TƯ TƯỞNG PHẢN KHÁNG
Hay PHẢN KHÁNG NGU XUẨN
Phản kháng là ǵ? Là một cử chỉ hay hành động chống lại cái không thuận cảnh, những ǵ ngổn ngang, g̣ đống, ù ĺ, chất chứa một t́nh huống cứng nhắc, cục bộ; do đó có một nội tại quẩn quanh đưa tới một dự phóng giải thoát. Trong tinh thần ấy thường biểu lộ qua văn từ, một ước ao vô cùng tận, gần như sanh mệnh con người từ muôn năm trước đây. Có nghĩa rằng xă hội đă ‘giấu’ những bất công để con người phải phản kháng quên ḿnh, nhưng trong cái phản kháng đó không phải là lư tuyệt đối mà đôi khi kẻ phản kháng lạm dụng danh nghĩa để làm lệch hướng, hỗn độn, hùm-bà-lằn, ngu xuẩn. Con đường hướng tới phản kháng trở nên tối tăm mù mịt. Đúng nghĩa phản kháng là một ư chí hùng tráng, một tinh thần uyên nguyên thâm hậu – là cái ǵ làm nên lịch sử; đó là cái đau trường kỳ của Nguyễn Trăi, cái hờn vong thân, cái hờn u quân đă đảo lộn thế sự thăng trầm quân mạc vấn, cái đau ḷng con quốc quốc của thi nhân, cái t́nh đời vô vàn, vạn số của Nguyễn Du, Thanh Quan, Xuân Hương, một tiết tháo khác của Cao Bá Quát, Tú Xương, Nam Cao vốn đă chất chứa tinh thần phản kháng nội tại; nghĩa rằng không đứng dậy nhưng đă đứng dậy. Từ đó cho ta thấy và h́nh dung được một phản kháng nội tại; không phải phản kháng là do từ ḷng phẫn uất mà ra, nếu đứng trên cương vị đó th́ phản kháng biến thành hủ hoá không thể làm nên lịch sử; mà phải là một thiết tha với trần gian. V́; cuộc đời là biến thiên, là ‘lộ thảo đầu phô’ do đó mới nẩy mầm tư tưởng phản kháng.
Goethe nói:’Lănh vực của tôi là
đúng lúc / My field, is time’.
Quả thật đây là lời phát biểu có
tính ngây dại cuồng si (the
absurd). Cái ǵ; dữ kiện đó đưa
con người tới cuồng si ngu xuẩn?
–What; in fact is the absurd
man? Vậy ông là ai, mà không một
phủ nhận và cũng chẳng đem đến
điều ǵ bất tận cả. Đó là lănh
vực của ông, là hành động, một
tấm chắn cho sự phán xét nhưng
đó chỉ là chủ thể tư tưởng mà
thôi.
Mà phải nh́n nhận rằng ở đây
Goethe chỉ tạm thời t́m kiếm một
tự do hữu hạn cho chính ḿnh,
cho cái sự phản kháng trống rỗng
của con người ngu xuẩn (the
absurd man) hướng tới tương lai
và đó chính là ư thức luân lư
đạo đức; đó là nhịp thở mà ông
đang sống. Cái đó không c̣n là
vấn đề đứng trước một nền luân
lư –there can be no question of
holding forth on ethics. Tất cả
hệ thống về luân lư đạo đức
(morality) là căn cứ vào nền
tảng của tư duy mà ra, đó là
hành động đem lại hợp lư hóa
hoặc hủy bỏ đi cái gọi là luân
thường đạo lư. Cần một trí tuệ
thấm nhuần với cái gọi là cuồng
si th́ may ra thẩm định được
những ǵ; đó là kết quả đem lại,
phải có một tư duy trầm lắng
trước vấn đề.
Phản kháng là
trạng thái u uất nội tại, một
ngấm ngầm trong tư duy hiện hữu,
nó đứng ngoài ư thức xă hội
nhưng đứng bên trong của một
thay đổi xă hội cho nên ‘lănh
vực của tôi là đúng lúc’ đó là
sự thế của phản kháng nội tại.
