Ngỏ: Đây là luận văn
có tính chất lư luân theo phương
hướng triết học, tŕnh bày và đả
thông tư tưởng với những người
làm văn hóa, chính trị, ngoại
giao và kinh tế là trọng tâm
được nói đến như một bày tỏ
trung thực; không giáo điều,
không từ chương mà đứng trên lập
trường nhất thể: bất vụ lợi, bất
phân ly dựng vào đó một cấu trúc
thuộc tư tưởng hiện đại để thực
hiện cho một lư tưởng hướng tới
. (vcl).
Xưa
nay người ta thường nói ư thức
(consciousness) dành cho con
người, một ư thức sáng suốt gọi
là trí-tuệ, c̣n nói vô thức
(unconsciousness) là một ư thức
ngoài ṿng cương tỏa của con
người, nó thuộc về sinh lư; thời
tất không ai gọi vô thức là trí
tuệ mà có thể là một trí tuệ ở
cơi ngoài hay tầm xa, có thể là
một tài năng vượt trội hơn cả
(transcendent genius). Rất hiếm
trên cơi đời này. Từ chỗ đó; nếu
rút tiả kinh nghiệm về ư thức
của trí tuệ hay cơi ngoài là nó
nằm trong trục ‘ư thức vũ trụ’,
là cái sự không thể nói thành
lời; đấy là sự thật –If the
experience of ‘cosmic
consciousness’ is unspeakable;
it is true…có nghĩa rằng nó nằm
trong một nỗ lực đưa tới tuyệt
đối của từ ngữ, một thứ từ ngữ
‘để nói / saying’, bất luận
trong một cảm thức nào, ngay cả
cảm thức nhạy bén đến bất ngờ;
nó chuyên chở từ ‘trí tuệ’ hiện
hữu như một thông tin hoặc tạo
một đề xuất (ư kiến) cho vấn đề
hay dữ kiện. Nói chung là phát
biểu. Thí dụ: chính trị gia phát
biểu qua lời nói / saying trong
cảm thức nhận thấy của sự kiện
chớ chưa nhận thức sự kiện chính
đáng hay không chính đáng; vô
h́nh chung nó trở nên vô nghĩa /
nonsense đi tới ngu xuẩn trong
lời nói (saying) để trở nên vô
thức; nó không hợp nhất, tất
không thể cho đó là
ư-thức-vũ-trụ. Lối phát biểu đó
qua tư duy vị ngă hơn ư thức
nhận biết, một tư duy suy thoái
không nhận ra sự kiện về sau.
Nhất là ở khung cảnh ‘thiên
nhiên’ hiện nay là thứ vô-thức
không nằm trong ư-thức-vũ-trụ tự
nhiên.
Phát biểu là bày tỏ, bộc lộ như thể kinh nghiệm tợ một báo cáo, một phán quyết –The speech expressing such an experience is more like an exclamation. Sự đó là ‘rống’ cho được việc, chớ nó không đem lại một hiện hữu của lời nói mà là tiếng nói vô bổ chưa ư thức sự kiện diễn tiến của hậu vận.
Đứng trên lập trường triết học
để phân tích ngữ ngôn của cái
gọi là ‘lời nói / saying’ th́
lại khác, bởi; nó hàm chứa một
tư duy củng cố -giữa phi vật thể
và hiện thể- hoàn toàn khác nhau
tuy cùng trong một nghĩa của ư
thức. Ư thức đó không thích nghi
hoàn cảnh hiện đại của thế kỷ
ngày nay; lời nói nó phát ra từ
trí tuệ là một tổng thể giữa con
người và vũ trụ, tiếng nói phổ
biến, kết hợp và giao duyên
trong sự lư chính nghĩa, đó là ư
thức vũ trụ không c̣n của riêng
mà của chung của một tập thể đại
đồng chủ nghĩa.
Lư sự này có phần bí tỉ chưa
sáng tỏ vấn đề hoặc chủ quan tư
tưởng mà không nhận ra trong lời
nói nó có một tư duy thâm hậu
khác; khó mà định mức hay đo
lường chiều hướng của tư tưởng.
