vơ công liêm

 

  Ư THỨC VŨ TRỤ
 

 

Tranh Bửu Chỉ



Ngỏ: Đây là luận văn có tính chất lư luân theo phương hướng triết học, tŕnh bày và đả thông tư tưởng với những người làm văn hóa, chính trị, ngoại giao và kinh tế là trọng tâm được nói đến như một bày tỏ trung thực; không giáo điều, không từ chương mà đứng trên lập trường nhất thể: bất vụ lợi, bất phân ly dựng vào đó một cấu trúc thuộc tư tưởng hiện đại để thực hiện cho một lư tưởng hướng tới . (vcl).

 

          Xưa nay người ta thường nói ư thức (consciousness) dành cho con người, một ư thức sáng suốt gọi là trí-tuệ, c̣n nói vô thức (unconsciousness) là một ư thức ngoài ṿng cương tỏa của con người, nó thuộc về sinh lư; thời tất không ai gọi vô thức là trí tuệ mà có thể là một trí tuệ ở cơi ngoài hay tầm xa, có thể là một tài năng vượt trội hơn cả (transcendent genius). Rất hiếm trên cơi đời này. Từ chỗ đó; nếu rút tiả kinh nghiệm về ư thức của trí tuệ hay cơi ngoài là nó nằm trong trục ‘ư thức vũ trụ’, là cái sự không thể nói thành lời; đấy là sự thật –If the experience of ‘cosmic consciousness’ is unspeakable; it is true…có nghĩa rằng nó nằm trong một nỗ lực đưa tới tuyệt đối của từ ngữ, một thứ từ ngữ ‘để nói / saying’, bất luận trong một cảm thức nào, ngay cả cảm thức nhạy bén đến bất ngờ; nó chuyên chở từ ‘trí tuệ’ hiện hữu như một thông tin hoặc tạo một đề xuất (ư kiến) cho vấn đề hay dữ kiện. Nói chung là phát biểu. Thí dụ: chính trị gia phát biểu qua lời nói / saying trong cảm thức nhận thấy của sự kiện chớ chưa nhận thức sự kiện chính đáng hay không chính đáng; vô h́nh chung nó trở nên vô nghĩa / nonsense đi tới ngu xuẩn trong lời nói (saying) để trở nên vô thức; nó không hợp nhất, tất không thể cho đó là ư-thức-vũ-trụ. Lối phát biểu đó qua tư duy vị ngă hơn ư thức nhận biết, một tư duy suy thoái không nhận ra sự kiện về sau. Nhất là ở khung cảnh ‘thiên nhiên’ hiện nay là thứ vô-thức không nằm trong ư-thức-vũ-trụ tự nhiên.
 

Phát biểu là bày tỏ, bộc lộ như thể kinh nghiệm tợ một báo cáo, một phán quyết –The speech expressing such an experience is more like an exclamation. Sự đó là ‘rống’ cho được việc, chớ nó không đem lại một hiện hữu của lời nói mà là tiếng nói vô bổ chưa ư thức sự kiện diễn tiến của hậu vận.


Đứng trên lập trường triết học để phân tích ngữ ngôn của cái gọi là ‘lời nói / saying’ th́ lại khác, bởi; nó hàm chứa một tư duy củng cố -giữa phi vật thể và hiện thể- hoàn toàn khác nhau tuy cùng trong một nghĩa của ư thức. Ư thức đó không thích nghi hoàn cảnh hiện đại của thế kỷ ngày nay; lời nói nó phát ra từ trí tuệ là một tổng thể giữa con người và vũ trụ, tiếng nói phổ biến, kết hợp và giao duyên trong sự lư chính nghĩa, đó là ư thức vũ trụ không c̣n của riêng mà của chung của một tập thể đại đồng chủ nghĩa.


