vơ công
liêm
HIỆN HỮU VÀ HƯ KHÔNG
( L’ ÊTRE Et NÉANT / BEING And NOTHINGNESS )
To: Ms. Katherine Jenkins
(University of Calgary Ab.Ca)
Trong số những tác phẩm của Jean-Paul
Sartre* để lại; Hiện Hữu Và Hư Không cho ra đời 1953 được xem là một luận đề
(essay) quan trọng nhất đối với thuyết hiện sinh (existentialism) của Sartre mà
được ông chủ xướng như một lư luận hiện thể và đích thực về tư tưởng nhân bản.
Một tiến tŕnh về tư duy đáng kể nhất để giảm thiểu sự hiện diện của tồn lưu và
đồng loạt xuất hiện những học thuyết mà điều ấy được coi như một xác quyết minh
bạch cho bộ phận triết học của ông. Đó là cứu cánh vượt qua một cách chắc chắn
giữa vô số dạng thức của những yếu tố như sự kết hợp của tồn lưu trong vũ trụ,
cụ thể nhất về mặt tinh thần để phân chia giữa tốt và xấu như một ngăn cách về
trạng thái nghi ngờ của hiện hữu. Chính cái lưỡng tính giữa hai bề mặt đó tạo
nên sự bối rối về triết học và được thay vào đó một học thuyết triết học khác,
hầu t́m ra một giải pháp thích hợp hơn của khoa hiện tượng dù là những đơn
phương chính yếu nào đi nữa.
Dù rằng sự xuất hiện chủ thuyết là rơ ràng minh bạch cho sự hiện hữu; không
những ở nội tại hay ngoại tại đều được xem như đồng thể ngang nhau, sự hiện diện
đó không c̣n tính cách độc quyền. Ở đây Sartre hệ thống hóa để giới thiệu phần
cốt tủy của triết học hiện hữu (philosophy of Being) . Ông nói đến cái gọi là
tri thức của con người và tri thức của thế-giới-như-nhiên mà hai vị trí đó được
gắn liền vào nhau. Để giới thiệu đầy đủ về nhăn quang của Sartre như một tương
quan giữa xă hội và con người.
Chủ thuyết hiện sinh của Jean-Paul Sartre là giải phóng con người ra khỏi những
ràng buộc cố hữu để t́m đến với tự do và khai phá những tồn tại bức xúc, bày tỏ
sự hiện hữu của con người trên mặt đất nầy và được xem như khoa phân tâm học chủ
lực. Một ‘sine qua non’ để lănh hội về chủ nghĩa hiện sinh và đó cũng là điều
quan trọng được coi như kẻ đưa đường về khoa triết học hiện đại của thế kỷ XX.
L’Être et le Néant là một tuyển tập luận đề triết học về hiện tượng thuộc khoa
siêu h́nh học ( A Essay On Phenomenological Ontology) ; bao gồm 5 phần chính :
- Vấn đề của Hư Không ( The Problem of Nothingness)
- Hiện-Hữu-Cho-Tự-Nó (Being-For-Itself)
- Hiện-Hữu-Cho-Cơi-Khác (Being-For-Others)
- Nhận Có, Thực Hành Và Hiện Hữu (Having, Doing And Being)
- Kết Thúc ( Conclusion)
Ở đây chúng ta chỉ đưa lên một vài khiá cạnh đặc biệt trong Being And
Nothingness/L’Être et Neant với cái nh́n riêng tư về thuyết hiện sinh của
Sartre. Trong bài viết được nêu ra ‘ la transcendence de l’Ego. Esquisse d’une
description phénoménologique ‘ 1936. Sartre vẫn cho toàn vùng của hiện tượng học
chuyển thể từ Ego/Self và được miêu tả một cách khái quát về hiện tượng mà Ego
chính là bản ngă tự tại, đưa tới cái vị lợi ‘Selfishness’ của con người, một ư
niệm như thách đố của Husserl về sự chuyển hóa của Ego.