Dĩ nhiên; đời người là quá tŕnh
đi từ A đến Z có thể coi đó là
hiện hữu hầu hết của con người,
được cải thiện chính người ta
–trong hạn hữu xếp đặt bởi năng
lực hợp thời vận với bản chất cố
hữu hay c̣n gọi là cục bộ, một
cục bộ cứng nhắc và đông cứng,
là mực độ đánh giá trong vai
tṛ, nhiệm vụ; đấy là điều khó
khăn để hoàn thiện dù cho có thể
mong ước được để thực hiện. Mục
đích con người là tiếp tục mưu
cầu một cái ǵ to lớn (gần như
bành trướng) trong ṿng quay vũ
trụ, mà tuồng như không thấy nơi
chúng ta có mục đích trong tất
cả cảm thức ở chúng ta –Human
purposes are pursued within an
immense circling universe which
does not seem to us to have
purpose, in our sense, at all.
Vậy th́; đưa chứng cứ triết học
để lư giải thiệt hơn là biện
minh, có thể phù hợp, có thể là
nghịch lư và không có nghĩa lư
chính đáng dành cho lư lẽ triết
học mà chỉ để lại ở đó một phân
loại giai cấp của người ưa khoa
trương, lư luận của đ̣i hỏi đổi
mới tư duy: của t́nh yêu trí tuệ
trong tinh thần của người nghệ
sĩ –to be classed with the
moralists and reformers: the
love of wisdom, in the spirit of
the artist. Tư tưởng gia được
coi như người nghệ sĩ chân chính
là biểu lộ và tôn vinh sự vĩnh
cửu và không có chủ đích dành
cho cuộc đời con người; mà dành
cho tọa độ dưới nhăn quan của
vũ-trụ-ư-thức, ở đó không thể
tạo một h́nh ảnh (unimaginably)
tốt như đă phát biểu mà coi đó
là mục đích của toàn thể, là đại
sự. Kỳ thực; nó không c̣n là vấn
đề khó khăn để bày tỏ quan điểm
cho mục đích mà là viễn cảnh để
nh́n bên trong một âm vọng hả
hê, thỏa măn (sounding smug)
hoặc hiện ra ở đó con người ước
mơ (wishful dreamer). Nhớ rằng;
sự lư này không có nghĩa là tỏ
những ǵ vừa ḷng đến chúng ta
như dự phần vào, mà có từ những
ǵ chúng ta đă làm. Cùng quan
điểm đó; thời chúng ta đă nhận
thức đúng đắng cho một sự bày tỏ
của những ǵ thuộc kinh nghiệm
bí ẩn với những ǵ kiểm chứng
của luân lư đạo đức. Kinh nghiệm
bí ẩn ở đây không kêu gọi đạo
đức mà kêu gọi một ư thức vũ trụ
một cách ‘lô-gic /logical’ cho
sự kiện. Đây là lănh vực toàn
diện của kinh nghiệm là có thể
không nói thành lời –This sphere
of experience is the
unspeakable. Hẳn nhiên đây là
nghĩa lư cần có không ǵ hơn; nó
có tầm ảnh hưởng đến tâm lư tự
nhiên cho những ǵ không thể cho
đó là ư niện giản đơn, qua con
số hay lời nói; mà đó là ‘hoạt
đầu’ của những con người mưu
lược đang đứng trước một bi kịch
của hiện tại và tương lai; là
một thách đố giữa trí tuệ và con
người, nó không c̣n thuộc đơn vị
cá thể hay tập đoàn mà nó đứng
giữa một trọng tâm phán xét của
vũ trụ ư thức. Nó độc lập cho
một tư tưởng sinh tồn, nghĩa là
không bị chi phối qua một mănh
lực nào khác mà nó duy tŕ trong
một dạng thức đồng thể để đi tới
quyết định sống hay chết cho một
tương lai trường cửu. Vậy ư thức
vũ trụ đóng vai tṛ ǵ? -nó là
một tổng thể hợp nhất giữa con
người và xă hội.
