VĂN HỮU

Số 21 Mùa Hạ 2013

____________________________________________

 

Quang Nguyễn

Con cá hồi cụt đuôi

 

 

Lời nói đầu: Anh bạn nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang, chúng tôi thường gọi là Quang Du Ca, có mộng ước sáng tác một tập nhạc mang tên Quê Hương Mênh Mông gồm 12 bài. Trong số 12 bài đó sẽ có một bài nói về con cá Hồi. Đến nay, Quang Du Ca mới viết được sáu bài : Tôi Có Một Mối T́nh, Nghĩa Trang Arlington, Thèm, Trên Đường Phố San Francisco, Nào Ai, Những Căn Nhà Mái Xanh. C̣n bài về con cá Hồi anh chưa sáng tác được. Điều đó cũng dễ hiểu. Nhiều lần Quang Du Ca đến thăm Seattle, tôi đều dẫn anh đi tới những ḍng sông Cedar, Green, Duwamish, Issaquah...  Quang Du Ca đến Seattle vào mùa hè nên không lần nào anh thấy con cá Hồi trở về quê hương. Tôi đưa anh vào Public Market và chỉ cho anh thấy những con cá Hồi đang nằm trên đống nước đá bào. Những con cá Hồi anh thấy là những con cá Hồi khỏe mạnh, thịt ngon thơm bị con người bắt trước khi về tới quê hương. Quang Du Ca chưa viết được, tôi ấp ủ viết một truyện về con cá Hồi. Năm này qua năm khác, tất cả năm năm, tôi đi bên bờ sông Cedar, ḍng sông quê hương của những con cá Hồi. Ḍng sông Cedar trở nên quen thuộc với tôi. Tôi thấy được ḍng sông thay đổi bốn mùa, tôi cảm nhận được nỗi vui buồn của ḍng sông, tôi nói chuyện được với ḍng sông Cedar... Tôi chưa bao giờ tôi nói chuyện được với những con cá Hồi. Những con cá Hồi đang đem hết sức lực bơi ngược ḍng nước chẩy xiết. Chúng không đủ sức lực và thời gian để kiếm ăn th́ làm ǵ c̣n sức để nói chuyện với tôi. Năm năm tôi không viết được một vài gịng về con cá Hồi cho đến khi cháu ngoại tôi ra đời. Tôi viết những lời tâm sự với cháu ngoại tôi.


****

 

Ông ngoại là con cá Hồi Cụt Đuôi. Đuôi cá giống như bánh lái của con thuyền có công dụng giúp con cá đi đúng hướng nó muốn. Ông ngoại là con cá không đuôi nên ông ngoại không tới được những nơi ông ngoại muốn tới. Ông ngoại viết một câu truyện nhan đề CON CÁ HỒI CỤT ĐUÔI với mong ước Lan Chi là con cá hồi đầy đủ đuôi để Lan Chi đi đúng hướng đến bến bờ Tự Do, Hạnh Phúc, No Ấm và Cội Nguồn. Câu truyện gồm ba phần:

- Tái Sinh Bên Ḍng Sông Cedar

- Cá Hồi Việt Nam

- Ước Mơ

 

Tái Sinh Bên Ḍng Sông Cedar

Ông ngoại thường đi bộ trên trail Renton Cedar River để tập thể dục. Trail Cedar River dài khoảng 30 km chạy dọc theo ḍng sông Cedar. Ông ngoại chỉ đi bộ trên mười cây số cuối cùng của trail Renton Cedar River và cũng là mười cây số cuối cùng của ḍng sông Cedar chảy qua thành phố Renton nơi ông ngoại đang cư trú để đổ vào hồ Washington. Mười cây số cuối cùng này không phải là của ḍng sông Cedar nguyên thủy. Người ta đào mười cây số này để chuyển hướng chảy của ḍng sông Cedar đi lên phía bắc để đổ vào hồ Washington thay v́ chảy về phía tây để nhập với ḍng sông Black. Mục đích chuyển hướng ḍng sông Cedar để tránh lụt lội cho thành phố Renton do ḍng sông Black gây ra. Thành phố Renton tránh được lụt, nhưng ḍng sông Black cạn dần và biến mất. Sự kiện này, ông ngoại đă tŕnh bầy trong bài viết Ḍng Sông Chết. Mười cây số của trail chia làm hai phần. Phần đầu dài 6 km, ḍng sông chảy qua một khu rừng. Phần cuối dài 4 km từ thư viện Renton đến hồ Washington, ḍng sông chảy dọc theo một công viên. Giữa phần đầu và phần cuối là một cây cầu và một con đường. Thư viện Renton nằm ngang qua một chỗ hẹp của ḍng sông. Ông ngoại thường đi trên phần cuối, ít khi ông ngoại đi trên phần đầu của trail.

