VIÊN TỊCH VÀ TÂN VIÊN TỊCH
Về phương diện kinh luận Phật học thì chữ "tân viên tịch"
cũng không được khế lý mặc dầu trong ý nghĩa xã hội thì có vẻ khế cơ. Viên tịch
hay niết bàn (Sancrit: Nirvàna / Pali: Nibbàna / Nir là không, không còn, không
có; Vàna là vọng, tham, dục, dục vọng, tham vọng, vọng tưởng) là một biến cố cấp
kỳ, xảy ra trong sát-na chớp nhoáng (mỗi ngày có 24 giờ và gồm 4.800.000 sát-na)
như thổi tắt ngọn đèn, và có nghĩa là diệt tận vòng quay sinh tử luân hồi, hoàn
toàn giải thoát để vào một cõi sống khác đầy an lạc. Khoảnh khắc viên tịch như
một niệm, khởi lên và tan biến ngay lúc đó như khi ta nghĩ về, nhớ đến hình ảnh
người thân yêu thì hình ảnh đó hiện ra ngay cho dầu người thân của chúng ta đang
ở đâu đó trên trái đất này. Tình trạng đau yếu, và thời gian bệnh hoạn, kể cả
khoảng thời gian lâm chung và trăn trối không phải là thời điểm viên tịch mà là
giai đoạn trả nghiệp mà người lâm chung đã tạo ra trong cuộc đời của họ. Để hình
dung được sự viên tịch và hành viên tịch thì phải hiểu sát-na là gì? Như vậy trọn mỗi một ngày đêm trong 24 giờ thì có 4.800.000 sát-na và được tính như sau: 30 tu-du x 20 la-dự x 20 đàn-chỉ x 20 thuấn x 20 niệm = 4.800.000 niệm mà mỗi niệm là một sát-na. Mỗi lời, mỗi chữ đều có nội hàm và ngoại diên của nó và nó còn tùy thuộc vào ngữ cảnh (context) mà thay đổi ý nghĩa nữa. Trong ngôn ngữ thường dùng mỗi ngày chúng ta thường gặp những mâu thuẩn thật khó nói; chẳng hạn như, khi một tín hữu Thiên Chúa Giáo từ trần thì tang gia đưa ra một cáo phó với nội dung “Gia đình chúng tôi vô cùng đau buồn báo tin Cụ Phê-rô Nguyễn Văn A … đã được Chúa gọi về ngày …” và rồi sẽ nhận được nhiều phân ưu như “Nhận được tin buồn Cụ Phê-rô đã được Chúa gọi về ngày … chúng tôi xin thành kính chia buồn … .” Được Chúa gọi về Nhà Cha ở trên Trời là một tin vui chứ sao lại tin buồn; tin buồn là khi nào bị Chúa gọi về mới hợp lý. Ngôn ngữ là một quy ước không thuần lý nên ở đây, là người Phật tử, chúng ta nên hiểu rõ sự khác nhau giữa hai chữ “Viên Tịch” và “Tân Viên Tịch” do tập tục lâu đời trong sinh hoạt sơn môn như sau. Và ở đây cũng cần nói qua về ý nghĩa hai chữ “sơn môn” và “hệ phái.” Sơn môn nghĩa đen là cổng chính của một ngôi chùa được kiến lập ở chốn núi rừng, nghĩa thông thường là cửa chùa, nhưng nghĩa rộng thường được dùng trong nhóm chữ “sơn môn hệ phái” thì sơn môn là chùa Tổ, là Tổ đình, là môn phái trong Phật giáo. Sơn môn và hệ phái được hiểu như là một chi nhánh, một cấp nhỏ hơn của một Tông chính. Khi một vị Tôn Đức Tăng Ni Giáo Phẩm cao cấp như các bậc Cao Tăng, Trưởng Lão, Đại Lão Hòa Thượng, Đại Lão Ni Trưởng, Hòa Thượng, Ni Trưởng hay vị Phương Trượng, Trụ Trì, Viện Chủ từ trần thì theo tập tục sơn môn, vị Tăng sĩ phụ trách giới luật, thanh quy phải viết tôn kính vị Tôn Đức đó là “Hòa Thượng, Thượng Tọa Tân Viên Tịch” để bày tỏ lòng thương tiếc và kính trọng theo đúng tinh thần văn hóa “tôn lão, kỉnh trưởng” của dân tộc Việt Nam. Chữ “Tân Viên Tịch” được dùng từ ngày viên tịch cho đến khi xong Lễ Giỗ lần thứ nhì, tức là mãn phục Đại Tường, và sau đó là Lễ Thỉnh Nhập Tổ Vị.
Khi một vị Tôn Đức Tăng, Ni còn tương đối trẻ tuổi và chưa
giữ trách nhiệm Trụ Trì, Viện Chủ mà từ trần vì bất cứ nguyên do gì thì chúng ta,
môn đồ, Pháp quyến, và đồng bào Phật tử xa gần vẫn chỉ nói và viết "Thượng Tọa /
Đại Đức (Pháp danh) vừa viên tịch lúc 11 giờ 22 phút 33 giây ngày 1 tháng 11 năm
2017" như xưa nay mà thôi. Trần Việt Long.
|