Nói theo dạng thi ca th́ có thể
khá hơn những ǵ luân lư không
‘lô-gíc hóa’ vấn đề, mà nó đi
vào trong một siêu tưởng lư trí,
nó gia nhập vào một ư thức vũ
trụ để làm nên thi ca, bởi; thi
ca nằm trong cảm thức bần cùng
hóa của sở hữu cách. Nói ‘bần
cùng hóa’ trong thi ca là ngữ
ngôn đi từ không sang có, từ
huyền thoại đến trừu tượng mà
chỉ có thi ca chiếm hữu. Sự đó
không nói đến khác biệt qua lời
phát biểu của tham luận mà nêu
chứng cớ cho một hiện hữu con
người đang đối diện trước t́nh
huống; sự đó nó nằm trong trí
tuệ thuộc tư tưởng. Thời tất nó
không c̣n là tư tưởng độc đoán.
Chỉ có thi ca độc đoán v́ nó là
ngữ ngôn ‘siêu lư’; nó gần giống
như ‘lưỡi không xương nhiều
đường lắc léo’. Ngược lại
ư-thức-vũ-trụ là một xác quyết
cụ thể nó không đi hàng hai.
Bởi; nó đ̣i hỏi trí tuệ hiểu
biết (của người có tŕnh độ). Dù
không là thi ca trong cảm thức
cải tiến của những ǵ tin vào
chủ thuyết lư luận của cái sự
bày vẻ và nói đến cái đẹp vô
thức mà thôi –though not poetry
in the improverished sense of
the logical positivist, the
sense of decorative and
beautiful nonsense. Vị chi khi
nói đến ư-thức-vũ-trụ là
nhận-thức.
Lư do khác th́ đây là lối phát
biểu có thể chuyên chở vào đó
một vài điều không đúng như một
hiện hữu nói đến. Thi hào Nguyễn
Du ra công nhồi vào thi ca một
cảm thức gần như khó khăn mới
lột tả trọn vẹn nhân sinh quan
của con người, cái sự đó gọi là
ư thức vũ trụ là ra khỏi ḿnh mà
những ǵ (có thể) chúng ta không
cho đó là ‘lời nói / saying’ qui
vào trong đó. Thí dụ: ‘làn thu
thủy nét xuân sang’; thủy không
không c̣n ở chính nó để có thể
uống được –the word ‘water’ is
not itself drinkable. Thi nhân
đă không công thức hóa để làm
thành ‘văn’ mà trong đó thi nhân
đă h́nh dung từ trong qui luật
không sắp xếp con chữ (law of
nonidentity) để thành ‘thơ’; có
thể cho là / is hay nó là không
/ it isn’t. Thí dụ khác: trong
thơ của Du Tử Lê xử dụng chữ /
word :‘Thủy ơi’ nó không c̣n là
danh từ riêng mà lời / saying
cho một sự đoái ḷng, một bản
thể ta thán cho một nuối tiếc
của khát khao. Thành ra từ chỗ
đó nói có mà không, nói không mà
có. Nhất là thi ca đă nghiễm
nhiên trở thành ư-thức-vũ-trụ
của hiện hữu con người. Vậy th́;
những ǵ tỏ ra là yêu cầu hay đề
nghị, là những ǵ đang nói về và
những ǵ không thể nói nên lời;
mà nó thuộc về thế giới của tâm
sinh lư. Thời tâm sinh lư nó nằm
trong dạng tiềm thức
(subconscious) là một ẩn tàng
khơi dậy từ trí năng để phát
thành lời, cái này nó ở phạm vi
hay nói văn hoa là phạm trù tư
tưởng của ư-thức-vũ-trụ. –the
sphere of ‘cosmic
consciousness’. Hơi chi li!
