NP phan

 


BẾN Đ̉ XƯA

 


 

1.

Tôi rất thích hai câu thơ này trong “Cung oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều:

Cầu thệ thủy ngồi trơ cổ độ

Quán thu phong đứng rũ tà huy

Đọc hai câu này, lúc c̣n học trung học, tôi cứ nghĩ phải có một cái cầu tên là cầu Thệ thủy (viết hoa) và một cái quán tên là quán Thu phong (cũng viết hoa). Cầu và quán đă được nhân cách hóa: ngồi và đứng.

Thực ra th́ chẳng có cầu nào là cầu thệ thủy, chẳng có quán nào là quán thu phong cả. Tôi thấy thấp thoáng trong hai câu thơ kia là h́nh ảnh một bến đ̣ hiu hắt dưới bóng nắng chiều rời ră, ḍng nước cứ xuôi chảy miên man, không bao giờ dứt.

H́nh ảnh một bến đ̣ xưa cứ ám ảnh măi trong tôi:

“... Có một thoáng mù sương

Lẩn trong chiều cổ độ”...

(“Có ta và em” – NP phan)

“Cổ độ” là h́nh ảnh bến đ̣ xưa và ḍng sông thời thơ ấu của tôi.

Đă nhiều lần tôi nhủ ḷng là phải về thăm lại bến đ̣ xưa. Nhưng cuộc sống cứ cuốn lấy tôi. Cứ măi lần lữa, dây dưa.

 

2.

Tôi có dịp trở lại thăm nhà ngoại sau hơn bốn mươi năm.

Cậu Ba là người em cùng mẹ khác cha với mẹ tôi. Cậu mất đột ngột do đột quỵ lúc hơn bảy mươi lăm tuổi. Vợ chồng tôi phải về để tang cậu. Có lẽ đă hơn bốn mươi năm tôi mới trở lại thăm nhà ngoại. Ngoại đă mất từ lâu, năm nào tôi cũng không nhớ. Mẹ tôi cũng đă xa anh em chúng tôi hơn một năm khi ngoài tám mươi.

Căn nhà của ngoại ngày xưa bây giờ đă thay đổi quá nhiều, tôi không thể nhận ra. Con đường đất trước nhà ngoại đă được đổ bê tông. Hai gian nhà tranh đă được thay bằng hai căn nhà ngói liền nhau với các tiện nghi của cuộc sống hiện đại ở vùng nông thôn. Những thửa ruộng xung quanh nhà, bây giở đă là khu vườn rộng, có mấy cây xoài to lớn. Tôi hỏi mợ tôi:

- Con nhớ hồi xưa có hai cây mít ở hai đầu nhà và trước nhà là một cái mương nước, phải không mợ?

- Đúng rồi, trí nhớ con tốt đó. Hai cây mít đă chết từ sau khi ngoại con mất. Cái mương nước trước nhà cũng bị lấp sau khi xă làm lại hệ thống thủy lợi.

- À, bến đ̣ Cầu Voi bây giờ c̣n không hả mợ?

- Không c̣n bến đ̣ nữa. Mà sao con lại hỏi bến đ̣ Cầu Voi?

Tôi chỉ cười, không nói ǵ.

Xong việc th́ trời đă tối. Vợ chồng tôi phải vội trở về thành phố.

 

3.

Đó là vào khoảng gần cuối năm 1964.

Năm ấy tôi đang học lớp Tư (tức là lớp Hai bây giờ) trường làng. Mới vào học độ chừng hai tháng th́ tôi phải nghỉ học v́ chiến tranh nổ ra trên khắp cả tứ thôn Đại Điền. Quê tôi đồng khởi, phá ấp chiến lược, thành lập “chính quyền cách mạng”. Cha mẹ tôi và mọi người vẫn gọi năm ấy là năm “ly sơn”. Trường tiểu học nơi tôi học đóng cửa. Các thầy cô giáo cũng đă rời trường. Bạn bè tản mát.