 

Thư viện Renton nằm ngang sông

 

Ông ngoại thích đi trên bốn cây số cuối cùng của trail Renton Cedar River v́ đẹp và có chỗ đậu xe thuận tiện của Thư Viện Renton. Trail đẹp cả bốn mùa. Dọc theo Renton Trail Cedar River, từ thư viện Renton đến hồ Washington, là công viên có thảm cỏ được chăm sóc xanh tươi và sạch sẽ quanh năm. Nền của công viên là mầu xanh của thảm cỏ, của những cây thông trồng trong công viên, của những cây liễu và nhiều loại cây cỏ không tên dọc theo bờ sông. Mỗi mùa, trail có mầu sắc khác nhau trên nền xanh của công viên. Mùa xuân, những cây anh đào nở trong công viên và bên bờ sông. Màu hồng dịu hiền nổi trên màu xanh. Ông ngoại nhớ những cây anh đào Đà Lạt. Đà Lạt có Viện Đại Học Đà Lạt, quê hương tinh thần của ông ngoại.

Mùa hạ, những bụi Forsythia được tỉa thành cây, nở hoa màu vàng rực rỡ. Những bông hoa vàng Forsythia khá giống hoa Mai. Ông ngoại nhớ chợ hoa đường Nguyễn Huệ những ngày tết, tại Sài G̣n trước năm 1975. Mùa đông, những chùm bông tuyết đọng trên cỏ, trên cây vừa buồn vừa đẹp. Những ngày mưa phủ mờ ḍng sông, ông ngoại nhớ những ngày mưa và lạnh ở Huế. Ông ngoại thích nhất mùa thu trên trail Renton Cedar River. Tháng mười một, giữa mùa thu, lá của những cây maple đổi màu, cây đổi thành mầu đỏ, cây đổi thành màu cam, cây đổi thành màu vàng. Những bụi Burn Bush lá xanh đổi thành màu đỏ tươi. Những cây Ginkgo lá đổi thành màu vàng rực làm sáng một khoảng không gian chung quanh. Ḍng sông cũng đổi màu. Hàng đàn cá hồi bơi ngược ḍng làm hồng cả một khúc sông. Cảnh tượng bi hùng của đàn cá hồi bơi ngược ḍng nước chẩy xiết đă quyến rũ ông ngoại đến chiêm ngưỡng hàng năm.

 

 

Đầu tháng mười những con cá hồi từ biển Thái B́nh Dương vào hồ Washington. Từ hồ Washington chúng vào sông Cedar, nơi chúng sinh thành. Những đàn cá thưa thớt đầu tiên bơi ngược ḍng sông mở đầu cho mùa cá hồi trên sông Cedar. Ánh mắt của những con cá đầy vui tươi như ánh mắt của những người Việt Nam xa quê lâu năm bước xuống phi trường Tân Sơn Nhất. Ông ngoại không biết v́ ông ngoại vui tươi nên ông ngoại thấy ánh mắt cá hồi vui tươi hay chính những con cá hồi vui tươi khi được trở về nơi chôn nhau cắt rốn.

