TƯƠNG KIẾN TH̀ NAN MỐI T̀NH ĐẠO CÔ VỚI THI KHÁCH TÀI HOA
Nàng là
đạo cô xinh đẹp, chàng là thi khách tài hoa. Với dung nhan thánh khiết
và tấm ḷng chân thiện, nàng đă cuốn hút tâm hồn chàng vào trong vực
thẳm của t́nh yêu. Chỉ lần đầu gặp gỡ, con tim chàng đă trúng phải tiếng
sét ái t́nh. Sau vài tháng quen biết tṛ chuyện thơ văn, cùng nhau dạo
khúc tri tâm, ḷng của nàng vốn yên ả như nước hồ thu, đă bắt đầu dần
dần khuấy động. Đạo tâm nàng vốn sớm gửi ngoài ṿng thế tục đă lung lay
theo tiếng gọi t́nh yêu trước mối thâm t́nh của chàng. Trong tim nàng vừa chớm nở đóa hoa t́nh ái, th́ bị sư phụ của nàng, vị nữ đạo trưởng lạnh lùng, trang nghiêm phát hiện. Sư phụ cấm không cho nàng gặp mặt chàng, c̣n chàng th́ không được chào đón tại đạo quán nữa. Cặp t́nh nhân vừa mới bắt đầu vào cuộc yêu đương, th́ không c̣n cơ hội gặp nhau. Chàng đau buồn, đêm thức trắng, ngắm vầng trăng lạnh lẽo, mà thương nhớ người yêu. Nh́n sáp chảy từ ngọn nến đang cháy giữa canh khuya, mà tưởng như ḷng ḿnh đang nhỏ những giọt lệ u sầu.
Gió xuân tươi mát đem sức sống đến cho ngàn hoa. Gió
xuân không thể đến, (đông phong vô lực) ngàn hoa rồi cũng úa tàn. Chàng
như ngọn gió xuân, nàng như hoa, chàng không thể đến gặp nàng, chàng
không đủ năng lực để cho hai người chung sống bên nhau, th́ niềm hy vọng
của nàng cho hạnh phúc tương lai, những kỷ niệm bên nhau và t́nh cảm của
nàng dành cho chàng rồi cũng phai tàn theo năm tháng. (“bách hoa tàn”).
Nhưng dù như thế nào, ḷng của chàng trước sau như một, vẫn sẽ yêu nàng
đến khi tàn hơi (xuân tàm đáo tử, ti phương tận). Ôi, giữa đêm khuya trắng giấc, chàng ngắm vầng trăng cô quạnh giữa trời cao, mà cảm thương cho ḿnh và nàng không được ở bên nhau. Nỗi đau ḷng khơi ḍng tâm lệ nhỏ xuống thành một bài thơ vô đề, lưu truyền đến ngàn sau.
Sau đây là thi phẩm “Vô Đề (Tương Kiến Th́ Nan…)”
của danh sĩ Lư Thương Ẩn, sinh trong thời nhà Đường bên Trung Quốc. Lư
Thương Ẩn sáng tác nhiều bài thơ vô đề; v́ để dễ phân biệt, thường có
thêm một cụm từ hoặc nguyên câu thơ đầu vào tựa đề. Truyện Kiều có câu 'con
tằm đến thác hăy c̣n vương tơ', nghe như ca dao, nhưng thực ra là
bản dịch một câu thơ trong thi phẩm này. Nguyên Tác của Lư Thương Ẩn:
無題(相見時難別亦難) 相見時難別亦難, 東風無力百花殘。 春蠶到死絲方盡, 蠟炬成灰淚始幹。 曉鏡但愁雲鬢改, 夜吟應覺月光寒。 蓬萊此去無多路, 青鳥殷勤為探看
Phiên Âm Hán Việt: Vô Đề (Tương Kiến Th́ Nan Biệt Diệc Nan)
Tương kiến th́ nan, biệt diệc nan Đông phong vô lực, bách hoa tàn Xuân tàm đáo tử, ti phương tận Lạp cự thành hôi, lệ thủy can Hiểu kính đăn sầu vân mấn cải Dạ ngâm ưng giác nguyệt quang hàn Bồng sơn thử khứ vô đa lộ Thanh điểu ân cần vị thám khan
Bản dịch của Vương Thanh: Vô Đề (Gặp Nhau Khó, Xa Nhau Cũng Khó)
Khó được gặp nhau, cũng khó xa Gió xuân chi để úa ngàn hoa Con tằm đến chết, tơ chưa dứt Ngọn nến thành tro, lệ hết nḥa Sáng ngắm gương soi buồn tóc bạc Đêm ngâm thơ lạnh bóng trăng tà Bồng sơn đường đến đâu bao nẻo
Nhờ cánh chim xanh hỏi giúp ta Bản dịch tiếng Anh của Vương Thanh: Untitled Poem (Seeing her is difficult; parting even more so)
Seeing her is difficult; parting even more so. The spring wind unable to visit the flowers, flowers become withered. Spring silkworms spin silk threads till their last breath. Till wax candles melt to ashes, their tears still not dry. Gazing in the morning mirror, I grieve for my greying hair; Reciting poetry at night, I feel the chill of the moonlight. There aren't many roads to the Fairy Mountain Abode,
Blue bird of love, please earnestly search and
inquire the path for me.
