PHẠM Đ̀NH LÂN, F.A.B.I.

 

KỸ NGHỆ HÓA VÀ SINH SUẤT

 

 


          Một cách khách quan người ta nhận thấy sinh suất cao được t́m thấy ở các quốc gia:
- kinh tế nông nghiệp
- tỷ lệ dân nông thôn cao hơn tỷ lệ thị dân
- tỷ lệ người nghèo và không có điều kiện đi học cao.

Điều này cũng dễ hiểu đời sống ở nông thôn rất b́nh dị và êm đềm. Người dân không có nhiều thú giải trí. Đất đai ở nông thôn khá rộng răi nên có nhiều con cũng không lo ngại chỗ ở. Chỉ cần mất một ngày công là có một túp lều lư tưởng cho một gia đ́nh hạnh phúc dưới nhăn quan của bà Mẹ Quê.

Trong xứ nông nghiệp chịu ảnh hưởng của Khổng Giáo như Trung Hoa và Việt Nam chế độ đa thê được chấp nhận. Ư niệm đa tử đa tôn là đa phúc được cổ vơ. Nam phái được đề cao v́ nam phái là nhân tố của sự truyền tử lưu tôn, là thành phần phụng dưỡng cha, mẹ và chăm sóc mồ mả tổ tiên và cuối cùng là nhân lực lao động sản xuất nông nghiệp. Càng đông con lực lượng sản xuất càng mạnh, đời sống càng ấm no hơn. Ở Trung Hoa và Việt Nam ngày xưa, ngoài chế độ đa thê c̣n có có tục tảo hôn và chỉ phúc quần hôn. T́nh trạng tương tự cũng được t́m thấy ở Ẩn Độ. Đó là lư do cho thấy tại sao dân số gia tăng nhanh ở các nước nông nghiệp, trọng nam và đề cao chế độ đa thê.

Khoa học kỹ thuật Anh Quốc phát triển với cuộc cách mạng kỹ nghệ vào thế kỷ XVIII.

Nó phát triển ở Pháp sau cách mạng 1789. Đến thế kỷ XIX các nước Anh, Pháp, Hoa Kỳ, Ḥa Lan, Đức đều kỹ nghệ hóa. Các quốc gia này đều là quốc gia Bạch Chủng theo Thiên Chúa Giáo hay Tin Lành Giáo. Kinh tế các nước ấy rất phồn thịnh. Dân chúng có đời sống vật chất đầy đủ. Giáo dục phát triển. Sinh hoạt nông nghiệp bị sinh hoạt kỹ nghệ lấn át. Nhiều nông dân ra thành phố t́m công ăn việc làm trong các nhà máy. Họ trở thành thị dân. Họ được tiếp xúc với những tư tưởng mới, những phát minh mới và nếp sống tiện nghi mới. Con cái họ được học hành. Đó là phương tiện tiến thân và cải thiện cuộc sống mở rộng cho mọi công dân trong một quốc gia dân chủ và kỹ nghệ. Đời sống ở thành thị càng ngày càng trở nên khó khăn. Đất đai có giới hạn trong khi thị dân gia tăng quá nhanh. Thanh niên lớn lên phải lo học hành và bắt đầu cảm thấy ngột ngạt trong xă hội máy móc. Phong trào sống độc thân nẩy nở sớm ở Pháp. Phụ nữ có chồng hay thanh niên có vợ đều không muốn có con hoặc muốn có ít con. Tướng De Lattre chỉ có một con trai duy nhất. Tướng De Gaulle có ba con: một trai (đô đốc và nghị sĩ Philippe De Gaulle vừa mất năm 2016, thọ 94 tuổi), 02 người con gái: cô Anne De Gaulle mất năm 1948 khi mới 20 tuổi và bà Elisabeth De Gaulle (1924- 2013), vợ của một tướng lănh Pháp. Đó là hai vị tướng nổi danh có đời sống khả quan trong xă hội. Trường hợp người Da Trắng ở Hoa Kỳ hay ở Anh cũng na ná như thế. Các gia đ́nh Hoa Kỳ vào tiền bán thế kỷ XX rất đông con nhất là các gia đ́nh theo đạo Thiên Chúa. Những con số thống kê dân số đối chiếu dưới đây cho thấy t́nh trạng gia tăng dân số của Pháp chậm chạp như thế nào.

Quốc Gia Năm Dân Số
Pháp 1946 40. 5 triệu dân
  2016 64. 5 triệu dân
Việt Nam 1946 23 triệu dân
  2016 92 triệu dân


Pháp là một nước kỹ nghệ. Việt Nam là một nước nông nghiệp. Năm 1946 dân số Pháp lớn hơn dân số Việt Nam 17. 5 triệu người. 70 năm sau dân số Việt Nam lớn hơn dân số Pháp 27. 5 triệu người. Từ năm 1945 đến 1975 Việt Nam có chiến tranh liên tục.

Ở Á Châu Nhật Bản là quốc gia kỹ nghệ hoá đầu tiên. Dân số Nhật năm 1940 lối 73 triệu người. Năm 1945 chỉ c̣n 71.5 triệu. Dân số giảm 1.5 triệu người chết v́ chiến tranh. Năm 2010 dân số Nhật là 128 triệu người. Đến năm 2015 dân số Nhật giảm xuống c̣n 127 triệu người. 91% người Nhật là thị dân. Số người làm nghề nông chỉ chiếm 5% dân số. Một số người sống ở nông thôn nhưng không làm nghề nông mà làm việc ở các thành phố lớn.