Nhưng; phải nói, cái điều không
thể nói ra lời mà mượn ư diễn
lời trong Đoạn Trường Tân Thanh
là ư nghĩa của ngữ ngôn và sự
biến đổi nghĩa của từ ngữ
(semanticists). Lư cái sự này
cho thấu đáo; th́ đó không thuộc
chi về tinh thần cả mà trong cảm
thức thông thường của trừu tượng
hoặc của lư tưởng. Gọi ‘vũ trụ’
là hành tinh riêng biệt của trí
tuệ, là một hiện thực có từ
tự-thức bản thể
(self-consciousness). Điều này
có thể cho đó là một dung thông
giữa niềm tin và cảm thức; cái
đó gọi là cơ chế xă hội (the
social organism) là tuyệt đối,
nó tách khỏi cái bản ngă cá thế,
coi như một xác quyết dứt khoát
có từ một điều kiện thuận lợi
đưa ra của tri nhận, tất nhiên;
suy nghĩ đó phải loại bỏ, bằng
không sự đó là ngoan cố cho một
tư duy cố cựu.
Tuy nhiên; sự lư đă gây ra ấn
tượng (impressed) bởi có sự khác
biệt giữa trắng và đen, giữa
chính nghĩa với xâm lược trong
một biên giới thiên nhiên; điều
chúng ta không quên rằng nghĩa
vụ cao qúy là bảo vệ sự tương
quan của đôi bên, nghĩa rằng
những ǵ ở đó th́ đây chính là
sự tương quan bất khả phân ly
–and that this relation is
inseparable! Cho nên chi nói
hươu nói vượn không bằng chân
chính sự thật. Nói rộng ra; hầu
như có cái sự ngỡ ngàng hay gây
ngạc nhiên qua nét đặc trưng
trong kinh nghiêm (chính trị,
văn hóa và kinh tế) hơn là kinh
nghiệm thực tế xă hội, vô h́nh
chung nó tạo nên một sự bất đồng
giữa chính kiến và chính nghĩa.
Chính nghĩa ở đây là sự lư ắt có
và đủ; một bài toán phải giải rơ
chớ không phải v́ con số vĩ đại
mà xâm chiếm ‘không gươm dao’;
đấy là thủ đoạn gậm nhấm, một
thứ hoạt đầu chính trị. Đ̣i hỏi,
yêu cầu là quyền sống (right);
vị chi cái quyền đó là cái sự
khắc khoải thông thường để trở
nên một sự lố lăng, phi lư, nếu
sự đó chỉ có con người nhận thấy
th́ đó là những ǵ họ đi tới
thỏa măn ngu si một cách lư thú.
Từ những sắc tố đó để có một
nhận định sáng suốt trước hỏa mù
của mănh lực kim tiền; đ̣i hỏi
chúng ta phải phân định thiệt
hơn, nh́n thấy được hôm nay là
nh́n thấy được ngày mai. Có thể
lư luận này đưa tới phản đề hay
phản biện (tư tưởng và hành
động). Vậy th́; vai tṛ triết lư
thủ diễn chức năng ǵ trên sân
khấu cuộc đ̣i? Hỏi cái này tức
thị không, sắc sắc không không
là đứng ngoài ṿng cương tỏa của
tri nhận. Nếu suy ra th́ triết
học không c̣n lư luận vững chắc
mà trở nên phi lư chủ nghĩa. Nếu
thế là không đả thông tư tưởng
mà hóa ra ṿng vo tam quốc chưa
biết chi mô răng rứa mà trở nên
hùa. Hùa là tệ đoan xă hội, một
bệnh lư tâm thần trầm trọng. Để
rồi đưa tới b́nh giải, phê b́nh
vu vơ theo dạng ‘lập ngôn’ nghĩa
là sao y chánh bản không làm mới
cho một ư nghĩa thâm hậu của tác
giả mà vượt rào, phá lệ, phá
luật văn chương không coi đó là
nền tảng của hiến chương văn
hóa, bởi; không chịu cải cách
hay cách mạng hóa tư tưởng; đóng