Sartre đối kháng thể thức của Descartes. – “ Tôi suy nghĩ ; do đó tôi hiện hữu “
(I think ; therefore I am). Ư thức nói ở đây “I am” (Tôi là; tức tôi hiện hữu)
chưa hẳn là một ư thức tuyệt đối mà đó chỉ là suy tư mà thôi. ( The
consciousness which says “I am” is not actually the consciousness which thinks)
(P.92).
Descartes từ chối về cái đột khởi của ư thức mà phải do chính từ ư thức mà ra
với một phương pháp hết sức nghi ngờ mà vẫn được coi như một đạo luật. Trong lúc
đó chúng ta chỉ mới bắt chụp cái thoáng nh́n của sự phản đối đó, có thể là do
nghi ngờ của ư thức, như thể là một hành động không mấy vững chắc. Nhưng cái gọi
là ‘Descartes Cogito’ như một tư thế riêng biệt dành cho ư thức tự nó và được
xem như một đối kháng, nhưng ở đây là một đối kháng khách quan. Trong những lời
lẽ của ‘Cogito’ không phải là điều đưa Descartes nghi ngờ; đó là sự phản ảnh của
Descartes lên sự nghi ngờ “ Tôi nghi ngờ; do đó tôi hiện hữu “ (I doubt;
therefore I am) Thật ra là: “ Tôi ư thức điều mà làm tôi nghi ngờ; do đó tôi
hiện hữu” ( I am aware that I doubt; therefore I am).
Thuyết gia Cartsian Cogito (Descartes) phản ảnh là chính sự thể đó không c̣n tự
nó nhưng nguyên thủy sự cớ ấy là ư thức do từ sự nghi ngờ mà ra. Chính sự khai
phá đó giữa tư tưởng của Descartes về sau nầy Sartre đă t́m ra được những bước
khởi đầu trong học thuyết của ông…
Sartre thường hay xử dụng ngôn ngữ ‘nhận thức’ như một lư trí riêng tư
“non-positionelle (de) soi”; chữ ‘de’ được nằm trong dấu ngoặc đơn, để chứng tỏ
rằng không có sự phân chia đẳng cấp hay ngôi vị, không phân biệt vị trí của bản
ngă như một đối tượng của ư thức. Sartre đề cập đến một thứ ư thức trong sáng (néant/nothingness)
một trạng từ chưa tỏ rơ bằng một sự nhấn mạnh rơ ràng trong cái không, cơi không
trống rỗng, không dính dáng vào cái không của không. Sartre đưa cái ư thức trong
sáng của hiện hữu cũng như hư không; có thể là một luận án có tính cách vơ đoán
(non-thetic) cho tự-thức (self-consciousness) hoặc đưa vào một vị trí của
tự-thức cái đó là tâm-thức của ‘soi’ tức là ‘tự’ cái tự-có (soi-même/one-self)
trong ư thức mà ư thức đó như một ư thức suy xét phản ảnh được sự nh́n nhận về
hành động và trạng thái của ư thức trong sáng đó và hầu như dành cho một vị trí
tự-nó. Cùng một trạng huống đó Sartre đặc ra hai nền móng chính yếu cho vấn đề ư
thức như quan tâm tới sự phản ảnh của ư thức; điều ấy chính là cơ bản trong
những tác phẩm sau nầy của Sartre.
Trước hết theo quan niệm của Husserl là nắm được toàn bộ ư thức có nghĩa là ư
thức từ mọi hướng, từ mọi sự vật th́ điều đó như một ư thức có chủ đích và trực
diện, chủ điểm đưa tới một chủ thể siêu nhiên khác hơn tự-nó. Nơi đây chính là
mầm thai nghén của Sartre về cái nh́n sau nầy giữa hiện-hữu-con-người và hiện-
hữu-thế-giới-như-nhiên ngày nay là bằng chứng của Sartre về khoa siêu h́nh học
và sự tồn lưu của hiện sinh, gọi là hiện-hữu-tự-nó mà sự cố chính là
cơi-ngoài-kia của ư thức.