Đầu tháng mười một, khúc sông ánh lên màu hồng. Không phải hàng trăm con cá hồi mà từng đợt hàng ngàn con cá hồi nối tiếp, lũ lượt bơi ngược ḍng sông. Cảnh tượng không khác ǵ cảnh những người Hồi giáo hành hương về thánh địa La Mec-que, người Thiên Chúa Giáo về thánh địa Jerusalem, La Vang hay Fatima, người Phật Giáo hành hương nơi Đức Phật thành đạo tại Nepal. Cảnh tượng cũng không khác ǵ cảnh tượng người Việt hải ngoại lũ lượt về quê ăn tết. Nhưng cả ba cảnh tượng khác nhau về mục đích. Những đoàn người hành hương về thánh địa La Mecque, Jerusalem, La Vang, Fatima, Nepal để chứng tỏ đức tin của ḿnh với đấng giáo chủ và xin đấng giáo chủ ban cho họ những điều tốt đẹp. Những đoàn người Việt hải ngoại đông đảo về quê trong dịp tết Nguyên Đán hay vào mùa hè mang tính cách về nguồn, nhớ nguồn gốc ḿnh sinh ra. Đoàn cá Hồi trở về sông Cedar mang ba h́nh ảnh: Trở về quê hương, chết trên quê hương và tái sinh một thế hệ mới để duy tŕ ṇi giống cá Hồi. Tái sinh là mục đích chính của đàn cá hồi.

 

 

Tháng mười hai, chỉ c̣n ít ỏi cá hồi cố gắng lội ngược ḍng nước. Tháng mười hai, bầu trời luôn đầy mây đen, mưa hầu như suốt ngày, đôi khi có tuyết rơi. Cảnh buồn và quạnh hiu. Những con cá Hồi về quê muộn màng giống như những người v́ sinh kế làm ăn vất vả, qua giờ giao thừa vẫn chưa về tới nhà. Cảnh buồn người có vui đâu bao giờ nên ông ngoại thấy con cá hồi buồn. Một lần, ông ngoại đi thật xa về phía thượng nguồn với mục đích xem con cá hồi đi ngược ḍng xa đến đâu. Con sông khi th́ chảy sát trail, khi th́ chảy qua cánh rừng không nhà, khi th́ chảy qua nơi vắng lặng, lác đác vài nhà đang tỏa khói từ những ống ḷ sưởi trên mái nhà. Ông ngoại ngồi trên tảng đá lớn. Ông ngoại dừng chân v́ nơi đó đă xa nhà hơn mười cây số, đi bộ trở về nhà cũng phải mất hai tiếng đồng hồ. Những tảng đá nằm sát bờ sông và gần đó có tấm bảng View Salmon. Khúc sông nơi đó khá rộng so với nơi khác. Ông ngoại ngồi trên tảng đá hơn một giờ. Mắt ông ngoại chăm chăm nh́n nước ḍng nước chảy xiết. Hơn một giờ đồng hồ, ông ngoại chỉ thoáng thấy một con cá hồi quẫy trên mặt nước. Con cá hồi ch́m xuống nước và ông ngoại không c̣n thấy lại con cá hồi. Ông ngoại không biết con cá hồi vừa quẫy là con cái hay con đực. Dù là con cá hồi cái hay cá hồi đực, một ḿnh nó cũng không thể tái sinh được. Con cá hồi cô đơn lẻ loi không thực hiện được mộng ước tái sinh. Không phải con cá hồi nào cũng hoàn thành được nhiệm vụ trời phó thác để tái sinh ra thế hệ tiếp nối. Hoặc chúng bị chết giữa đường v́ đuối sức do cuộc hành tŕnh quá dài và gian nan, hoặc do bị con người, gấu, chim sát hại, hoặc do không có bạn đường …..

 

 

Cá hồi tái sinh trong ḍng nước của sông Cedar. Có một người muốn tái sinh trên bờ sông Cedar. Người đó là anh chàng John. Ông ngoại quen John trên trail Cedar River. John là người Mỹ da trắng, gốc Ái Nhĩ Lan. John khoảng hai mươi tám tuổi. Nhà John ở trong khu xóm có khoảng hai trăm nhà gồm giàu nghèo lẫn lộn. Nhà giàu là những nhà water front. Nhà trung b́nh và nghèo th́ nằm phía trong. Khu xóm này ở bên cạnh sông Cedar. Nhà John nằm trên bờ sông Cedar. John nói với ông ngoại, Jonh là thế hệ thứ ba đi trên trail Cedar River. John kể rằng: Ông ngoại John là một công nhân của hăng máy bay Boeing. Những giờ nghỉ trưa, ông ngoại John đi bộ dọc sông từ điểm cuối cùng của ḍng sông là nơi ḍng sông đổ vào hồ Washington và gần đó là cửa ra vào của một phân xưởng hăng máy bay Boeing, nơi ông ngoại John làm việc. Ông ngoại John quen bà ngoại John trên trail. Hai người yêu nhau và lấy nhau. Ông bà ngoại John mua căn nhà bên bờ sông Cedar. Ông bà ngoại John chỉ sinh ra được mẹ John. Mẹ John lấy chồng và ra ở riêng cho đến khi ông bà ngoại John qua đời, bố mẹ John về ở căn nhà bên bờ sông Cedar. John là con út trong gia đ́nh gồm ba chị em. Hai chị John đă có gia đ́nh. Chị lớn Liza ở măi tận Washington DC. Chị kế Michelle ở San Jose. John độc thân và ở với cha mẹ.

