Thơ Thiền #9: Khuông Việt Thiền Sư
Nhạc nền : Beethoven
H́nh ảnh : Liên Như
- Hoa bạch mai Nguồn : YouTube Liennhu
Thơ Thiền 9
NGÔ CHÂN LƯU (930- 1011) Ngô Xương Tỷ sinh năm 930 (có tài liệu ghi năm 933) tại xă Cát Lợi, huyện Thường Lạc (Vệ Linh, Sóc Sơn, Bắc Ninh nay thuộc Hà Nội theo tổ chức hành chánh hiện hành). Ngô Quyền lên ngôi năm 939 và băng hà năm 944. Người kế nghiệp là Ngô Xương Ngập. Nhưng vương quyền bị Dương Tam Kha, con của cố tiết độ sứ Dương Diên Nghệ và em của hoàng hậu Dương Như Ngọc (không phải là mẹ của Ngô Xương Ngập), thoán đoạt. Dương Tam Kha xưng vương tức là B́nh Vương (945- 950). Ngô Xương Ngập phải rời bỏ Cổ Loa chạy ra Nam Sách, tỉnh Hải Dương và ẩn trốn trong nhà Phạm Linh Công. Khi bị quân của Dương Tam Kha tức B́nh Vương truy nă gắt gao ông phải chạy vào núi ẩn trốn. Trong thời gian sống trong nhà Phạm Linh Công ông chung sống với ái nữ của vị này và có một người con trai. Đó là Ngô Xương Xí, sau này là một trong 12 sứ quân. Biến cố hăi hùng trên giải thích v́ sao có sự cải danh từ Ngô Xương Tỷ sang Ngô Chân Lưu. Dương Tam Kha (B́nh Vương) xem Ngô Xương Văn, con của Ngô Quyền và chị ruột của ông, như con nuôi. Năm 950 Dương Tam Kha ra lịnh cho Ngô Xương Văn đem quân đánh bắt Ngô Xương Ngập. Thay v́ đi đánh bắt anh, Ngô Xương Văn họp các tướng lănh đem quân về kinh đô lật đổ Dương Tam Kha nhưng nghĩ t́nh cậu cháu nên ông không giết Dương Tam Kha mà c̣n ban tước Công cho ông. Ngô Xương Văn lên ngôi tức là Nam Tấn Vương. Ngô Xương Ngập được rước về Cổ Loa chia sẻ vương quyền với em. Ngô Xương Ngập xưng là Thiên Sách Vương. Thiên Sách Vương có ư loại bỏ Nam Tấn Vương để độc quyền trị quốc nhưng ông chưa thực thi kế hoạch th́ bị bịnh mất. Những cuộc chém giết và tranh giành quyền hành giữa họ Ngô và Dương Tam Kha cũng như cảnh loạn lạc của các sứ quân sau khi Dương Tam Kha thoán đoạt vương quyền trong tay họ Ngô càng biện minh cho sự thoát tục, sự ái mộ Thiền của Ngô Chân Lưu. Ngài không hướng về Cổ Loa để hưởng đời sống vương giả bên cạnh Thiên Sách Vương và Nam Tấn Vương mà hướng về cửa Thiền. Thiền sư Ngô Chân Lưu học đạo nơi thiền sư Vân Phong ở chùa Khai Quốc (Trấn Quốc). Nhà sư được trọng vọng dưới triều nhà Đinh (968- 980) và nhà Tiền Lê (980- 1009). Năm 969 ngài được phong làm Tăng Thống. Hai năm sau ngài được phong là Khuông Việt Quốc Sư (khuông: khuông pḥ; giúp đỡ nước Việt. Thời ấy quốc hiệu nước ta là Đại Cồ Việt). Phật Giáo được xem như quốc giáo. Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành là hai người mồ côi cha, dựng lên vương nghiệp bằng vơ công. Sau loạn Thập Nhị Sứ Quân một mặt Đinh Tiên Hoàng dùng luật pháp gắt gao để trừng trị trộm cướp và kẻ phá rối trật tự xă hội, mặt khác dùng giáo lư Phật Giáo về nhân quả, tội ác và h́nh phạt sau khi chết để răn dạy dân hầu tái lập an ninh trật tự trong nước. Phật tự trở thành trung tâm văn hóa và cứu tế xă hội. Các nhà sư là những nhà trí thức và nhà đạo đức. Dưới triều Lê Đại Hành hai nhà sư đóng góp công lao to lớn trong công tác văn hóa và ngoại giao là Khuông Việt Quốc Sư và sư Đỗ Pháp Thuận. Sư Đỗ Pháp Thuận giả làm người chèo đ̣ tiếp rước sứ nhà Tống (Song) là Lee Kio (Lư Giác) đă nổi danh với hai câu thơ đối đáp hai câu thơ xuất khẩu của Lee Kio khi thấy một cặp ngỗng trắng lội dưới sông:
Nga nga lưỡng nga nga, nghĩa là:
Song song ngỗng một đôi, Nhà sư Đỗ Pháp Thuận vừa chèo thuyền vừa đối lại:
Bạch mao phô lục thủy nghĩa là:
Lông trắng phơi ḍng biếc,
Khi Lee Kio đến Hoa Lư, Ninh
B́nh, ông được Khuông Việt Quốc Sư Ngô Chân Lưu tiếp (987). Lee
Kio ngạc nhiên về tŕnh độ dân trí ‘quá cao’ của xứ Đại Cồ Việt
qua người chèo đ̣ Đỗ Pháp Thuận và qua sự uyên bác của Khuông
Việt Quốc Sư Ngô Chân Lưu. Ngày ông rời Hoa Lư, Khuông Việt Quốc
Sư Ngô Chân Lưu đặt một bài thơ, một khúc nhạc tiễn đưa sứ tựa
đề Ngọc Lang Quy hay Vương Lang Quy, có sách ghi
là Tống Vương Lang Quy như sau:
Khuông Việt Quốc Sư Ngô Chân
Lưu viên tịch năm 1011 thọ 81 tuổi (các sách thường ghi 82 tuổi
v́ tính theo tuổi Âm Lịch <tuổi ta>. Tuổi Âm Lịch= tuổi Dương
Lịch <tuổi Tây> + 1).
|