Thứ hai về phản ảnh ‘cogito’ là không cá tính. Ấy là điều không thực v́ đó là
điều chúng ta có thể bắt đầu với một vài vấn đề như “tôi nhận thức được cái ghế”. Những yếu tố đó cho chúng ta một cảm nhận đích thực của ư thức ( il y a / there
is / Cái đó là) tức là nhận thức về cái ghế một cách cụ thể trong ư thức trong
sáng.
Theo ư Sartre; tự-nó của Ego là không phải ư thức mà đó chỉ là lời lẽ phát biểu
một cách mơ hồ. Dĩ nhiên đây không phải là điều để nói rằng Ego là chất liệu của
ư thức; bởi Ego theo Descartes là ‘tự’ tức ngă, tự nhận của ư thức mà ở đây
không c̣n đề mục đưa ra mà là khả năng phán đoán do từ sự vận dụng của ư thức
lương tri hoặc ư thức trực tiếp xẩy ra. Sartre nói: “Sự dâng trào của ư thức
trong sáng là sự xếp đặt kiên cố tự-nó một liên hiệp nhất trí tự-nó”(Plux of
consciousnesss constituting itself as the unity of itself (P.100)
Ông nói tiếp: “ Như thế th́ Ego/Tự-nó là một tổng hợp nội quan và có tính cách
siêu lư trừu tượng”.(Thus the Ego is a sythesis of interiority and
transcendence) (p.101).
Năm 1940 sau khi cho ra đời luận án Tâm Lư Và H́nh Tượng (The Psychology Of The
Imagination) như một hiện tượng tâm lư; chính v́ thế mà Sartre dựa vào đó như
thử dựa trên căn bản để giới thiệu về Hư-Không (Nothingness); trọng tâm của luận
án là nh́n thấy những khác biệt giữa trí tưởng và tri giác đó là ư thức của nhận
thức.
Sartre đưa ra hai vấn đề :
1- Chức năng của trí tưởng do từ sự t́nh cờ xẩy ra và thể hiện được tính siêu
h́nh của thể chất ư thức hoặc có thể đó là điều được mô tả như một cơ cấu thiết
yếu của thể chất ?
2- Điều kiện nầy là một sự cần thiết cho sự nhận thức về h́nh tượng của ư thức.
Hay là điều kiện được xem là có thể giống nhau hay khác nhau trong cùng một ư
thức ?
Ư thức trong sáng phải được tôi luyện, bồi đắp với một cá tính riêng biệt của ư
thức đó là tiềm năng của Hư-Vô (Nihilation / Néantisation). Sartre nhấn mạnh ở
đây Hư-Vô và Hư-Không nghe gần gũi nhưng là khác biệt của trí năng và ư thức. Ở
đây Sartre nh́n Hư-Không là sự trống không, trống không một cách hoàn toàn
(emptiness) của Hư-Không (Nothingness) rơ ràng như xác định vị trí của nó chứ
không có tính mơ hồ của Hư-Vô (Nil (d.từ)). Sartre đi xa về điều nầy và cho rằng
trong mọi hành động của h́nh tượng th́ điều đó không c̣n nghi ngờ ǵ cả giữa
Hư-Vô và Hư-Không. Nếu sự thể của vấn đề đặt ra ở đây như sự vắng mặt hoặc không
hiện hữu tồn lưu hoặc như là mất khả năng trung ḥa (neutralized) ở đây được coi
như khả năng do từ một cơ cấu tạo thành. Có nghĩa rằng ư thức là điều không thể
tránh được mà tương quan với thế giới quan; bởi chúng ta có thân xác hữu thể là
một xác quyết rơ ràng giữa ư thức và ư thức trong sáng của vấn đề siêu nhiên. V́
ư thức nằm trong qui thức đầu tiên là không có tính không-sắp-đặt-tự-thức. Đó là
lư lẽ cho ư thức mà ư thức đó được coi như ư thức trong sáng (ness). Ở đây ư
thức có thể không c̣n là h́nh tượng của ư thức cũng có thể thiếu đi năng lực phủ
nhận và triệt thoái nó ra khỏi ư thức mà Sartre gọi là “Hư-Vô” đó là kết quả t́m
thấy cái KHÔNG nó nằm trong sự ch́m lắng của ư thức của thế giới quan mà đó là ư
thức sâu lắng trong ư thức tồn lưu; đó cũng không phải là một khả năng chiếm cứ
bất luận từ một hướng nào, nhưng phải hiện hữu của sinh tồn. It would have to be
conceived as completely engulfed in the exsisten and without the possibility of
grasping anything but the existent (P.271)
Trong Hiện Hữu và Hư Không Sartre thật sự nối liền lư tưởng của Hư-Không và Tự-Do.