khố muôn đời là vậy, đồng thời
mất tính sáng tạo của những ǵ
nói ra / saying .Triết học là
hóa giải (chemically) chớ không
lư giải để đi tới thống nhất tư
tưởng. Ư thức vũ trụ không c̣n
là ngữ ngôn trừu tượng, siêu
h́nh mà là thực thể của con
người đang đứng trước một kỹ
nguyên ‘không gian’, là vượt
thời gian để có một tổng thể qui
nạp cho một lập trường dứt
khoát. Triết học không đứng đơn
lẻ trên ‘một thị trường không
chứng khoán’ mà ngược lại nó gia
nhập như một thành viên của con
người và xă hội. Đ̣i hỏi của
triết học là vượt thoát đúng
nghĩa nhân sinh, đúng nghĩa của
ư thức vũ trụ. Thực ra; hoàn
toàn cách biệt, đôi phần khó
khăn của cái gọi là liên đới,
đây là vấn đề cảm xúc cực kỳ
gian ác xấu xa và đau đớn; sự đó
là vấn đề rất đầy đủ của sự xác
quyết –This one; quite apart
from the difficulty of relating
this sensation to the problem of
evil and pain, there is the
question of the very meaning of
assertion (!). Nói một cách
khác: ‘Tất cả sẽ tốt đẹp, và tất
cả sẽ tốt đẹp, và; tất cả thái
độ hành xử của những ǵ sẽ là
tốt đẹp’. Dịch như thế này sáng
tỏ và đập mạnh vào ngữ ngôn của
ư thức vũ trụ; may ra nó trở nên
thời thượng: ‘all shall be well,
and; all shall be well, and; all
manner of thing shall be well’.
Nói th́ hay vỗ tay th́ dở là ở
chỗ đó. Không nên ‘nhũng lạm’ tư
tưởng nhất là gieo vào đó một ư
thức vũ trụ sai nghĩa. Thi văn
nhân hiểu được cốt tủy của nó là
đi vảo ‘chân không’. Đấy là
những ǵ trọn nghĩa của dứt
khoát để xác quyết vấn đề trước
hiện t́nh; đó là kinh nghiệm ở
tự nó. Ngoài những ǵ ra chỉ c̣n
lại ư thức vũ trụ là nêu rơ vấn
đề. Cũng có thể gây ra những ǵ
trở ngại khó khăn của bước tiến
tŕnh, ngay cả niềm tin mà trong
đó là một sự tỏ bày hữu nghị
không qua một kinh nghiệm thực
tế. Kinh nghiệm là một tư duy
hoàn toàn sáng tỏ, gọi chung nó
là ư-thức-vũ-trụ, là vũ trụ
xuyên sâu vào mọi nơi: t́nh yêu,
con người và vật thể, và; trong
cái sự bao gồm là sáng tạo được
mạch sống trường cửu, nếu chúng
ta đưa ra câu hỏi th́ liệu coi
đây là h́nh ảnh của sự thật?
Chúng ta trả lời thẳng không có
những ǵ ngoài sự thật chân
chính; sự thật luôn luôn nằm
trong một sự liên đới (bên nhau)
là mục đích mà chúng ta hướng
tới. Trong sự thật nó vẫn tàng
ẩn một thứ ma đầu, hiện nguyên
h́nh của một cá tính ưa cắt lià,
sang nhượng bất hợp pháp, bởi;
nó là dấu mốc thời gian đă chốt
vào đó, nó không thể biến thiên
theo thời gian qui định. Sự thật
của vũ trụ như h́ện ra một cá
tính tách lià; đặc chất bởi thói
tính xă hội gây nên và đánh mất
mọi môi trường (schizophrenic)
hoặc tư duy suy đồi đen tối
(black depression) mà không nhận
ra đó là hành trạng dành cho
ư-thức-vũ-trụ. Trong mọi lư lẽ
của sự thật đều phản ảnh qua lời
nói dù là suy diễn vẫn không
tránh khỏi sự thật; sự thật của
giả dối qua ‘lời nói / saying’.