Thỉnh thoảng ông ngoại và John gặp nhau trên cầu trước cửa thư viện Renton. John kể cho ông ngoại về đời sống của con cá Hồi. Cá hồi là một trong ít loại cá sống trong nước ngọt và cả trong nước mặn. Cá Hồi có hai loại chính Cá Hồi Thái B́nh Dương và cá Hồi Đại Tây Dương. Cá Hồi Thái B́nh Dương có nhiều loại: Sockeye, Chum, Pink, Coho, Chinook, Steelhead, Masu… Đại Tây Dương chỉ có một loại cá Hồi gọi là cá Hồi Đại Tây Dương. Cá Hồi là loại cá khỏe, nó có thể nhảy cao đến 3 mét để vượt thác ghềnh và bơi ngược gịng nước chảy xiết.

 

 

John chỉ cho ông ngoại làm sao để biết con cá Hồi Sockeye đực hay cái. Thường người ta dựa trên mầu sắc để biết cá hồi đực hay cái. Cá hồi đực có màu đỏ sáng hơn cá hồi cái. Nh́n miệng cá hồi cũng có thể biết được đực hay cái. Hàm cá hồi đực có những răng nhọn, cá hồi cái th́ không. Đầu cá hồi to nhỏ cũng cho ta phân biệt được con đực, con cái. Đầu cá hồi đực to so với thân của nó, đầu cá hồi cái b́nh thường so với thân. Lưng cá hồi đực cái cũng khác nhau. Nh́n lưng cá hồi đực có cục u cao, cá hồi cái th́ không.

John nói với ông ngoại về chu kỳ của đời sống con cá hồi. John nói : Cá hồi trở về sông Cedar có bốn loại Sockeye, Chi-nook, Coho và Steelhead. Mặc dầu chúng sống chung trong một ḍng sông, nhưng đời sống của chúng khác nhau. Sockeye là loại cá hồi chiếm đa số tuyệt đối trong ḍng sông Cedar. Chu kỳ của cá hồi Sockeye và cá hồi nói chung gồm 6 giai đoạn. Mỗi giai đoạn, cá hồi có tên gọi khác nhau.

Giai đoạn 1: Thường vào mùa thu, cá hồi trở về ḍng sông Cedar và chọn nơi để đẻ trứng. Cá mẹ dùng đuôi để đào ổ đẻ. Ổ đẻ là một hố trong hốc đá sỏi dưới ḷng sông, được gọi là redd. Hốc đá giúp cho những trứng không bị chim, những con cá khác ăn. Bơi bên cạnh cá hồi cái lúc đó có một hay vài cá hồi đực. Cá hồi đực phủ tinh trùng ngay khi trứng lọt ḷng. Sau đó cá hồi cái dùng đuôi đẩy những viên sỏi để lấp trứng. Thường thường cá hồi cái đẻ năm ổ trứng trong redd. Tùy theo lớn hay nhỏ, cá hồi cái đẻ từ 2000 đến 4500 trứng.

Giai đoạn 2: Cuối mùa đông hay đầu mùa xuân, trứng nở. Những con cá salmon con được gọi là Avelin. Một túi đựng chất giống ḷng đỏ trứng treo ở giữa Avelin. Cái túi này cung cấp thức ăn cho Avelin. Avelin ở trong hang ổ cho tới khi túi có chất giống ḷng đỏ trứng biến mất. Có nghĩa là cho tới khi Avelin ăn hết chất giống ḷng đỏ trứng. Thời gian này khoảng ba tháng.

