống thuốc độc tự sát đang khi triều đ́nh nghị án. Vua Gia Long tỏ ư thương tiếc một công thần nhưng hẳn trong ḷng không khỏi thở phào nhẹ nhơm khi lọai bỏ được một chướng ngại quan trọng trên tiến tŕnh củng cố quyền lực cho vua tương lai, mà khỏi phải dùng biện pháp mạnh. Trong những năm kế tiếp, việc chuyển giao quyền hành được thực hiện từng bước trong từng lănh vực, vừa có tính cách tập việc làm vua, vừa nhằm tăng quyền uy cần thiết, chẳng hạn cử Thái tử đại diện vua để làm lễ tại các lăng, miếu, chuẩn y đề nghị của Bộ Lễ, buộc thần dân phải xưng “thần” đối với Thái tử; gọi sinh nhật của Thái tử là “tiết Thiên xuân”; giao cho Thái tử duyệt lại các án do đ́nh thần đề nghị, từ tội đồ và lưu trở xuống,v.v.


Tháng 1 năm 1820, “ Ngày Tân măo, triệu Ḥang thái tử và các ḥang tử tước công và các quan đại thần Lê Văn Duyệt, Phạm Đăng Hưng vào hầu. Bày ấn ngọc, cờ, gươm ở trên án vàng trước giường ngự. Dụ Ḥang thái tử rằng: “ Đây là cơ nghiệp gian nan của trẫm, nay giao cho con, con nên cẩn thận giữ ǵn.”
[21] Kế đó, “Ngày Kỷ hợi, vua ốm nặng, triệu Ḥang thái tử và các Ḥang tử tước công cùng các đại thần là bọn Lê Văn Duyệt, Phạm Đăng Hưng, cùng nhận di chiếu.” [22]

Nguyễn Văn Thành và Lê Văn Duyệt là hai gương mặt lớn của triều đ́nh lúc đó. Nay Nguyễn Văn Thành đă chết; đem một ông vua trưởng thành gởi gắm cho hai trọng thần một vơ một văn một cách công khai trước mặt những nhân vật quan trọng của triều đ́nh, là bước dọn đường sau cùng. Với việc này, vua Gia Long muốn nói lên rằng đây là quyết định tối hậu của vua, đây là chính thống, ai đi ngược lại là phản bội, sẽ bị kết án. Liệu trong một bối cảnh như thế, Mỹ Đường có đủ can đảm để chống lại không? Liệu có một đại thần nào dám ủng hộ Mỹ Đường, dẫu là ngấm ngầm không? Lên ngai vàng trong điều kiện thuận lợi như thế, lại vốn thông minh và quyết đóan, thiết nghĩ vua Minh Mạng không cần thiết phải gây vụ án Mỹ Đường để bảo tồn địa vị v́ Mỹ Đường không phải là đối thủ và không có người hậu thuẫn. Xin nhớ rằng vụ án Mỹ Đường xảy ra vào năm 1824, nghĩa là 5 năm sau khi vua Minh Mạng lên ngôi. Ngày nay, năm năm là thời gian để ḥan thành một kế họach lớn (kế họach 5 năm), vậy th́ thời xưa, 5 năm cũng đủ cho vua Minh Mạng củng cố địa vị một cách vững vàng tuyệt đối. Lẽ thường t́nh, khi không có dấu hiệu đe dọa, không ai xuống tay nặng nề. Trong ḥan cảnh tương quan lực lượng như thế, thử hỏi vua Minh mạng có cần phải làm cái tṛ nhổ cỏ tận gốc không? Nói như thế không có nghĩa là là vua Minh Mạng không coi chừng Mỹ Đường, nhưng coi chừng theo cách rào giậu, ngăn chận từ xa chứ không phải sắt máu như người ta đồn đăi. Việc lập ra Tôn Nhơn Phủ, đặt ra đế hệ thi dành cho ḍng làm vua, và phiên hệ thi dành cho ḍng các anh em, tiếng nói rằng để dễ dàng phân biệt thế thứ, thân sơ, nhưng thực chất là một lọai nhăn hiệu phân biệt trong vấn đề thừa kế ngai vàng.

Nói một cách khác, vụ Mỹ Đường không phải là một vụ án chính trị.


Những tin đồn, những ghi nhận về vụ Mỹ Đường đều thuộc lọai “tam sao thất bản”, hoặc do người ta không nắm được sự việc – ngay chính cả các sử gia, như người viết đă dẫn – hoặc do ác cảm nên bày chuyện theo kiểu vẽ rắn thêm chân. C̣n chuyện phê phán vua Minh Mạng đúng hay sai, tàn ác, hẹp ḥi hay không, là quyền của mọi người, nhưng đừng quên nêu lư chứng (*)