V́ tuổi c̣n quá nhỏ, tôi chẳng nhớ ǵ nhiều. Chỉ nhớ rằng, tôi không phải đi học mà rong chơi thỏa thích, nào bắt dế, bắn chim, thả diều và rất nhiều tṛ chơi vui vô kể. Tối đến, thỉnh thoảng được coi các đoàn văn công diễn ở trụ sở thôn (Trụ sở sau này bị đánh sập một lần và sau đó bị đốt cháy một lần nữa nên vẫn thường gọi là “Trụ sở sập” hay “Trụ sở cháy”). Các tiết mục múa hát, cả diễn kịch có anh lính giải phóng đánh nhau với anh lính cộng ḥa. Tôi nhớ có người đă nhảy lên sân khấu đ̣i đánh anh lính cộng ḥa trong khi vở kịch đang diễn. Tất cả khán giả là người dân quê tôi.

Đêm đêm, nhất là những đêm trăng sáng, thỉnh thoảng có những “sinh hoạt” ǵ đó tôi cũng chẳng biết. Và thỉnh thoảng, có những đoàn quân rất đông người với bao nhiêu là súng ống đạn dược, kéo về trong một đêm, rồi sáng sớm hôm sau họ lại lên đường. Chắc là đánh nhau ở đâu đó. Tôi nghe loáng thoáng cha mẹ tôi nói là bộ đội chủ lực ǵ ǵ đó.

Những chuyện này tôi sẽ kể thêm sau khi có dịp.

Tôi cứ suốt ngày rong chơi trong gần một năm học. 

Khi bắt đầu vào năm học tiếp theo, trường học vẫn chưa được mở lại.

Không thể để con phải nghỉ học, cha tôi đă bàn với bác Hai tôi, bằng cách nào đó phải cho lũ trẻ đi học trở lại. Lũ trẻ ở đây là tôi và chị Sáu (con của bác Hai), lớn hơn tôi một tuổi.

Tôi có người chú họ ở Phú Ân Nam, bên kia sông Cái. Dạo ấy, vùng này c̣n tương đối an ninh (như cách nói của người lớn). Nhà chú tôi ở gần cầu Ông Bộ, ngay bên đường quốc lộ 1, trên đường về thị xă. Chú tôi làm nghề thợ mộc, có nhà cửa, cơ ngơi làm ăn khá rộng răi, đàng hoàng. Bên kia cầu Ông Bộ là thôn Vơ Cạnh thuộc xă Vĩnh Trung, quận Vĩnh Xương.

Thôn Vơ Cạnh nổi tiếng v́ nó gắn liền với câu ca dao về các đặc sản của “Xứ trầm hương”:

Yến sào Ḥn Nội

Vịt lội Ninh Ḥa

Tôm hùm B́nh Ba

Nai khô Diên Khánh

Cá tràu Vơ Cạnh

Ṣ huyết Thủy Triều

Đời anh cay đắng đă nhiều

Về đây ngọt sớm ngon chiều với anh

Trong sáu đặc sản trên đây, có hai món bây giờ có lẽ đă “tuyệt tích giang hồ” là nai khô Diên Khánh và cá tràu Vơ Cạnh.

Vơ Cạnh c̣n nổi tiếng với tấm bia Vơ Cạnh. Bia Vơ Cạnh được Viện Viễn Đông bác cổ phát hiện tại làng Vơ Cạnh và đưa về Hà Nội năm 1910. Đây là tấm bia cổ duy nhất c̣n lại của vương quốc Champa xưa, khắc bằng chữ Sanskrit, là tấm bia cổ nhất vùng Đông Nam Á, có giá trị lịch sử lớn.

Đó là những ǵ về Vơ Cạnh tôi biết về sau này.

Cha mẹ tôi đă gửi tôi và chị Sáu ở trọ nhà chú Năm và học ở Trường Tiểu học Vơ Cạnh, nằm phía bên kia cầu Ông Bộ, cách nhà chú chỉ khoảng vài trăm mét. 