Có nghĩa rằng ư thức là điều có thể có hiệu năng như một sự xuất hiện của cái
gọi là không thực (unreal) không thực để sản sinh ra từ thế giới bên ngoài, bởi;
tự-do hết sức siêu nhiên điều mà nhân loại có thể h́nh dung ra được nghĩa lư của
nó. Hiện Hữu và Hư Không là tiếng vọng, là thông điệp mà Sartre miêu tả như một
hiện-hữu-tự-nó (Being-in-itself) không những có thể hoặc không thể. Mà
‘nó-đă-là’ như một nhấn mạnh của ư thức trong tính nhân bản.
Quan trọng khác; luận cứ của tiểu thuyết là ư niệm về sự ‘buồn-nôn-tự-nó’. Buồn
Nôn là điều quan tâm tiên khởi của Sartre với xúc cảm triền miên trong con người
của Roquentin là một tri thức mà tri thức đó như một chiếm cứ, một sự chia xẻ có
dự phần của những sự vật hiện hữu (existence of things). Giữa Hiện Hữu và Hư
Không Sartre mở rộng tư tưởng về bản năng ư thức, một biểu lộ cơ chế như thể một
hiện hữu chối bỏ, bắt nguồn từ nội giới, nhưng chối bỏ ngoại giới th́ giản đơn
như một sự khác biệt rơ rệt giữa hai sự thể cùng một cảm giới không hơn không
kém. Thí dụ nói rằng: - “ cái chén là không có ở trên cái bàn” Th́ đó là một
chối bỏ trên b́nh diện nội giới; mà điều đó chỉ có thể hữu thể trong ư thức.
Hiện hữu tạo sự chối từ ảnh hưởng trong hiện hữu. Sartre tóm lược lại vị trí của
ư thức như sau: “đối với ư thức là không có hiện hữu ngoại trừ có một điều kiện
bắt buộc để được phát hiện bằng trực giác của sự vật” For consciousness there is
no being except for this precise obligation to be a revealing in intuition of
something. (P.618).Chỉ có cách làm cho ta có thể hiện hữu như một ư thức khác
của một hiện hữu khác mà thôi. Hẳn nhiên Sartre đă nắm chắc cho-cái-tự-nó
(For-itself) là tính chất phiêu lưu mà ông đă nói lên lời cứng chắc về hiện hữu
và một đời sống có ư thức.
Sartre thường phát biểu về Hư Không như một sự hiện diện, như một chi tiết trung
thực, thẳng thắn để phê nhận cả hai ư niệm của Hegel và Heidegger. Đối với lời
phê nhận của Hegel cho rằng; “ Không bao giờ có cái cơi ngoài mà đó chỉ là h́nh
thức luân lư của cái gọi là không-hiện-hữu (non-being). Như vậy sự tương quan
của con người là hiện thực. Sartre cho sự thể đó làm cho quan niệm của Hegel về
hiện-hữu và không-hiện-hữu là một điều đúng lúc, đúng th́ thay vào một nhăn
quang không-hiện-hữu như một tùy thuộc vào luân lư của hiện hữu. Ông cho sự thể
đó mà Hegel hết sức thờ ơ một cách vô t́nh giữa hiện-hữu với không-hiện-hữu.