Người Nhật vật lộn với cuộc sống. Nước Nhật nhỏ hẹp. Trên 70% diện tích nước Nhật do núi rừng chiếm ngự. Nhà cửa ở các thành phố rất đắt. Hàng ngày dân chúng phải thức dậy thật sớm cỡi xe đạp ra trạm xe lửa để ngồi xe lửa đi làm cách đó 01 hay 02 giờ đồng hồ xe lửa! Măi đến 09, 10 giờ tối họ mới về đến nhà. Số giờ ngủ trung b́nh mỗi ngày của họ lối 05 hay 06 tiếng đồng hồ!

Cho đến cuối thế kỷ XX lực lượng sản xuất ở Nhật dựa vào sức lao động của nam phái.
Phụ nữ ở Nhật thường ở nhà sau khi có gia đ́nh dù có tŕnh độ học vấn cao. Chính v́ vậy người chồng phải làm việc nhiều hơn. Sự mệt mỏi thể xác làm cho người ta xao lăng đời sống gối chăn. Nam nữ thanh niên lo học hành để t́m nguồn sống cho tương lai. Họ không muốn lập gia đ́nh v́ e ngại không đủ sức lập một tổ ấm riêng, cũng không đủ điều kiện chăm sóc, giáo dục con cái và đảm bảo hạnh phúc cho gia đ́nh. Trên lục địa Trung Hoa có chánh sách một con v́ nước nghèo không đủ khả năng nuôi dân. Ở miền Bắc có triết lư Ba Khoan cũng nhằm mục đích tương tự. Ba Khoan là: Khoan Yêu, Khoan Cưới, Khoan Con.

Nam không muốn có vợ. Nữ không muốn có chồng. Đó là hiện tượng đang báo động ở Nhật. Trung Hoa có gần 1.5 tỷ dân nhưng với chánh sách một con trong mấy chục năm qua Trung Hoa rơi vào khủng hoảng: dân số già nua không khả năng sản xuất tăng cao; quân b́nh NAM- NỮ bị phá vỡ dẫn đến t́nh trạng NAM thừa, Nữ thiếu. Hàng trăm triệu người Hoa trên lục địa không có vợ. Chánh sách một con bị băi bỏ vào năm 2015.

Nhật nổi tiếng về kỹ nghệ robot (người máy). Kỹ nghệ Vợ Ḥa Lan (Dutch wife; épouse néerlandaise) tức kỹ nghệ búp bê t́nh dục (sex doll) phát triển càng làm cho thanh niên nam nữ Nhật càng thấy không cần thiết lập gia đ́nh để phải lo lắng và tranh căi giữa vợ chồng. Vợ Ḥa Lan cũng đẹp, dịu hiền và không hề căi vả! Sự sụt giảm dân số và sự gia tăng tỷ lệ người già là bài toán chánh trị, kinh tế và xă hội quan trọng cho nước Nhật hiện nay.

Người Da Trắng Thiên Chúa Giáo và người Da Trắng Anglo- Saxon và Tin Lành Giáo có vai tṛ quan trọng trong cộng đồng nhân loại từ thế kỷ XVI đến nay.

Người Da Trắng Anglo- Saxon hay theo Tin Lành Giáo (Anh, Hoa Kỳ, Ḥa Lan, Đức v.v.) có vẻ vượt trội hơn người Da Trắng Thiên Chúa Giáo như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Ư, Pháp về phương diện kinh tế, thương mại và khoa học kỹ thuật. Các nước Âu- Mỹ da trắng đều là những nước dân chủ, hữu thần nhưng chánh quyền thế tục. Luật phá thai, hôn nhân đồng tính dần dần được công nhận ở các quốc gia dân chủ Âu- Mỹ mặc cho sự phản đối của các tôn giáo. Tỷ lệ người Da Trắng ở Hoa Kỳ giảm dần. Năm 2016 Hoa Kỳ có 324 triệu dân so với 200 triệu dân vào năm 1965. Sự gia tăng 124 triệu người trong ṿng 51 năm không hoàn toàn do sự sinh sản của người Hoa Kỳ mà c̣n do sự nhập cư của các dân tộc khác từ ngũ châu nhiều nhất là sự nhập cư của người Latinos từ Trung và Nam Mỹ vào. Trong nước sinh suất của người Hoa Kỳ gốc Phi Châu cao hơn sinh suất của người Da Trắng Anglo Saxon hay gốc Âu Châu rất nhiều.   

Chủng tộc Tỷ lệ
Da Trắng 62%
Người Latinos 15.3%
Da Đen 14.3%
Dân gốc Á Châu 8.4%


Những con số trên cho thấy trong một thời gian không xa, do sinh suất cao của người da màu, do sự pha chủng và làn sóng nhập cư hàng năm từ ngũ châu, người Anglo Saxon không c̣n chiếm đa số ở Hoa Kỳ.

 

PHẠM Đ̀NH LÂN, F.A.B.I.

 

 

art2all.net