Trường Tiểu học Vơ Cạnh nằm bên cạnh đ́nh Vơ Cạnh, một ngôi đ́nh cổ, uy nghi.

Đó là một ngôi trường nhỏ, nằm sát bên đường quốc lộ, một dăy nhà h́nh chữ L, có khoảng năm sáu pḥng ǵ đó, tường xây, lợp ngói. Tôi và chị tôi vào học lớp Ba (cũng là lớp Ba hiện nay) mặc dù chưa học xong lớp Tư. Tôi nhớ lớp học có khoảng bốn chục học sinh mà bây giờ tôi chẳng nhớ ra ai cả, trừ một bạn có học chung với tôi ở bậc trung học mấy năm sau đó. 

Ở trọ nhà chú Năm, tôi và chị tôi chỉ lo ăn học, chẳng phải làm việc ǵ v́ c̣n quá nhỏ. Nhà chú cũng có mấy đứa con cùng trang lứa với chúng tôi nên vui chơi thỏa thích, nhất là vào chập tối, lúc ăn cơm xong (v́ ban ngày phải đi học cả ngày).

Những đêm sáng trăng, chúng tôi chơi đủ tṛ chơi từ u mọi, cút bắt, bịt mắt bắt dê... Có một dạo, tôi bị “quáng gà”, chắc là do ăn uống thiều chất, với lại tôi cũng rất kén ăn. Ban đêm tôi chẳng nh́n thấy ǵ, không chơi được tṛ chơi ǵ, tức muốn phát khóc. Sau một thời gian ngắn, chừng hơn tháng ǵ đó, th́ cũng tự khỏi, không biết làm sao.

Nhiều đêm, nhớ nhà, nhớ cha mẹ và các em, tôi cứ nằm khóc rưng rức mà chẳng có ai dỗ dành.

 

4.

Ḍng sông Cái ngăn giữa hai thôn Phú Ân Nam (thuộc xă Diên An) và Phú Ân Bắc (thuộc xă Diên Phú). Lúc ấy, từ bên này sang bên kia hoặc ngược lại, phương tiện duy nhất là đi bằng đ̣. Từ Phú Ân Nam, gần nhà chú tôi, có một con đường nhỏ chạy giữa cánh đồng lúa của làng, dẫn đến một bến sông. Bên kia sông là bến đ̣ Cầu Voi. Sở dĩ có tên gọi như vậy là v́ nó nằm gần bên một chiếc “cầu tre lắt lẻo” tên là Cầu Voi (Không hiểu sao lại gọi là Cầu Voi), bắc ngang một nhánh sông nhỏ. Ở đó, thường có một chiếc đ̣ nhỏ chờ đưa khách qua sông. 

Thường th́ cứ vào cuối buồi chiều cuối tuần (có khi hai tuần), tôi và chị tôi xin phép chú thím, dắt díu nhau về thăm nhà. Hai đứa bé, một lên tám, một lên chín tuổi lôi thôi lếch thếch đi bộ quăng đường dài sáu cây số. Chị đi trước, em lẽo đẽo theo sau, nhiều lúc đi theo không kịp chị, cứ vừa đi vừa khóc, cố chạy theo cho kịp chị để c̣n lên đ̣ qua sông. 

Chị Ngôi là người chèo đ̣ đưa chúng tôi qua lại trên ḍng sông Cái. Bây giờ tôi cũng không h́nh dung ra được khuôn mặt chị, chỉ nhớ là chị c̣n trẻ, hơn chúng tôi độ gần mười tuổi, hay đội chiếc nón lá. Hôm nào chị bận việc ǵ đó không chèo đ̣ th́ có cha chị (tôi đoán vậy) chèo thay. Mấy mươi năm rồi, không biết bây giờ chị thế nào, gia đ́nh, chồng con ra sao, sinh sống nơi đâu? 