Lư sự này có phần bí tỉ chưa sáng tỏ vấn đề hoặc chủ quan tư tưởng mà không nhận ra trong lời nói nó có một tư duy thâm hậu khác; khó mà định mức hay đo lường chiều hướng của tư tưởng. Dĩ nhiên; đời người là quá tŕnh đi từ A đến Z có thể coi đó là hiện hữu hầu hết của con người, được cải thiện chính người ta –trong hạn hữu xếp đặt bởi năng lực hợp thời vận với bản chất cố hữu hay c̣n gọi là cục bộ, một cục bộ cứng nhắc và đông cứng, là mực độ đánh giá trong vai tṛ, nhiệm vụ; đấy là điều khó khăn để hoàn thiện dù cho có thể mong ước được để thực hiện. Mục đích con người là tiếp tục mưu cầu một cái ǵ to lớn (gần như bành trướng) trong ṿng quay vũ trụ, mà tuồng như không thấy nơi chúng ta có mục đích trong tất cả cảm thức ở chúng ta –Human purposes are pursued within an immense circling universe which does not seem to us to have purpose, in our sense, at all. Vậy th́; đưa chứng cứ triết học để lư giải thiệt hơn là biện minh, có thể phù hợp, có thể là nghịch lư và không có nghĩa lư chính đáng dành cho lư lẽ triết học mà chỉ để lại ở đó một phân loại giai cấp của người ưa khoa trương, lư luận của đ̣i hỏi đổi mới tư duy: của t́nh yêu trí tuệ trong tinh thần của người nghệ sĩ –to be classed with the moralists and reformers: the love of wisdom, in the spirit of the artist. Tư tưởng gia được coi như người nghệ sĩ chân chính là biểu lộ và tôn vinh sự vĩnh cửu và không có chủ đích dành cho cuộc đời con người; mà dành cho tọa độ dưới nhăn quan của vũ-trụ-ư-thức, ở đó không thể tạo một h́nh ảnh (unimaginably) tốt như đă phát biểu mà coi đó là mục đích của toàn thể, là đại sự. Kỳ thực; nó không c̣n là vấn đề khó khăn để bày tỏ quan điểm cho mục đích mà là viễn cảnh để nh́n bên trong một âm vọng hả hê, thỏa măn (sounding smug) hoặc hiện ra ở đó con người ước mơ (wishful dreamer). Nhớ rằng; sự lư này không có nghĩa là tỏ những ǵ vừa ḷng đến chúng ta như dự phần vào, mà có từ những ǵ chúng ta đă làm. Cùng quan điểm đó; thời chúng ta đă nhận thức đúng đắng cho một sự bày tỏ của những ǵ thuộc kinh nghiệm bí ẩn với những ǵ kiểm chứng của luân lư đạo đức. Kinh nghiệm bí ẩn ở đây không kêu gọi đạo đức mà kêu gọi một ư thức vũ trụ một cách ‘lô-gic /logical’ cho sự kiện. Đây là lănh vực toàn diện của kinh nghiệm là có thể không nói thành lời –This sphere of experience is the unspeakable. Hẳn nhiên đây là nghĩa lư cần có không ǵ hơn; nó có tầm ảnh hưởng đến tâm lư tự nhiên cho những ǵ không thể cho đó là ư niện giản đơn, qua con số hay lời nói; mà đó là ‘hoạt đầu’ của những con người mưu lược đang đứng trước một bi kịch của hiện tại và tương lai; là một thách đố giữa trí tuệ và con người, nó không c̣n thuộc đơn vị cá thể hay tập đoàn mà nó đứng giữa một trọng tâm phán xét của vũ trụ ư thức. Nó độc lập cho một tư tưởng sinh tồn, nghĩa là không bị chi phối qua một mănh lực nào khác mà nó duy tŕ trong một dạng thức đồng thể để đi tới quyết định sống hay chết cho một tương lai trường cửu. Vậy ư thức vũ trụ đóng vai tṛ ǵ? -nó là một tổng thể hợp nhất giữa con người và xă hội.


Nói theo dạng thi ca th́ có thể khá hơn những ǵ luân lư không ‘lô-gíc hóa’ vấn đề, mà nó đi vào trong một siêu tưởng lư trí, nó gia nhập vào một ư thức vũ trụ để làm nên thi ca, bởi; thi ca nằm trong cảm thức bần cùng hóa của sở hữu cách. Nói ‘bần cùng hóa’ trong thi ca là ngữ ngôn đi từ không sang có, từ huyền thoại đến trừu tượng mà chỉ có thi ca chiếm hữu. Sự đó không nói đến khác biệt qua lời phát biểu của tham luận mà nêu chứng cớ cho một hiện hữu con người đang đối diện trước t́nh huống; sự đó nó nằm trong trí tuệ thuộc tư tưởng. Thời tất nó không c̣n là tư tưởng độc đoán. Chỉ có thi ca độc đoán v́ nó là ngữ ngôn ‘siêu lư’; nó gần giống như ‘lưỡi không xương nhiều đường lắc léo’. Ngược lại ư-thức-vũ-trụ là một xác quyết cụ thể nó không đi hàng hai. Bởi; nó đ̣i hỏi trí tuệ hiểu biết (của người có tŕnh độ). Dù không là thi ca trong cảm thức cải tiến của những ǵ tin vào chủ thuyết lư luận của cái sự bày vẻ và nói đến cái đẹp vô thức mà thôi –though not poetry in the improverished sense of the logical positivist, the sense of decorative and beautiful nonsense. Vị chi khi nói đến ư-thức-vũ-trụ là nhận-thức.