VƠ HƯƠNG-AN

San Jose, 7/05


__________


(*) Hẳn không khỏi có độc giả nghĩ rằng viết về vụ án dưới thời vua Minh Mạng mà dùng sách sử do Quốc Sử Quán của Nhà Nguyễn chép th́ có khác ǵ mẹ hát con khen. Và hẳn cũng có độc giả không hiểu làm sao sử lại ghi chép được lời nói của các vua. Trong văn pḥng của vua (Thị thư viện đời Gia Long; Văn thư pḥng, rồi Nội Các đời Minh Mạng trở về sau), có một bộ phận luôn đi theo vua để nghe và ghi chép lại tất cả những lời vua nói, những chỉ thị vua ban, những việc vua làm. Đó là chức khởi cư chú. Tất cả những ghi chép này cùng các bản tấu sớ có lời phê của vua đều được tồn trữ tại Nội Các, sau đó sẽ được chuyển ra cho Quốc Sử Quán dùng làm tài liệu để chép sử, tức các bộ Thực lục ngày nay.

 

[1] Kể từ khi vua Minh Mạng ban hành Đế hệ thi (cho ḍng của vua) và Phiên hệ thi (cho các anh em vua) vào năm 1836, th́ mới gọi là Mỹ Đường, lấy chữ lót là Mỹ, theo thứ tự bài thơ sau:
Mỹ Duệ Tăng Cường Tráng;
Liên Huy Phát Bội Hương;
Lịnh Nghi Hàm Tốn Thuận
Vỹ Vọng Biểu Khôn Quang.


[2] Xem TRẦN GIA PHỤNG, Những kỳ án trong Việt Sử, Non Nước, Canada, 2000
[3] Tức Đông cung Cảnh, sau được vua Gia Long truy tặng là Anh Duệ Ḥang Thái tử.
[4] TRẦN TRỌNG KIM, Việt Nam Sử Lược, Q.II, Institut de l’Asie du Sud-Est, Paris, 1987, tr.187
[5] PHẠM VĂN SƠN, Việt Sử Ṭan Thư, Tủ sách Sử học, ấn bản Hoa Kỳ, không đề năm, tr.604
[6] SĨ QUỐC, Dĩ văng, Vietbooks, California, 200, tr.11.
[7] Phim nổi tiếng của Nhật vào thập niên 1950, kể chuyện cùng một vụ án nhưng mỗi người thuật một cách khác nhau.
[8] ĐNTL, Tập 2, 2004, tr.390
[9] Sđd., tr. 400
[10] Sđd., tr.520
[11] Tập phong là theo tước của cha để phong tước cho con, thấp hơn một bậc.
[12] Gia phả của Nhà Nguyễn, thuộc ḍng của vua Gia Long.
[13] ĐNTL, Tập 4, 2004, tr.525
[14] ĐNTL, Tập 5, 2004, tr.1039
[15] ĐNTL, Tập 1, tr. 642
[16] Không có lư lịch Mỹ Đường nên đây chỉ là con số ước lượng. Ḥang tử Cảnh sinh năm 1780. Giả thử 18 tuổi có con, th́ Mỹ Đường sinh trong khỏang 1797, 1798.
[17] ĐNTL, Tập 1, tr.877
[18] ĐNTL, Tập 1, tr. 912-913
[19] NGUYỄN KHẮC THUẦN, Việt sử giai thoại tập 8, NXB Giáo dục, 2001, tr.11.
[20] Chữ của vua Gia Long dùng để chỉ t́nh trạng ban đầu khi mới dấy nghiệp.
[21] ĐNTL, Tập 1, tr.1000
[22] ĐNTL, T6ạp 1, tr.1002

Tài liệu tham khảo:


NGUYỄN KHẮC THUẦN, Việt sử giai thoại tập 8, nxb Giáo dục, 2001
PHẠM VĂN SƠN, Việt Sử Ṭan Thư, Tủ sách Sử học, ấn bản Hoa Kỳ, không đề năm.
QUỐC SỬ QUÁN TRIỀU NGUYỄN, Đại Nam Thực Lục, Tập 1, bản dịch của Nguyễn Ngọc   Tĩnh, Viện Sử học, nxb Giáo Dục, 2002
QUỐC SỬ QUÁN TRIỀU NGUYỄN, Đại Nam Thực Lục, Tập 2, nhiều người dịch, Viện Sử học, nxb Giáo Dục, 2004
QUỐC SỬ QUÁN TRIỀU NGUYỄN, Đại Nam Thực Lục, Tập 4, nhiều người dịch, Viện Sử học, nxb Giáo Dục, 2004.
QUỐC SỬ QUÁN TRIỀU NGUYỄN, Đại Nam Thực Lục, Tập 5, nhiều người dịch, Viện Sử học, nxb Giáo Dục, 2004.
QUỐC SỬ QUÁN TRIỀU NGUYỄN, Đại Nam Liệt Truyện,Tập 2, nhiều người dịch, Viện Sử học, nxb Thuận Hóa, Huế, 1997
SĨ QUỐC, Dĩ văng, Vietbooks, California, 2000
TRẦN TRỌNG KIM, Việt Nam Sử Lược, Q.II, Institut de l’Asie du Sud-Est, Paris, 1987.

 


art2all.net