Tuy nhiên; ở đây có thể có một
sự tranh luận cho một sự thật
trưởng thượng khinh khi của ‘vũ
trụ’ kinh nghiệm –There is,
however; a possible argument for
the superior truth of ‘cosmic’
experience. Sở dĩ có cái sự cợt
nhă cao ngảnh (superior) là để
so sánh cái ngụ ư nói rằng khả
năng làm việc c̣n non nớt
(inferior). Sự đó hiển nhiên qua
hành động và lời nói của những
kẽ đốn mạt tư tưởng; đă không
sáng thế mà sáng chế đưa tới
diệt vong tư tưởng. Quan trọng
là phải có cái nh́n nhận thức
của ư thức vũ trụ thời may ra
làm nên sự nghiệp vững chắc bằng
không đó là hành tung ngu xuẩn
tư tưởng. Cơ bản của ư thức vũ
trụ là đơn giản; sự đó không có
chi là cường điệu hay hệ thống
thuộc khả năng mà đó là lối tự
kiểm đầy đủ không đứng lại trong
cuộc vận hành. Kiểm soát ở đây
không có nghĩa ‘canh chừng’ mà
là kềm giữ những hoạt động bất
hợp pháp, bởi kiểm soát toàn
diện có thể là kiểm soát ngăn
ngừa, chận lại –complete control
would be complete restraint,
nghĩa là kiểm soát để hạ tầm
quan trọng đang chuyển động, nếu
chuyển động là điều kiện dành
cho tất cả mọi tầng lớp th́ cái
đó thuộc đại đồng chủ nghĩa là
trên cả xă hội chủ nghĩa mà
cọng-sản chỉ bước đầu của hành
tŕnh đi vào vũ trụ đại đồng,
tức nó đă chứa một chất liệu của
ư-thức-vũ-trụ trong đó. Đấy là
lư do để khước từ, là tổng thể
ngăn chận trào lưu (restraint of
movement) hoạt động; có nghĩa
nhu cầu là tương đương trong yêu
sách mong đợi. Canh chừng là yếu
tố cần thiết khi phải đối đầu
trước một hoàn cảnh thúc bách;
sự đó là sở hữu chủ để đi tới
quyết định của một tư tưởng
thuộc ư thức vũ trụ: là quyền
lợi cho tất cả (của cả
nước).Thẩm quan qua tọa độ của
viễn cảnh có thể là loại ra tất
cả những ǵ sai trái, đi ngược
nguyện vọng thời chắc chắn không
thể coi đó là hợp lư cho một sự
ngăn ngừa. Phần cồt tủy của kinh
nghiệm ‘vũ trụ / cosmic’ là
những ǵ hạn chế về ư thức đưa
tới cảm nhận tôn vinh
(ego-feeling), bởi; lư do dễ
hiểu nó là phó-sản hạ tầng cơ sở
không khai hóa mà nhồi vào đó
niềm tin độc tôn. Sự này là thủ
đoạn. Ấy là hậu họa cho một đất
nước bị phong tỏa sự phát triển.
Nguyên nhân chủ quan không chịu
‘Diên Hồng’ là gốc ngọn đưa tới
thất bại văn hóa, chính trị,
kinh tế và ngoại giao. Cả một hệ
thống vô thức trong ư thức vũ
trụ chủ nghĩa.
Đúc kết vấn đề là chỉnh lư toàn
bộ tư tưởng để đi tới tư tưởng
của ư thức vũ trụ. Xác định:
ư-thức-vũ-trụ không phải là ngữ
ngôn trừu tượng, siêu h́nh mà
ngữ ngôn cấp tiến, hoán cải
những ǵ cố cựu, giải phóng tư
duy cục bộ để đi vào một ‘không
gian’ đương đại phù hợp kỹ
nguyên mà con nguời đang dự cuộc
trước một nền khoa học trí thức,
bằng không chúng ta đi lui trong
lư luận cổ điển theo dạng thức
từ chương tích cú, có nghĩa rằng
chúng ta cầm giữ những ǵ cổ lỗ
sĩ, tất chúng ta dậm chân tại
chỗ trước thời đại tiên tiến.