Lư do khác th́ đây là lối phát biểu có thể chuyên chở vào đó một vài điều không đúng như một hiện hữu nói đến. Thi hào Nguyễn Du ra công nhồi vào thi ca một cảm thức gần như khó khăn mới lột tả trọn vẹn nhân sinh quan của con người, cái sự đó gọi là ư thức vũ trụ là ra khỏi ḿnh mà những ǵ (có thể) chúng ta không cho đó là ‘lời nói / saying’ qui vào trong đó. Thí dụ: ‘làn thu thủy nét xuân sang’; thủy không không c̣n ở chính nó để có thể uống được –the word ‘water’ is not itself drinkable. Thi nhân đă không công thức hóa để làm thành ‘văn’ mà trong đó thi nhân đă h́nh dung từ trong qui luật không sắp xếp con chữ (law of nonidentity) để thành ‘thơ’; có thể cho là / is hay nó là không / it isn’t. Thí dụ khác: trong thơ của Du Tử Lê xử dụng chữ / word :‘Thủy ơi’ nó không c̣n là danh từ riêng mà lời / saying cho một sự đoái ḷng, một bản thể ta thán cho một nuối tiếc của khát khao. Thành ra từ chỗ đó nói có mà không, nói không mà có. Nhất là thi ca đă nghiễm nhiên trở thành ư-thức-vũ-trụ của hiện hữu con người. Vậy th́; những ǵ tỏ ra là yêu cầu hay đề nghị, là những ǵ đang nói về và những ǵ không thể nói nên lời; mà nó thuộc về thế giới của tâm sinh lư. Thời tâm sinh lư nó nằm trong dạng tiềm thức (subconscious) là một ẩn tàng khơi dậy từ trí năng để phát thành lời, cái này nó ở phạm vi hay nói văn hoa là phạm trù tư tưởng của ư-thức-vũ-trụ. –the sphere of ‘cosmic consciousness’. Hơi chi li! Nhưng; phải nói, cái điều không thể nói ra lời mà mượn ư diễn lời trong Đoạn Trường Tân Thanh là ư nghĩa của ngữ ngôn và sự biến đổi nghĩa của từ ngữ (semanticists). Lư cái sự này cho thấu đáo; th́ đó không thuộc chi về tinh thần cả mà trong cảm thức thông thường của trừu tượng hoặc của lư tưởng. Gọi ‘vũ trụ’ là hành tinh riêng biệt của trí tuệ, là một hiện thực có từ tự-thức bản thể (self-consciousness). Điều này có thể cho đó là một dung thông giữa niềm tin và cảm thức; cái đó gọi là cơ chế xă hội (the social organism) là tuyệt đối, nó tách khỏi cái bản ngă cá thế, coi như một xác quyết dứt khoát có từ một điều kiện thuận lợi đưa ra của tri nhận, tất nhiên; suy nghĩ đó phải loại bỏ, bằng không sự đó là ngoan cố cho một tư duy cố cựu.