Giai đoạn 3: Khi túi có chất giống ḷng đỏ trứng biến mất, cá được gọi là Fry. Fry là cá hồi nhỏ. Chỉ khoảng 20 trong số 100 Avelin sống sót để trở thành Fry. Khi dời khỏi hang ổ, Fry phải t́m nơi để trú ẩn và nơi này có thức ăn cho Fry. Những nơi đặc biệt này goi là habitat. Chỉ có khoảng 10 trong số 100 Fry t́m được habitat đáp ứng đầy đủ hai điều kiện có thức ăn và an toàn. Số c̣n lại bị chết. Chinook và Coho Fry có màu xẫm và có những đốm lớn đă giúp chúng ḥa hợp lẫn lộn với ḷng suối hay sông và ẩn nấp để tránh bị săn bắt của những con thú khác. Pink, Chum và Chokeye Salmon có ít đốm hay không có đốm, chúng theo ḍng nước đi vào hồ rất sớm. Chúng có màu bạc. Fry bơi và t́m thức ăn. Fry ăn những rong rêu và côn trùng.

Giai đoạn 4: Cá hồi con theo ḍng nước vào hồ Washing-ton. Chúng có tên là Molt. Chúng ở hồ Washington khoảng hai năm. Đến lúc trưởng thành, da cá hồi trở thành màu xám bạc. Thời gian này là thời gian chúng sẵn sàng đi ra biển mặn. Trước khi ra biển chúng sống ở vùng nước lợ, chỗ nước ngọt và nước mặn gặp nhau, trong vài ngày hay vài tuần. Tại vùng nước lợ, chúng kiếm ăn và thay đổi thể chất để thích ứng với nước mặn.

Giai đoạn 5: Thời gian đầu, cá hồi sống ven bờ biển. Cuối mùa thu, chúng di chuyển ra đại dương. Phần lớn chúng bơi từng đoàn lên hướng Bắc theo bờ biển British Columbia để tới Alaska và có khi chúng đi xa hàng ngàn cây số tới vùng North Pacific. Cá hồi trưởng thành trong đại dương. Nơi đây có nhiều thức ăn và không gian rộng lớn nên chúng lớn rất nhanh. Bây giờ chúng mới được gọi là Cá Hồi. Chúng sống trong biển khoảng bốn năm. Cá hồi ăn tôm, mực và những cá con như cá trích. Cá hồi cũng ăn những cây và sinh vật trôi nổi trên biển. Để có thể sinh tồn được trong đại dương, cá hồi phải t́m những nơi có nguồn thức ăn phong phú. Nơi vùng biển này đ̣i hỏi nhiệt độ và độ mặn thích hợp cho những sinh vật thức ăn của cá hồi phát triển. V́ vậy khi nhiệt độ của đại dương tăng vài độ so với nhiệt độ b́nh thường những sinh vật trôi nổi giảm và số lượng cá Hồi cũng bị giảm một cách đáng kể.

Giai đoạn 6: Giai đoạn khép kín chu kỳ được gọi là giai đoạn di trú migrating. Giai đoạn này cá hồi dời biển khi chúng đến thời kỳ sinh nở. Dời biển để vào vùng nước ngọt, cá hồi cũng dừng lại ở vùng nước lợ một thời gian để điều chỉnh thân thể cho thích hợp với nước ngọt. Cá hồi đổi từ màu xám bạc sang màu hồng. Cá hồi quay về ḍng sông Cedar nơi chúng sinh ra đời. Chúng dùng xúc giác để t́m về nơi chôn nhau cắt rốn. Chúng đánh hơi đất, cây cỏ và côn trùng trong ḍng suối để lần ṃ về quê hương xứ sở. Cá hồi bơi thành từng đoàn gồm mấy trăm con. Đoàn này tiếp nối đoàn khác làm hồng cả khúc sông. Cá hồi bơi ngược ḍng nước chảy xiết. Đôi khi chúng phải vượt qua thác ghềnh. Hành tŕnh dài có thể xa đến ba ngàn cây số, đầy gian nan nguy hiểm, nhưng chúng không bỏ cuộc. Cá hồi đem hết sức lực lội ngược ḍng nước chảy xiết nên chúng không thể kiếm thức ăn. Chúng nhịn đói suốt thời gian này. Chúng sống nhờ lượng mỡ và protein dự trữ trong cơ thể. Thời gian này cá hồi gầy, thịt chúng không ngon nên con người không bắt chúng, nhưng cá hồi vẫn là thức ăn cho loài gấu và chim.