Heidegger phù hợp với Sartre coi đó là một sự cân nhắc đúng đắn đưa tới một tiến
tŕnh bởi sự hoán chuyển từ Hiện-hữu đến Hư-không và nhận ra cả hai bề mặt của
hiện-hữu và không-hiện-hữu là dấu hiệu căng thẳng cho việc chống đối. Heidegger
cũng ca ngợi lời phát biểu của Sartre về Hư-không như một dự phần của con người
đầy đủ kinh nghiệm, ở đây không phải việc làm đơn thuần như một việc trừu tượng.
Sartre cảm nhận được ư thức của Heidegger; bởi những nguyên nhân bên ngoài đă
làm đ́nh trệ trong cái duy lư về Hư-không mà lấy đi tất cả những khả tính có thể
tính toán, chọn lọc một nguyên lư của sự Hư-Vô (nihilations). Đây là điều mà
Sartre đă nói; không c̣n cách ǵ hơn để giải thích cái vô cùng trong ‘đáy giếng’
của Hư-không mà những điều đó dự phần trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
Cả hai Hegel và Heidegger đưa ra vấn đề giữa hiện-hữu và không-hiện-hữu đó là
vấn đề mà Sartre đă nói đến về Hư-không mà không phải qua Hiện-hữu. Hư- Không đă
t́m thấy và có thể thiết lập được để rồi chối bỏ cái thực thi đi vào Hư-Vô. Nói
chung hai ông đă thờ ơ sự cấu trúc và trí tuệ của con người hoặc là ư thức của
con người. Sartre tránh những đối tượng đó mà ông cảm thấy cần phải mạnh dạn
đứng lên chống lại những chủ thuyết của Plato, Hegel và Heidegger, sự cảm nhận
đó có thể nói rằng đó là một phương án trị liệu của tri giác, trí tưởng và nhận
thức, tất cả như dính chùm vào nhau trong một luân lư cổ hủ giữa một xác định cụ
thể và sự chối từ. Cái đó gọi là chối bỏ nội tại; tự-nó như một luân lư khác
biệt. Sartre hoàn toàn không hạn chế mà thường coi Hư-Không như một ư niệm có
tương quan. Ông dùng nó như để phát biểu về một nỗi đau, để lột trần những ǵ
đáng kể nhất và như thể có mắc phải vào những lo âu mà Heidegger đă đề ra.
Hư-Không là nằm giữa cái lư sự vô cớ và hành động. Đó là nguyên cớ để trở nên
cái sự lư vô cớ; chỉ khi nào thật sự tự do. Bởi tự do của Hư-Không thực sự từ ư
thức. Cuối cùng Sartre chỉ dùng nó như là tiếng nói của tự do. Ư thức tự do là
cái tự-nó vẫn ‘chưa đủ’ để nhận ra sự hiện hữu. Như vậy ; cái ǵ Cho-tự-nó
(For-itself) là được phơi bày một cách rơ ràng về Hiện-hữu, một nội tại Hư-Không
của Hiện-hữu, một tương quan với Hiện-hữu, một mong muốn của Hiện-hữu và một
chọn lựa của Hiện-hữu.
Trong phần thuyết tŕnh về Hư-Không, đặc biệt về phần tiếp nối của tri giác và
trí tưởng. Sartre đă thận trọng dùng khoa tâm lư học của Gestalt như một tương
quan bổ sung cho trí năng về ‘h́nh tướng’ (figure) và ‘cứ điạ’ (ground).
Chúng ta nhận thấy rằng Hư-Không là Cho-tự-nó, không những chỉ vào sự chối bỏ
nội tại và lột trần Hiện-Hữu. Nhưng đó cũng là dục vọng của Hiện-Hữu và chọn lựa
của Hiện-Hữu. Cái nh́n của Sartre là từ khi khởi ra cái Cho-tự-nó (For-itself)
trong sự tương quan với chạm trán Trong-cái-tự-nó (In-itself). Có nghĩa là sự ao
ước, ḷng ham muốn th́ sự ham muốn dục vọng đó được thích hợp Trong-cái-tự-nó.