Tuy nhiên; sự lư đă gây ra ấn tượng (impressed) bởi có sự khác biệt giữa trắng và đen, giữa chính nghĩa với xâm lược trong một biên giới thiên nhiên; điều chúng ta không quên rằng nghĩa vụ cao qúy là bảo vệ sự tương quan của đôi bên, nghĩa rằng những ǵ ở đó th́ đây chính là sự tương quan bất khả phân ly –and that this relation is inseparable! Cho nên chi nói hươu nói vượn không bằng chân chính sự thật. Nói rộng ra; hầu như có cái sự ngỡ ngàng hay gây ngạc nhiên qua nét đặc trưng trong kinh nghiêm (chính trị, văn hóa và kinh tế) hơn là kinh nghiệm thực tế xă hội, vô h́nh chung nó tạo nên một sự bất đồng giữa chính kiến và chính nghĩa. Chính nghĩa ở đây là sự lư ắt có và đủ; một bài toán phải giải rơ chớ không phải v́ con số vĩ đại mà xâm chiếm ‘không gươm dao’; đấy là thủ đoạn gậm nhấm, một thứ hoạt đầu chính trị. Đ̣i hỏi, yêu cầu là quyền sống (right); vị chi cái quyền đó là cái sự khắc khoải thông thường để trở nên một sự lố lăng, phi lư, nếu sự đó chỉ có con người nhận thấy th́ đó là những ǵ họ đi tới thỏa măn ngu si một cách lư thú. Từ những sắc tố đó để có một nhận định sáng suốt trước hỏa mù của mănh lực kim tiền; đ̣i hỏi chúng ta phải phân định thiệt hơn, nh́n thấy được hôm nay là nh́n thấy được ngày mai. Có thể lư luận này đưa tới phản đề hay phản biện (tư tưởng và hành động). Vậy th́; vai tṛ triết lư thủ diễn chức năng ǵ trên sân khấu cuộc đ̣i? Hỏi cái này tức thị không, sắc sắc không không là đứng ngoài ṿng cương tỏa của tri nhận. Nếu suy ra th́ triết học không c̣n lư luận vững chắc mà trở nên phi lư chủ nghĩa. Nếu thế là không đả thông tư tưởng mà hóa ra ṿng vo tam quốc chưa biết chi mô răng rứa mà trở nên hùa. Hùa là tệ đoan xă hội, một bệnh lư tâm thần trầm trọng. Để rồi đưa tới b́nh giải, phê b́nh vu vơ theo dạng ‘lập ngôn’ nghĩa là sao y chánh bản không làm mới cho một ư nghĩa thâm hậu của tác giả mà vượt rào, phá lệ, phá luật văn chương không coi đó là nền tảng của hiến chương văn hóa, bởi; không chịu cải cách hay cách mạng hóa tư tưởng; đóng khố muôn đời là vậy, đồng thời mất tính sáng tạo của những ǵ nói ra / saying .Triết học là hóa giải (chemically) chớ không lư giải để đi tới thống nhất tư tưởng. Ư thức vũ trụ không c̣n là ngữ ngôn trừu tượng, siêu h́nh mà là thực thể của con người đang đứng trước một kỹ nguyên ‘không gian’, là vượt thời gian để có một tổng thể qui nạp cho một lập trường dứt khoát. Triết học không đứng đơn lẻ trên ‘một thị trường không chứng khoán’ mà ngược lại nó gia nhập như một thành viên của con người và xă hội. Đ̣i hỏi của triết học là vượt thoát đúng nghĩa nhân sinh, đúng nghĩa của ư thức vũ trụ. Thực ra; hoàn toàn cách biệt, đôi phần khó khăn của cái gọi là liên đới, đây là vấn đề cảm xúc cực kỳ gian ác xấu xa và đau đớn; sự đó là vấn đề rất đầy đủ của sự xác quyết –This one; quite apart from the difficulty of relating this sensation to the problem of evil and pain, there is the question of the very meaning of assertion (!). Nói một cách khác: ‘Tất cả sẽ tốt đẹp, và tất cả sẽ tốt đẹp, và; tất cả thái độ hành xử của những ǵ sẽ là tốt đẹp’. Dịch như thế này sáng tỏ và đập mạnh vào ngữ ngôn của ư thức vũ trụ; may ra nó trở nên thời thượng: ‘all shall be well, and; all shall be well, and; all manner of thing shall be well’. Nói th́ hay vỗ tay th́ dở là ở chỗ đó. Không nên ‘nhũng lạm’ tư tưởng nhất là gieo vào đó một ư thức vũ trụ sai nghĩa. Thi văn nhân hiểu được cốt tủy của nó là đi vảo ‘chân không’. Đấy là những ǵ trọn nghĩa của dứt khoát để xác quyết vấn đề trước hiện t́nh; đó là kinh nghiệm ở tự nó. Ngoài những ǵ ra chỉ c̣n lại ư thức vũ trụ là nêu rơ vấn đề. Cũng có thể gây ra những ǵ trở ngại khó khăn của bước tiến tŕnh, ngay cả niềm tin mà trong đó là một sự tỏ bày hữu nghị không qua một kinh nghiệm thực tế. Kinh nghiệm là một tư duy hoàn toàn sáng tỏ, gọi chung nó là ư-thức-vũ-trụ, là vũ trụ xuyên sâu vào mọi nơi: t́nh yêu, con người và vật thể, và; trong cái sự bao gồm là sáng tạo được mạch sống trường cửu, nếu chúng ta đưa ra câu hỏi th́ liệu coi đây là h́nh ảnh của sự thật? Chúng ta trả lời thẳng không có những ǵ ngoài sự thật chân chính; sự thật luôn luôn nằm trong một sự liên đới (bên nhau) là mục đích mà chúng ta hướng tới. Trong sự thật nó vẫn tàng ẩn một thứ ma đầu, hiện nguyên h́nh của một cá tính ưa cắt lià, sang nhượng bất hợp pháp, bởi; nó là dấu mốc thời gian đă chốt vào đó, nó không thể biến thiên theo thời gian qui định. Sự thật của vũ trụ như h́ện ra một cá tính tách lià; đặc chất bởi thói tính xă hội gây nên và đánh mất mọi môi trường (schizophrenic) hoặc tư duy suy đồi đen tối (black depression) mà không nhận ra đó là hành trạng dành cho ư-thức-vũ-trụ. Trong mọi lư lẽ của sự thật đều phản ảnh qua lời nói dù là suy diễn vẫn không tránh khỏi sự thật; sự thật của giả dối qua ‘lời nói / saying’. Tuy nhiên; ở đây có thể có một sự tranh luận cho một sự thật trưởng thượng khinh khi của ‘vũ trụ’ kinh nghiệm –There is, however; a possible argument for the superior truth of ‘cosmic’ experience. Sở dĩ có cái sự cợt nhă cao ngảnh (superior) là để so sánh cái ngụ ư nói rằng khả năng làm việc c̣n non nớt (inferior). Sự đó hiển nhiên qua hành động và lời nói của những kẽ đốn mạt tư tưởng; đă không sáng thế mà sáng chế đưa tới diệt vong tư tưởng. Quan trọng là phải có cái nh́n nhận thức của ư thức vũ trụ thời may ra làm nên sự nghiệp vững chắc bằng không đó là hành tung ngu xuẩn tư tưởng. Cơ bản của ư thức vũ trụ là đơn giản; sự đó không có chi là cường điệu hay hệ thống thuộc khả năng mà đó là lối tự kiểm đầy đủ không đứng lại trong cuộc vận hành. Kiểm soát ở đây không có nghĩa ‘canh chừng’ mà là kềm giữ những hoạt động bất hợp pháp, bởi kiểm soát toàn diện có thể là kiểm soát ngăn ngừa, chận lại –complete control would be complete restraint, nghĩa là kiểm soát để hạ tầm quan trọng đang chuyển động, nếu chuyển động là điều kiện dành cho tất cả mọi tầng lớp th́ cái đó thuộc đại đồng chủ nghĩa là trên cả xă hội chủ nghĩa mà cọng-sản chỉ bước đầu của hành tŕnh đi vào vũ trụ đại đồng, tức nó đă chứa một chất liệu của ư-thức-vũ-trụ trong đó. Đấy là lư do để khước từ, là tổng thể ngăn chận trào lưu (restraint of movement) hoạt động; có nghĩa nhu cầu là tương đương trong yêu sách mong đợi. Canh chừng là yếu tố cần thiết khi phải đối đầu trước một hoàn cảnh thúc bách; sự đó là sở hữu chủ để đi tới quyết định của một tư tưởng thuộc ư thức vũ trụ: là quyền lợi cho tất cả (của cả nước).Thẩm quan qua tọa độ của viễn cảnh có thể là loại ra tất cả những ǵ sai trái, đi ngược nguyện vọng thời chắc chắn không thể coi đó là hợp lư cho một sự ngăn ngừa. Phần cồt tủy của kinh nghiệm ‘vũ trụ / cosmic’ là những ǵ hạn chế về ư thức đưa tới cảm nhận tôn vinh (ego-feeling), bởi; lư do dễ hiểu nó là phó-sản hạ tầng cơ sở không khai hóa mà nhồi vào đó niềm tin độc tôn. Sự này là thủ đoạn. Ấy là hậu họa cho một đất nước bị phong tỏa sự phát triển. Nguyên nhân chủ quan không chịu ‘Diên Hồng’ là gốc ngọn đưa tới thất bại văn hóa, chính trị, kinh tế và ngoại giao. Cả một hệ thống vô thức trong ư thức vũ trụ chủ nghĩa.