Trong cuộc hành tŕnh có sự tranh chấp nội bộ quyết liệt. Những con cá hồi đực dùng những răng sắc nhọn đánh nhau với những cá hồi đực khác để tranh giành cá hồi cái làm bạn đường. Cá hồi cái chiến đấu với cá hồi cái khác để dành ổ đẻ trứng tốt cho ḿnh. Nếu để ư trong luồng cá hồi vài trăm con, chúng đi thành từng cặp một đực một cái. Nhưng người ta không biết được, chúng bơi thành từng cặp từ lúc nào. Sau khi phủ tinh trùng, cá hồi đực chết. Cá hồi cái trông nom trứng trong vài ngày rồi chúng chết. Hầu hết cá hồi Thái B́nh Dương chết sau thời gian sinh nở, chỉ có cá hồi Steelhead và cá hồi Đại Tây Dương trở lại đại dương và tiếp tục sinh nở những năm sau. Cá hồi Đại Tây Dương có thể sinh nở đến bẩy lần.

 

 

Dọc theo ḍng sông Cedar, xác cá hồi chết nằm rải rác giống như băi chiến trường của những trận đánh thật lớn thời xa xưa trong phim ảnh. Có những xác màu hồng nằm lơ lửng trong ḍng nước của những cá Hồi vừa mới chết. Có những xác trắng phếu nằm sát đáy sông của những cá Hồi chết đă lâu. Có những xác cá Hồi đực và cái nằm chết bên nhau cũng không ít. Những xác chết của cá hồi bố và mẹ tan ră đă bồi đắp dinh dưỡng cho ḍng sông, giúp cho những cây cỏ sinh sôi và lớn. Những thảo mộc này sẽ là thức ăn cho những con cá hồi con.

John kết luận: Cá hồi trở về tái sinh ở ḍng sông nơi chúng sinh ra là do bản năng bẩm sinh trời cho hay trời bắt buộc chúng phải làm. Nhiều người hỏi tại sao cá hồi có thể t́m đường về nơi chôn rau cắt rốn được, tại sao chúng phải chết sau khi tái sinh, tại sao và tại sao. Những câu hỏi tại sao đó phải hỏi trời. Chỉ có trời mới trả lời được. Con người cũng tái sinh. Nhưng có hai loại người: một loại tái sinh theo bản năng. Nghĩa là sinh con cái và không chăm sóc, vứt bỏ chúng để cho xă hội chăm sóc. Loại thứ hai có ư muốn tái sinh, biết tại sao ḿnh tái sinh và ư nghĩa của tái sinh. Những người này săn sóc và dậy dỗ con cái để chúng trở thành những người hữu ích cho xă hội.

Một hôm, ông ngoại thấy Jonh chạy song song với một cô gái. Ông ngoại biết mặt cô gái này. Ông ngoại đă gặp cô gái này hai ba lần trên đoạn trail xuyên qua rừng, nhưng chưa lần nào nh́n thấy cô gái trên đoạn trail từ thư viện đến hồ Washing-ton. Ông ngoại đoán cô ta ở cùng xóm với John. Phần đông những người đi bộ hay chạy bộ trên đoạn trail xuyên qua rừng đều ở trong xóm của John. Xóm của John ở ngay đầu của đoạn trail này. Hôm đó là lần đầu tiên ông ngoại thấy cô gái chạy trên đoạn trail ngang qua công viên. Cô gái không chạy một ḿnh mà chạy song song với John.

Sáu tháng sau, một hôm ông ngoại đang đọc sách trong thư viện, John và cô gái đi vào thư viện. Hai người đi đến chỗ ông ngoại đang đọc sách. John giới thiệu cô gái với ông ngoại:

- Julie, vợ chưa cưới của tôi.