Trí tuệ ngu xuẩn không thể mong
đợi ǵ hơn ở qui cách của nền
luân lư đạo đức, cuối cùng lư do
ấy được coi là như thế: là h́nh
ảnh sống động được vẽ lên và là
nhịp thở của sự sống nhân loại
–the absurd mind cannot so much
expect ethical rules at the end
of its reasoning as rather:
illustrations and the breath of
human lives. Một ít theo đó như
ảo ảnh của thể loại đưa ra. Mà
chỉ kéo dài bằng một lư do ngu
xuẩn bởi cho đó như là một bản
chất, cá tính riêng biệt và ḷng
nhiệt t́nh của họ. Tư tưởng phản
kháng là tự t́m thấy ở chính
ḿnh; giữa hữu thể và tha thể để
qui hợp cùng nhau mà tồn sinh,
cho nên chi tư tưởng phản kháng
là một trạng thái khẩn trương và
đ̣i hỏi khởi động triền miên và
lâu dài. Hợp lưu ở đây là đoàn
kết để giữ vững tinh thần phản
kháng. Như vậy kẻ đứng ngoài
hoặc kẻ nào phá vỡ th́ coi như
xóa tên không c̣n được gọi là
phản kháng, bởi phản kháng hướng
tới chân lư đạo đức, sửa sai
những tệ đoan làm rào cản bước
tiến xă hội và con người. Khởi
từ mọi dấy động nội tại để đưa
tới phản kháng, nỗi thống khổ đó
như căn bệnh trầm thống. Chính
phản kháng nội tại là một cái
‘tôi suy tư’ (cogito) một lănh
vực riêng tôi (my field and
self) Lư luận theo Descartes:
tôi phản kháng tức tôi hiện hữu.
Danh xưng phản kháng trở nên mơ
hồ không c̣n thực thể trước cuộc
sống và từ đó biến phản kháng
vào học thuyết tư tưởng, một
phạm trù tư tưởng triết học; đưa
phản kháng vào phản kháng siêu
h́nh. Ở cuối thế kỷ 18 là mối
ban sơ của phản kháng siêu h́nh
và khởi từ đó cuộc ‘cách mạng
phản kháng siêu h́nh’ lồ lộ giữa
trần gian, mặc khải bằng một vi
diệu như nhiên và liên tiếp diễn
ra, bởi; cái sự sinh sôi thuở
vào đời tuồng như mơ hồ qua trí
tưởng. Không! Nó đă h́nh thành
nhưng chưa có cơ hội phát tiết
mà nhờ vào đó để thành h́nh lịch
sử thời đại chúng ta (Camus).
Tinh thần phản kháng đâm rễ,
sinh sôi và thỏa thê ngông cuồng
biến thành ‘ngu xuẩn phản kháng’
là h́nh thức tiêu diệt qủy ám.
Đặc biệt thời kỳ động cỡn 1830
đến 1880 đó là mối đoạn trường
xuất phát từ chỗ trâm anh thế
phiệt (Nguyễn Du). Để mới có một
Sở Khanh, một Don Juan hay một
Chí Phèo bất diệt phản kháng. Do
đó thi nhân tư tưởng Baudelaire
phán: ’mọi sự ở đời này đều tanh
hôi, tội ác, từ tờ báo tới bức
tường ô nhục, từ bức tường ô
nhục tới tượng đá, từ tượng đá
tới con người’. Baudelaire không
vơ đoán chữ nghĩa nhưng thi sĩ
đủ trí tuệ thiên phú để xác định
ngu xuẩn phản kháng –non
seulement je serais heureux
d’être victime, mais je ne
hairais pas d’être bourreau pour
sentir la revolution des deux
manières. (Baudelaire trong Le
Spleen de Paris) Không hẳn ta
sung sướng hạnh phúc làm nạn
nhân mà cũng chẳng phải bận ḷng
nếu làm tay đao phủ để cảm nhận
mùi vị cách mệnh theo đúng hai
kiểu dáng của lối về. Nói cho
ngay thi văn sĩ Baudelaire mang
nặng chất lăng mạn và trộn một
ít thần học cho nên làm người
phản kháng đúng nghĩa cũng hơi
khó huống là phản kháng siêu
h́nh hay là phản kháng ngu xuẩn.