Đúc kết vấn đề là chỉnh lư toàn bộ tư tưởng để đi tới tư tưởng của ư thức vũ trụ. Xác định: ư-thức-vũ-trụ không phải là ngữ ngôn trừu tượng, siêu h́nh mà ngữ ngôn cấp tiến, hoán cải những ǵ cố cựu, giải phóng tư duy cục bộ để đi vào một ‘không gian’ đương đại phù hợp kỹ nguyên mà con nguời đang dự cuộc trước một nền khoa học trí thức, bằng không chúng ta đi lui trong lư luận cổ điển theo dạng thức từ chương tích cú, có nghĩa rằng chúng ta cầm giữ những ǵ cổ lỗ sĩ, tất chúng ta dậm chân tại chỗ trước thời đại tiên tiến. Chúng ta đă qua quá tŕnh đấu tranh là bài học thiết thực và kinh nghiệm để chỉnh đốn những ǵ đă đổ vỡ vô căn cớ, dựng lên những cái không đáng dựng làm suy thoái toàn bộ nền văn minh mà chúng ta vốn có. Mặc khác; đây là bằng chứng làm nên lịch sử (nhân loại). Chúng ta thành lập một chuyển động mới phù hợp với cảnh quang để thực hiện của những ǵ ngăn chận lại là tương đồng của niềm tin –on the other hand; movement and the release of restrait are the equivalent of faith. Cái mắc phải chính là ‘mắc lưới’ cho một nỗ lực của đấu tranh, tiêu hao sinh lực và lạm phát tiền bạc ở chính ḿnh, tất mất kiểm soát và trở nên thứ vô danh tiểu tốt –of commiting one-self to the uncontrolled and unknown! Thành ra; trong cái vô hạng đó có thể cho đó một ư nghĩa của hành vi bỏ rơi, thờ ơ (abandonment) ngay cả chính ḿnh đưa tới những lời bày tỏ ma giáo (utter caprice) để rồi cho là mọi thứ sẽ tốt đẹp và có quyền hạn –everything is right. Nhận thức như vậy là sai lầm trước nguyện vọng quần chúng mà phải hợp nhất, đồng thể để đạt tới kết quả hữu hiệu. Hẳn nhiên loại ra những ǵ tàn tích cổ lỗ sĩ, quả vậy; ở đây chúng ta khống chế những ǵ gọi là thẩm quyền là việc phải ngăn ngừa, chận lại sự nhũng lạm tư tưởng cố vị. Gọi ư thức vũ trụ là phần chủ lực của kinh nghiệm mà chúng ta đă trải qua, chúng ta nhận những bài học đau thương để ngày nay dứt khoát không phục hồi thứ tệ nạn xă hội có thể xảy ra một lần nữa như đă xẩy ra; tất chúng ta có lập trường trước một đối kháng vị dân sinh để tạo được một vận động cao trào và niềm tin (to movement and faith) cho tương lai. Đấy là nguyện vọng!