Sau vài câu nói xă giao giữa ông ngoại, John và Julie, Julie đi đến những kệ sách, John đứng lại nói chuyện với ông ngoại. John nói với ông ngoại:

- Chúng tôi cùng sinh ra bên bờ sông Cedar. Julie yêu ḍng sông Cedar như tôi. Chúng tôi sẽ tái sinh bên ḍng sông Cedar…

 

Cá Hồi Việt Nam

Nhiều người Việt Hải Ngoại viết hoặc nói về những con cá Hồi Việt Nam có nghĩa là Người Việt Nam Hải Ngoại giống như những con cá Hồi. Từ năm 1975 đến năm 1982, ư chí muốn trở về quê hương như con cá hồi của người Việt Hải Ngoại mănh liệt. Họ mong muốn trở lại Việt Nam. Họ tin tưởng chế độ Cộng Sản sẽ mau chóng sụp đổ. Sau năm 1983, đời sống của những người Việt hải ngoại dần ổn định, có quốc tịch Mỹ và nh́n về quê nhà cuộc sống quá khó khăn nên ư chí về Việt Nam tái sinh giảm dần. Ngày nay người Việt trong nước t́m cách đến Mỹ định cư càng ngày càng nhiều bằng phương cách hợp pháp và bất hợp pháp. Người Việt đến Mỹ càng ngày càng đông. Ư muốn trở về Việt Nam sinh sống vĩnh viễn giảm, chỉ c̣n lại một số rất ít trong số hơn ba triệu người Việt hải ngoại. Ông ngoại chỉ biết có một người xin hồi Việt tịch là nhạc sĩ Phạm Duy. C̣n ai nữa ông ngoại không biết. Nhưng có lẽ rất ít, đếm được trên đầu ngón tay. Những người trở về Việt Nam sinh sống vĩnh viễn nhưng vẫn giữ quốc tịch ngoại quốc phần lớn là những người quá tuổi về hưu, những nhà kinh doanh, những người t́nh nguyện làm việc nhân đạo, những nhà trí thức về khoa học kỹ thuật, những nhà nghiên cứu về văn hóa, nghệ thuật liên quan đến Việt Nam, những nhạc sĩ, ca sĩ. C̣n hầu hết chỉ về Việt Nam trong dịp tết Nguyên Đán và dịp hè mục đích để thăm lại quê hương, cha mẹ, anh em, bà con, bạn bè hoặc để tránh mùa đông tại các nước phương Tây, hoặc như khách đi du lịch.

Ngày nay Việt kiều là những con cá hồi, không c̣n đúng theo nghĩa đen. Thế hệ ông bà ngoại không c̣n khả năng tái sinh. Thế hệ bố mẹ Chi không ai muốn về Việt Nam sinh nở. Thế hệ Chi ra đời trên đất Mỹ, không phải trên đất Việt Nam. Như vậy người ta nói cá hồi Việt Nam theo một nghĩa bóng nào đó. Có lẽ người ta muốn nói rằng người Việt hải ngoại luôn luôn nghĩ đến quê hương. Họ muốn nói những con cá hồi Việt Nam đă đem tiền bạc và tài năng kiến thức về Việt Nam để giúp đất nước sớm trở thành một quốc gia hùng mạnh, tự do, dân chủ. Đó là truyền thống của dân tộc. Truyền thống tốt đẹp đó được nhiều nhà nghiên cứu ngoại quốc thừa nhận. Ông ngoại trích nguyên văn bản tin được đăng trên báo Người Việt Tây Bắc số 1952 thứ sáu ngày 27 tháng 8 năm 2010, trang 49:

“Theo Daniel Ayala, trưởng dịch vụ toàn cầu của Wells Far-go, điều duy nhất chỉ có ở Việt Nam là người ta gửi tiền về cho cả tông chi họ hàng chứ không phải chỉ cho những người ruột thịt. Ngoài ra c̣n dùng tiền để giúp phát triển kinh doanh nữa. Mark Sidel, một giáo sư nghành luật ở University of Io-wa, người chuyên nghiên cứu về sự luân lưu tiền tệ theo lối này nhận xét rằng, trong những năm gần đây, càng có nhiều người Việt gửi tiền về nước v́ tính cách từ thiện gồm cả việc liên hệ đến y tế và giáo dục.”

 

Quang Nguyễn

 

Trang Văn Hữu

art2all.net