Chúng ta đă qua quá tŕnh đấu
tranh là bài học thiết thực và
kinh nghiệm để chỉnh đốn những
ǵ đă đổ vỡ vô căn cớ, dựng lên
những cái không đáng dựng làm
suy thoái toàn bộ nền văn minh
mà chúng ta vốn có. Mặc khác;
đây là bằng chứng làm nên lịch
sử (nhân loại). Chúng ta thành
lập một chuyển động mới phù hợp
với cảnh quang để thực hiện của
những ǵ ngăn chận lại là tương
đồng của niềm tin –on the other
hand; movement and the release
of restrait are the equivalent
of faith. Cái mắc phải chính là
‘mắc lưới’ cho một nỗ lực của
đấu tranh, tiêu hao sinh lực và
lạm phát tiền bạc ở chính ḿnh,
tất mất kiểm soát và trở nên thứ
vô danh tiểu tốt –of commiting
one-self to the uncontrolled and
unknown! Thành ra; trong cái vô
hạng đó có thể cho đó một ư
nghĩa của hành vi bỏ rơi, thờ ơ
(abandonment) ngay cả chính ḿnh
đưa tới những lời bày tỏ ma giáo
(utter caprice) để rồi cho là
mọi thứ sẽ tốt đẹp và có quyền
hạn –everything is right. Nhận
thức như vậy là sai lầm trước
nguyện vọng quần chúng mà phải
hợp nhất, đồng thể để đạt tới
kết quả hữu hiệu. Hẳn nhiên loại
ra những ǵ tàn tích cổ lỗ sĩ,
quả vậy; ở đây chúng ta khống
chế những ǵ gọi là thẩm quyền
là việc phải ngăn ngừa, chận lại
sự nhũng lạm tư tưởng cố vị. Gọi
ư thức vũ trụ là phần chủ lực
của kinh nghiệm mà chúng ta đă
trải qua, chúng ta nhận những
bài học đau thương để ngày nay
dứt khoát không phục hồi thứ tệ
nạn xă hội có thể xảy ra một lần
nữa như đă xẩy ra; tất chúng ta
có lập trường trước một đối
kháng vị dân sinh để tạo được
một vận động cao trào và niềm
tin (to movement and faith) cho
tương lai. Đấy là nguyện vọng!
Cuối cùng thành lập ở đây một
bản thể tự quyết. Thái độ của
niềm tin đấy là cơ bản. Nhớ cho:
thái độ của bôi bác là hèn yếu,
là phó sản. Hai dạng này nó trở
nên tàng tích hủ lậu, xưa như
quả đất. Bỏ đi!
Bằng không nó không c̣n là cơ
bản chính yếu cho tất cả những
ǵ là thận trọng và kiểm soát
với những ǵ thiết tha và kính
cẩn của người làm nên sự nghiệp
cá nhân và lịch sử. Yếu tố đó
gọi chung là con- người-
ư-thức-vũ-trụ. Đừng để những ǵ
trở nên cuồng trí (insane),
không âm vang (unsound) và những
ǵ trong khi chúng ta đánh mất ư
thức và cũng không thể nắm bắt
được (ungraspable) của b́nh diện
thế giới mà đó là nguyên lư căn
bản, là những ǵ chúng ta đă
được thừa nhận của vật thể và
phi vật thể. Dữ kiện đó không
phải là nét đặc trưng đáng kể mà
là sự thể. Bất luận là ǵ, cho
dù hoàn tất dưới khiá cạnh nào
hay đạt nguyện vọng; tất thảy là
giả tạo có ư xâm lược. Chỉ c̣n
lại ư thức về t́nh yêu và niềm
tin ./.
VƠ CÔNG LIÊM (ca.ab.yyc
giữa tháng 6/2018).