Cuối cùng thành lập ở đây một bản thể tự quyết. Thái độ của niềm tin đấy là cơ bản. Nhớ cho: thái độ của bôi bác là hèn yếu, là phó sản. Hai dạng này nó trở nên tàng tích hủ lậu, xưa như quả đất. Bỏ đi!


Bằng không nó không c̣n là cơ bản chính yếu cho tất cả những ǵ là thận trọng và kiểm soát với những ǵ thiết tha và kính cẩn của người làm nên sự nghiệp cá nhân và lịch sử. Yếu tố đó gọi chung là con- người- ư-thức-vũ-trụ. Đừng để những ǵ trở nên cuồng trí (insane), không âm vang (unsound) và những ǵ trong khi chúng ta đánh mất ư thức và cũng không thể nắm bắt được (ungraspable) của b́nh diện thế giới mà đó là nguyên lư căn bản, là những ǵ chúng ta đă được thừa nhận của vật thể và phi vật thể. Dữ kiện đó không phải là nét đặc trưng đáng kể mà là sự thể. Bất luận là ǵ, cho dù hoàn tất dưới khiá cạnh nào hay đạt nguyện vọng; tất thảy là giả tạo có ư xâm lược. Chỉ c̣n lại ư thức về t́nh yêu và niềm tin ./.



VƠ CÔNG LIÊM (ca.ab.yyc giữa tháng 6/2018).



 

trang vơ công liêm

art2all.net