Trái lại ḷng ham muốn dục vọng đưa cảm giác như để đồng hóa hay đă đồng hóa với
Hiện Hữu và rồi trở thành một trong hai cái Cho-tự-nó và Trong-tự-nó hoặc gián
tiếp bởi lần chiếm cứ đầu tiên. Hiện Hữu là thể thức của thế giới quan. Trong
cùng một phương cách đó; những điều mà nhận ra được là những điều không tương
hợp hoặc đột nhiên ‘biến dạng’ đúng lúc để đi tới một ư thức chọn lựa, đó là một
chọn lựa phù hợp với những điều mà trước đây hầu như người ta đă phớt lờ về phần
tâm lư hoặc xem đó như một tổng thể của siêu nhiên về Ego (It-self) và nhờ đó
tạo nên được sự chọn lựa của hiện hữu. Điều mà rất hiếm thấy về sau nầy; nhưng
với danh nhân lịch sử hay bộ môn tiểu thuyết th́ lại xem như một thứ văn chương
đích thực, một xác quyết về mặt bí truyền xẩy ra như sự cố.
Có hai vị trí khác biệt của khoa tâm lư học; đối với Sartre là một tiếp nối quan
trọng qua lăng kính của ông đó là Cho-tự-nó chính vị trí đó là mạch liên đới với
con người. Đấy là ư tưởng của Sartre nói về như nhiên của thân tâm, của dục tính
xác thịt. Lẽ đương nhiên cảm giác đó là thể chất đứng ra như một sự kiện của con
người.
Chúng ta suy xét về một phần của ư thức mà ư thức đó chính là Cho-tự-nó
(For-itself) được coi như Hư Không là măi măi mâu thuẩn nội tại. Thực tế sự ấy
nằm trong lănh vực của Cái-trong-tự-nó (In-itself) như đă được tồn lưu (existed)
bởi cái gọi là Cho-tự-nó (For-itself) th́ đó là vấn đề tâm lư. Trên thực tế
chúng ta phải có nhiều xác quyết cụ thể về cái Cho-tự-nó là chính thân tâm của
ḿnh. V́ Cho-tự-nó là ư thức của vật thể như đă thấy. Cho-tự-nó không có ư thức
phán đoán mà chỉ hiện diện để xuyên qua cảm thức của Trong-tự-nó.
Chúng ta đă thấy điều quan trọng ấy trong “ La transcendence de l’Ego “ Sartre
tin là Ego chỉ một phần tâm lư và từ đó được xem như vật thể của thế giới quan.
Sartre bắt bẻ sự sai lệch đó về Hiện Hữu và Hư Không mà Sartre đă bày tỏ trước
đây và ông rất vững tâm và lạc quan về điều đó. Sartre đă phân tích kỷ năng về
thể xác của con người mà ông đă chia ra làm hai phần : -Thể-xác-cho-một-cơi-khác
(Body-for-the-Other) và Thể-xác-thấy-bởi-một-cơi-khác (Body-seen-by-the-Other).
Đó là dây chuyền kết nối của tâm-thân. Mỗi khi Hiện Hữu với tâm-thân trong cùng
một tiến tŕnh của thành quả th́ đó là Thân-xác-thuộc-về-tôi (Body-for-me) thuộc
về Hiện Hữu dù hiện diện trong cơi Hư-Không để ư thức về những điều ‘tự-nó’ như
hiện thể với thế giới quan.
Với bài viết nầy c̣n thiếu những dữ kiện để xác minh cái đích thực phản ảnh sự
trong sáng của J.P. Sartre. Ở đây chúng ta chỉ có cái nh́n thẩm quan về những ǵ
Sartre đă làm ra trong phần kết thúc luận án triết học trong tư thế phân tích
văn chương (Literary analyses). Sartre đă vẽ lên ở đây một cuộc Cách Mạng Mới
đặt xuống một đề cương cho xă hội mà trong đó cho phép chúng ta một tiếp nối tồn
tại với cái tự vươn lên ‘self-trascendence’ một cách siêu đẳng trên con đường đi
tới tự do thật sự và được coi như bước tiến dẫn đến con đường hiện sinh của ông.