Thảm kịch của Baudelaire là thảm
kịch bi đát, một thảm kịch phản
kháng(!) đó là một âm ỉ trong
tinh thần phản kháng của chúng
–leur silence est fracassant. Để
rồi tinh thần phản kháng không
c̣n là siêu h́nh học mà chuyển
đổi (trading) một tinh thần phản
kháng hành động và tham dự triệt
để, để hoàn thành sứ mạng nhất
là sứ mạng văn nghệ ngày nay.
Khuynh Hướng Sở Khanh /
SoKhanhnism hay Khuynh Hướng Don
Juan / Don Juanism
Nếu được coi đây là một t́nh yêu
trọn vẹn, th́ điều ấy quá dễ đi
thôi. Có những mối t́nh mănh
liệt (có thể chết cho t́nh yêu)
hơn cả ngu xuẩn sống dậy (the
absurd grows). Thời không thể
thiếu vắng t́nh yêu của Don Juan
hay của Sở Khanh; mà đă qua tay
họ những người đàn bà đẹp và
quyền qúi. Nói ra cũng nực cười
khi giới thiệu họ như một chuyện
huyền hoặc trong việc chinh phục
t́nh yêu. Đúng thế; bởi họ yêu
những người đàn bà với một trong
hai tư thế khác nhau, một là
theo đuổi hai là đam mê với tất
cả đánh đổi hoặc đây là món quà
tặng cho chính họ hay một cái ǵ
lỗi lược đă chinh phục. Sở Khanh
hay Don Juan đều thốt: ‘Tôi cho
em t́nh yêu / I have given you
love’.Tại sao phải có sự cần
thiết ấy cho t́nh yêu một cách
hiếm hoi, hi hữu thế? Họ làm
được điều này như một thách
thức, đánh đổi qua một ư thức
phản kháng giữa nội tại và ngoại
tại của cuộc đời. Cả hai là tay
đao phủ thủ của t́nh yêu: đục
khoét và khát vọng…
Nguyễn Du đưa Sở Khanh vào
truyện không phải là vai tṛ tạo
cái cớ dụ dỗ Kiều và Don Juan là
nhân vật huyền thoại hoá Tây Ban
Nha; kẻ phóng đăng mà trong thi
văn hay kịch nghệ mượn làm đề
tài nồng cốt, bởi họ là sự cần
thiết cho nhịp cầu t́nh yêu. Là;
những nhân vật nói lên phản
kháng ngu xuẩn ở mọi thời đại;
chính cái ngu xuẩn của họ là đại
diện mặt trận t́nh yêu để rồi
kết hợp thành một phản kháng nội
tại, những con người như Bạc Bà,
Bạc Hạnh, Ưng Khuyển, Sở Khanh,
Tú Bà, Hoạn Thư ‘càng cay nghiệt
lắm càng oan trái nhiều’(ND) họ
là những đại biểu của ngổn
ngang, g̣ đống. Họ dấn thân như
nói lên phản kháng, tác giả đưa
nhân vật Sở Khanh và Don Juan là
một tiết tháo chớ không phải là
kẻ điếm đàng ‘mua vui cũng đủ
một vài trống canh’(ND); tựu
chung nói lên mặt trái xă hội
tạo ra những kẻ vô luân, không
có họ không có cuộc đời nhất là
cuộc đời cần phản kháng, cái đó
là phản kháng thống khổ. Nguyễn
Tiên Điền hay Nguyễn Ức Trai
cũng biến ḿnh thành ‘sở khanh’
với vua quan để hoà âm điền dă;
đó là vai tṛ của người nghệ sĩ
văn chương mà mỗi khi phản kháng
trong một tư tưởng âm ỉ, tất
không dối ḷng, hoà vào khúc
tiêu tương của phản kháng siêu
h́nh mượn Nghiêu Thuấn làm h́nh
tượng đấu tranh để giải oan.Vậy
th́; Sở Khanh và Don Juan có
buồn không? Có thể đây là điều
không có. Mà chỉ nói đến như một
huyền thoại của hai kẻ ‘chơi
t́nh’.Tṛ này chỉ diễn ra giữa
sân khấu đời để mua vui. Nhưng
trong cái bi đát này có hai lư
do hiện hữu: họ không biết về
hành động hoặc họ không có một
hy vọng tương lai. Sở Khanh biết
nhưng hy vọng thoát c̣n Don Juan
biết nhưng không hy vọng thoát
–they don’t know or they hope.