Bản dịch nghĩa:
câu 1. Tương kiến th́ nan, biệt diệc nan Gặp nhau khó, xa nhau cũng khó
câu 2. Đông phong vô lực, bách hoa tàn Gió xuân (đông phong) không đủ sức, khiến cho trăm hoa úa tàn. (Bàn luận: Đông phong tuy là gió hướng đông nhưng thực ra là gió mùa xuân. Muốn nói gió mùa đông lạnh lẽo th́ dùng từ “bắc phong”; gió mùa thu là “thu phong” hay “kim phong”, c̣n mùa hạ là “hạ phong”. Có khi “đông phong” dịch thành “gió đông” th́ nghe hay hơn là “gió xuân”, ví dụ cho câu “Đông phong bất dữ Chu Lang tiện / Đồng tước xuân tâm tỏa nhị Kiều” ( “Gió đông ví phụ Chu Lang / Một nền Đồng Tước khóa xuân hai Kiều” – Nam Trân). Câu thơ này là ẩn dụ, “gió xuân không đủ sức”, tôi nghĩ là biểu tượng cho thi nhân, c̣n “trăm hoa úa tàn” là biểu tượng cho sự tàn phai của niềm hy vọng được sống bên nhau, tàn phai những kỷ niệm bên nhau, v.v. )
câu 3. Xuân tàm đáo tử, ti phương tận Tằm xuân cho đến chết, tơ mới hết. (Khi dịch qua thơ tiếng Việt, tôi đổi chữ “mới” thành chữ “chưa” cho thích hợp với văn chương Việt và ư cảnh của nguyên tác. Cho đến khi chết hăy c̣n lưu luyến, tơ ḷng hăy c̣n chưa dứt.)
câu 4. Lạp cự thành hôi, lệ thủy can Ngọn nến thành tro, lệ (lệ nến, sáp chảy như ḍng lệ) mới khô
câu 5. Hiểu kính đăn sầu vân mấn cải Sáng sớm soi gương, buồn cho tóc mây thay đổi
câu 6. Dạ ngâm ưng giác nguyệt quang hàn Đêm ngâm thơ, chợt nhận thấy ánh trăng là lạnh lẽo
câu 7. Bồng sơn thử khứ vô đa lộ Từ nơi đây đến Bồng sơn không có nhiều lối đi. (Bàn luận: Chỉ có vài lối đi, nhưng có lẽ đă bị ngăn trở. Cụm từ “vô đa lộ” có 2 nghĩa. Nghĩa 1: không nhiều lối đi. Nghĩa 2: đường không xa lắm. Dựa theo câu cuối, nhờ chim xanh t́m kiếm, thăm hỏi, th́ nghĩa thứ nhất thích hợp hơn.)
Câu 8. Thanh điểu ân cần vị thám khan Chim xanh hăy v́ ta mà ân cần thăm ḍ, t́m kiếm (lối vào) . Chim xanh biểu tượng cho sứ giả của t́nh yêu, người trung gian đưa tin qua lại cho hai người ở xa nhau.
Mời bạn đọc thưởng thức video ca khúc tiếng Trung Hoa 'Tương Kiến Th́ Nan' qua giọng hát của danh ca Đồng Lệ, kèm theo bản chuyển ngữ tiếng Việt của Vương Thanh
https://www.youtube.com/watch?v=pCPA3lw9nmg
Vương Thanh
Hồng Thành, Thu 2024 |