Đó là những ǵ Sartre đă làm ra trong phần kết thúc tập tiểu luận triết học nầy.
Jean-Paul Sartre muốn khởi hành một ḿnh để t́m đến một lối rẽ mới, một lối rẽ
đi tới hành động cho nhân loại. Có lẽ; không c̣n bao lâu để khám phá hướng đi
của ông với cái nh́n riêng tư của ông như một phần hoạch định tự nhiên.
Cuối cùng Sartre chấp nhận mọi sự căng thẳng về tự do cũng như mọi trách nhiệm
và bổn phận mà Sartre đă thực hiện. Những điều nhận định ở đây cũng giống như
Sartre đă miêu tả là một đúc cứng dự án của con người, như một tổng thể liên hợp
từ ngoại giới đến nội giới của ư thức nhân bản và được coi như chúng ta ‘phải là’.
Tóm lại Hiện Hữu là điều kiện giản đơn như vạch trần hết thảy.
Hiện-Hữu-vạch-trần (Being-for-revealing / Être-pour-dévoiler) th́ cũng như
lột-trần-hiện-hữu (revealed-being / être dévoilé) giữa hai dạng thức đó không có
ǵ khác biệt giữa Hiện Hữu; nói cách khác giữa CÓ và KHÔNG là RỖNG, tất cả đều
nằm trong qui tŕnh vũ trụ giới với con người. Sartre giải phóng toàn bộ tính
không trong ư thức Hiện Hữu và Hư Không như một gạch nối cho lư thuyết hiện sinh
mà Sartre đă bày tỏ và hết ḷng nâng cao giá trị nhân bản một cách trọng yếu
trong triết thuyết của Sartre đề ra. Nếu hiện hữu của hiện tượng th́ nó không
c̣n phân tích về hiện tượng của hiện hữu. Cụ thể hơn hết từ khi xuất bản tiểu
luận Hiện Hữu và Hư Không Sartre luôn luôn quan tâm hạnh phúc hay bất hạnh của
con người, đó là vấn đề luân thường đạo lư (Ethical) mà mục đích và tính nết đă
được biểu lộ một cách sâu đậm trong những tác phẩm của ông để lại; nhất là những
tác phẩm triết học phong phú và hiệu năng, một luận án đầy đủ , là phạm trù
triết học mang tính triết thuyết hơn là triết học. Dẫu sao; dù dưới lư luận nào
chống đối hay phủ nhận chân lư hiện sinh là một đánh dấu vô cùng qua mọi thời
đại mà con người đang trực diện với hiện hữu trong hay ngoài của cái ‘tự-nó’ mà
chúng ta đương đầu hằng ngày với thế giới quan và sự sống c̣n giữa cơi tồn lưu.
Tất cả những vấn đề đă được đề cập với chúng ta hôm nay là một điều hết sức
trong sáng, không một phản ảnh phụ thuộc nào; điều đó chỉ t́m thấy câu trả lời
trên mặt phẳng của cái ǵ thuộc về tâm lư và ư thức mà thôi. Chúng ta đang nh́n
tới một thế giới mới trong tương lai ./.
VƠ CÔNG LIÊM (ca.ab. vulanbồn 8/2011)
*Jean-Paul Satre (1905-1980) Sanh và chết tại Pháp quốc.
SÁCH ĐỌC :
- Jean-Paul Sartre In Existentialism. (Citadel Press. 1980 USA)
- Being and Nothingness by Jean-Paul Sartre. Traslated by Hazel E.
Barnes.(Philosophical Library. NY USA 1958)
- Jean-Paul Sartre Với BuồnNôn. Bài viết của vcl. 7/2010
__________
Chú của a2a :
Các bạn có thể đọc "Being and Nothingness", bản dịch của
Hazel E. Barnes
tại đây .
art2all.net
|