So Khanh knows but hope pass
over, Don Juan knows and does
not hope. Họ cho ta thấy tính
chất nghệ sĩ, họ biết cái giới
hạn của họ, không bao giờ vượt
ra khỏi tầm nh́n. Đứng trước lằn
biên tâm lư của cái chết cả hai
có một nỗi buồn ngu ngơ
(ignorant of melancholy) không
lư giải thiệt hơn, họ là thành
viên phản kháng nội tại. Phản
kháng âm ỉ hay phản kháng hành
động đều dấy lên từ một tư tưởng
phản kháng.
Để rồi cả hai nhận ra những nạn
nhân t́nh yêu rơi vào hố thẳm
tội lỗi họ chuộc ăn năn để tỏ
bày phản kháng; đó là phản kháng
của lương tâm. V́ vậy; Phản
kháng nội tại và phản kháng
lương tâm là đẩy họ vào đời bằng
hai trạng huống nhưng là một
phản kháng dấy động ư thức. Niềm
vui cuộc đời mà cả hai đều mong
muốn để rồi chẳng có ǵ đáng giá
hơn là mất mát thiệt tḥi về cái
việc đă làm. Con người cuồng si
tưởng là khôn ngoan vĩ đại.
Nhưng loài người, người ta sống
trong hy vọng thời không c̣n một
phát hiện nào hơn giữa vũ trụ
này mà ở đây với một thể cách
khác dành cho sự khoan nhượng,
một t́nh cảm nam giới thầm lặng
hơn là xô bồ, động cỡn, mà chỉ
cần một trao đổi thánh thiện và
ḷng dũng cảm đơn độc. Đôi khi
người ta đánh mất niềm tin về
cái sĩ diện lớn lao vô bờ; để từ
đó bùng lên bằng một trạng thái
bức xúc, từ chỗ đó họ trầm ḿnh
vào tư tưởng phản kháng. Thời
gian cầm họ lại để hành động.
Con người ngu xuẩn không hiện
diện giữa lúc này, nó không c̣n
tách xa với thời gian. Khuynh
hướng Sở Khanh hay Don Juan
không nghĩ đây là việc ‘đi săn’
phụ nữ của họ. Họ muốn vượt
thoát để không c̣n dính dáng tới
đàn bà hay ‘sưu tầm’ đàn bà mà
chọn cho ḿnh một đời sống mới
hơn. Nhưng tất cả là thảm họa
của đau khổ; họ sanh ra không
phải làm công việc sưu tập đàn
bà mà hoàn cảnh xă hội đẩy họ
vào như thế bị động, cả hai ư
thức trong một âm vang phản
kháng, thời coi đó như thể thức
của hy vọng. Họ không c̣n khả
năng để đi t́m một chân dung nào
khác trong cuộc đời đang sống.
Bởi cả hai và nạn nhân sẽ phản
kháng dù là âm ỉ để nói lên hy
vọng của tự do.
Vậy th́ Sở Khanh và Don Juan có
ít nhiều cái hơn thua (selfish)
cho chính ḿnh? Cũng có thể có
điều ấy. Nhưng ở đây phải một
điều cần thiết để cảm thông trên
một b́nh diện khác:một bên cần
làm như thế để sống, một bên cần
như thế để làm t́nh (yêu) –there
are those who are made for
living and those who are made
for loving. Th́ ít nhất Sở Khanh
và Don Juan cũng thỏa ḷng phần
nào. Nhưng dẫu sao họ cũng bày
tỏ một đôi điều về sự chọn lựa
của họ. Bởi t́nh yêu chúng ta
đang nói ở đây là tấm vải thưa
che mắt thánh trong một ảo giác
của bất tận –for the love we are
speaking of here is clothed in
illusions of the eternal! Đây là
bài học cho ta thấy tất cả là dự
mưu để thỏa măn đam mê nhưng
chứa trong âm ỉ của một phản
kháng nội tại. Không một ai cam
chịu số phận hoặc đồng t́nh chấp
nhận một áp đặt nào.