Tôi nhớ có hôm hai chị em về đến cánh đồng gần nhà th́ súng bỗng nổ vang, đạn bay “chíu chíu” trên đầu, đạn cối nổ ngay trước mặt, chớp lửa nhoáng nhoàng. Phía bên này và phía bên kia từ trong các khu vườn nhà dân thi nhau nă đạn về phía nhau. Chị em tôi nháo nhào chạy dưới hai làn đạn, chạy cả xuống ruộng bùn, vừa chạy vừa la khóc. May mà cũng về được đến nhà không sao cả.

Trong thời gian tôi học lớp Ba tại Trường Tiểu học Vơ Cạnh, chiến tranh vẫn diễn ra ở tứ thôn Đại Điền và ở nhiều nơi khác. 

Sau gần một năm th́ “chính quyền cách mạng” ở tứ thôn Đại Điền giải tán. Phía “quốc gia” tấn công ác liệt để giành lại vùng tứ thôn Đại Điền. Phong trào “ly sơn” tan ră, cán bộ, du kích rút hết lên núi.

Hết năm học, t́nh h́nh tạm yên. Cha tôi đưa chúng tôi về quê. Chúng tôi giă từ chú thím và các em, giă từ thầy cô và các bạn học trường Vơ Cạnh trong tiếc nuối bùi ngùi.

Tôi về lại Trường Tiểu học Đại Điền Đông, học lên lớp Nh́.

Đó là vào khoảng tháng 9 năm 1966, năm Bính Ngọ.

Năm sau và những năm sau nữa, khói lửa chiến tranh lại tiếp tục bùng lên dữ dội.

 

5.

Trời đă về chiều nhưng nắng vẫn c̣n gay gắt. 

Từ nhà ngoại, tôi chạy xe dọc theo xóm thôn bên bờ bắc sông Cái. Nhà cửa khang trang, ruộng đồng tươi tốt. Đi măi một lúc th́ đến Cầu Voi. Chiếc cầu tre năm nào được thay bằng chiếc cầu bê tông kiên cố.

Bến đ̣ Cầu Voi năm nào đâu rồi?

Tôi hỏi một chị bán hàng gần cầu:

- Xin lỗi chị, chị có biết bến đ̣ Cầu Voi chỗ nào không?

- Em không biết bến đ̣ nào cả, chỉ biết Cầu Voi này thôi. À, có khi anh hỏi bà bác kia ḱa, bác ấy lớn tuổi chắc là biết.

Tôi tiến tới người phụ nữ lớn tuổi, chắc cũng xấp xỉ tám mươi, trông c̣n khá khỏe mạnh, lễ phép hỏi:

- Thím cho cháu hỏi, thím có biết bến đ̣ Cầu Voi hồi xưa bây giờ ở đâu không ạ?

Thím nh́n tôi từ đầu đến chân rồi hỏi lại:

- Cháu người vùng này hay ở đâu? Muốn t́m nhà bà con ở đây à?

- Dạ, quê cháu bên Đại Điền. Hồi nhỏ, cháu trọ học bên Phú Ân Nam, hàng tuần hay đi về thăm nhà, qua bến đ̣ Cầu Voi này. Cũng đă lâu lắm rồi, chắc cũng gần năm mươi năm. Cháu chỉ muốn thăm lại bến đ̣ ngày xưa thôi ạ.

Thím cười gịn giă:

- Bến đ̣ Cầu Voi đă bỏ lâu rồi cháu ạ. Nó nằm ở chỗ kia ḱa.

Theo tay bà thím chỉ, tôi thấy mấy ngôi nhà cây cối um tùm, không có lối nào dẫn xuống bến sông.

Nh́n sang bên kia sông, tôi cũng không thấy dấu vết ǵ ngoài hàng tre xanh mướt. 

Bến đ̣ xưa, từ lâu đă không c̣n nữa. 

Tôi cám ơn chị bán hàng và người thím, rồi thẫn thờ nh́n ra ḍng sông.

Chiều đă xuống. Nắng tắt dần.

Trong ḷng tôi là một khoảng trống mênh mang.

 

Tháng 10/2016

NP phan

 

 

art2all.net