Đứng trên phương diện phản kháng
th́ cả hai kẻ bán t́nh và những
kẻ mua t́nh đều được coi là phản
kháng lăng mạn, để rồi quay về
đối kháng, đối kháng ngay cả
chính ḿnh; Kiều van xin đám Sở
Khanh, buông tha để thoát ra
khỏi điạ-ngục-môn nơi đây là chỗ
chứa. Don Juan th́ lắc lư con
tàu (to be inclined) cả hai trở
nên thách thức Thượng đế đă trêu
chọc chúng sinh, Người ngồi trên
cao để thấy cuộc chơi mà ‘cái
t́nh là cái chi chi’. Để rồi
Dostoevski và Camus đứng lên kêu
gào phản kháng. Những kẻ phản
kháng lăng mạn (les révoltés
romantiques) khước từ Thượng đế;
mặc dù Thượng đế coi t́nh yêu là
chính yếu –Dieu en tant que
principe d’amour / God on the
principle of love mà trong t́nh
yêu lại gieo vào đau khổ, tiếng
rên âm ỉ của Nietzsche qua
Zarathustra, của Dostoevski qua
Ivan Karamazov, của Camus qua
Sisyphus tất cả qui nạp bằng một
tiếng thở dài thống khổ, bi
thương, một hố thẳm tội lỗi trên
bước đường đi tới phản kháng.
Nhưng dẫu có vùi dập hoa trôi
th́ đó là thân phận làm người ;
sống th́ phải hành động –mais
vivre; c’est aussi agir th́ c̣n
nói cái ǵ đây –au nom de quoi?
Cho nên hai gă sở khanh phải
hành động để sống, để thỏa măn
t́nh dục đôi bên chính cớ sự đó
làm nên phản kháng lăng mạn.Tôi
chỉ biết độc một điều đau khổ
hiện hữu‘je sais seulement que
la souffrance existe.’hay lănh
vực của tôi là đúng lúc ‘my
field; is time’ th́ đâu c̣n chi
là tội lỗi để rồi hư-vô chủ
nghĩa hiện ra bao che cái khước
từ Thượng đế; bởi Thượng đế đă
chết th́ gọi ai để cứu rỗi, chỉ
lấy phản kháng cứu rỗi. Không
vin vào hư-vô mà trải rộng luân
lư vào đó, hư vô bao gồm: Như
Nhiên, Như Phật, Như Pháp, Như
Chúa, Như Trời tất thảy hiển lộ
vào hư vô. Hư-vô là ǵ? là
Như-Không để đi vào cơi tịnh độ.
Vậy th́ phản kháng là ǵ? là đi
vào hư vô. Sao? Sao là sao! –le
nihilisme n’est pas seulement
dessespoire et negation. Mais
surtout volont de desespérer et
de nier. Là v́ hư-vô không phải
tuyệt vọng hay chối từ nhưng chỉ
đi tới tuyệt vọng đến cùng và
chối từ đến cùng của cái gọi là
tư tưởng phản kháng. Phản kháng
siêu h́nh, phản kháng lăng mạn
hay phản kháng ǵ đi nữa trong
cùng một nghĩa duy nhất: Phản
Kháng Hư Vô!
Tóm tắt cái sự cố đă nêu; tư
tưởng phản kháng vốn đă tích lũy
và nằm ch́nh ́nh trong trí tuệ
siêu việt, đắm ch́m trong cái
miên viễn thâm hậu. Nó chứa cả
một nỗi sầu ai oán, bi thương,
đau khổ, một xă hội mục rữa để
sanh ra nhiều thứ phản kháng ngu
xuẩn: con đĩ trần truồng duỗi
tay duỗi chân đ̣i phản kháng,
những đấng tu hành cảm thấy bất
công sinh ra phản kháng. Siêu
h́nh, lăng mạn là muôn ngàn vạn
thứ ở trần gian; bởi phản kháng
có nhiều yếu tố gây ra, hỗn mang
thuồng luồng nên chi đi tới
tuyệt vọng mà chối từ. Phản
kháng là tiếng gào tự đáy ḷng,
gào để măn nguyện là cái lư như
nhiên.Chung qui phản kháng là để
nuôi hy vọng bước vào
hư-vô-huyền-nhiệm của một hiện
tại vô tận số sát-na-a-di-đà.
Phản kháng tuyệt vọng để đi tới
phản kháng hy vọng và rồi không
c̣n một phản kháng nào hơn cho
một phản kháng tự tại; đó là
lănh vực phản kháng đúng lúc ./.
VƠ CÔNG LIÊM (ca.ab.yyc.
đạituyết 11/2013)