IV. Nghi vấn đạo đức trong Kim Dung
"Sự
minh định giữa Tà và Chính vẫn c̣n được duy tŕ.
Nhưng người ta thấy rằng nó đă bị nghi vấn hoá
và không c̣n dĩ nhiên như xưa nữa… có lẽ không
c̣n ai trong vơ lâm có đủ ngây thơ để tự giải
quyết nghi vấn ấy một cách đơn sơ như thế."
"Và cái vinh quang cho những giá trị mà chàng
đại diện là cái đuơng nhiên rực rỡ của Chính
nghĩa. Nhưng Chính nghĩa nào c̣n khi, từ trận
này sang trận khác, người ta chỉ kéo dài một
cuộc tương tàn không có ai được và ai thua. Ngay
những đối thủ hầu như cũng đă quên mất những lư
do đă làm cho họ xâu xé lẫn nhau."
"Người chưởng môn của phái Nga My đă sáng tạo
được hai bộ kiếm pháp, một tên là Diệt, và một
là Tuyệt. Những độc âm cộc lốc ấy…"
"Cái thời của những anh hùng nghĩa hiệp thật đă
xa và, trong cuộc tương tàn miên trường vô độ
của vơ lâm, người ta chỉ c̣n thấy như sự xung
đột của những mănh lực tự nhiên. Trước khi biết
ai phải và ai trái th́ những đối thủ biết rằng
họ phải thắng trước đă, và cái ư chí thống trị
làm suy tàn tinh thần vơ hiệp cổ truyền."
Tới Kim Dung th́ cái trời ư tưởng ấy sụp đổ.
Lẽ dĩ nhiên vẫn có những nhân vật tự xưng là đại
diện cho ch́nh nghĩa và những kẻ mang tiếng là
của Tà đạo. Nhưng truyện Kim Dung sẽ cho người
ta thấy sự phân biệt ấy là vô thực. Những người
của tà đạo, ông cho tất cả những cám dỗ của nhan
sắc, của sự thông minh, của tính anh hùng. Ấy là
không kể người nào vơ công cũng cao cường, cuộc
đời cũng sôi nổi, tâm hồn cũng khoáng đạt. Cái
tội duy nhất của họ là không coi đạo lư của
thiên hạ vào đâu. Nhưng so với họ th́ những
người có trách nhiệm duy tŕ truyền thống đạo lư
của vơ lâm mới ương ngạnh, mới ngoan cố, mới câu
nệ làm sao! Tiêu biểu cho thứ người này là Diệt
Tuyệt sư thái thà chết chứ không để cho Vô Kỵ
đụng tới vạt áo của bà, khi tên “tiểu dâm tặc”
này định vận chưởng lực giúp bà nhảy xuống từ
một lầu cao đang phát hoả. Diệt Tuyệt sư thái
tuy nhiên mới là một cô gái già gàn dở. Cái gàn
dở đó có khi tàn nhẫn, nhưng có thể tha thứ
được, tại dù sao sư thái vẫn tin và thi hành cái
đạo lư của bà. Nhưng sự sa đoạ xuống tới sự bất
nhân, sự dâm loạn, sự ngu xuẩn của những đệ tử
của phái Toàn Châu th́ c̣n ai tin ǵ ở Chính
nghĩa? Trên đường lưu vong của chàng, mỗi lần
gặp một trong những người của Chính nghĩa ấy là
Vô Kỵ lại gặp sự vong ân, sự ích kỷ, sự ác độc
và người ta hiểu tại sao sau cùng chàng lại chọn
những người của tà đạo để làm bạn đồng hành. Sự
thật th́ trong Kim Dung có một cố gắng đánh tụt
giá những người tự nhận là của Chính nghĩa và
qua họ, những giá trị mà họ tượng trưng. Cái đức
đáng yêu nhất mà đôi khi ông cho người ta thấy
trong họ là sự thật thà, sự chất phác, sự ngây
ngô. Ấy tuy nhiên không phải là một cái đức
riêng của những người của chính nghĩa mà chung
cho tất cả những đứa con của Đất, dù như Âu
Dương Phong, đứa con ấy chỉ là một đứa con hư.
Sự đề cao những giá trị của Đất ấy cho người ta
thấy rằng cách phân loại nhân vật trong Kim Dung
không trùng hợp hẳn với những nhăn hiệu đạo lư
của họ.
Theo những nhăn hiệu đạo lư th́ có kẻ Tà và
Chính ở chỗ nào? Khi chúng anh hùng đến vây bắt
Cừu Thiện Nhân để sửa tội cái tên đại-ma-đầu ấy
th́ y thản nhiên hỏi mọi người: “Ta giết người.
Các người cũng giết người. Nhân danh cái ǵ các
người có thể lên án ta?” Câu hỏi bất ngờ ấy
không ai biết trả lời thế nào cho phải. Là người
trong vơ lâm th́ tay ai chẳng đầy máu. Nhưng
giữa lúc mọi người c̣n ngơ ngác th́ may sao có
Hồng Thất Công đứng ra dơng dạc trả lời rằng
những kẻ ông giết là những kẻ như Cừu Thiện Nhân
chuyên làm hại dân lành vô tội, và giết những
người như thế th́ giết bao nhiêu cũng được và
càng nhiều càng hay. Sự minh định giữa Tà và
Chính vẫn c̣n được duy tŕ. Nhưng người ta thấy
rằng nó đă bị nghi vấn hoá và không c̣n dĩ nhiên
như xưa nữa. Và ngoài một người ngay thẳng như
Hồng Thất Công th́ có lẽ không c̣n ai trong vơ
lâm có đủ ngây thơ để tự giải quyết nghi vấn ấy
một cách đơn sơ như thế. Hồng Thất Công vả lại
cũng là kẻ thù tri kỷ của một đại ma đầu khác là
Âu Dương Phong và người bạn nữa của ông là Hoàng
Dược sư th́ đă nổi tiếng là một nhân vật đứng ra
ngoài những thứ loại của Đạo lư thông thường.
Người trên giang hồ gọi ông là con người tà ở
phương Đông. Nhưng cái tà của Âu Dương Phong là
của năng tính. Trong Hoàng Dược sư nó là một
quyết định của lư trí. H́nh như ông cho rằng Tà
và Chính chỉ là những nhăn hiệu vô thực. Ai muốn
xếp ông vào loại nào th́ ông cũng mặc và coi như
không. Con người kiêu ngạo ấy chỉ biết một quy
luật duy nhất là cái tự do của ḿnh. Trong lịch
sử vơ lâm, nhân vật ông tượng trưng cho sự nổi
loạn của cá nhân chống lại những giới hạn giả
tạo của một truyền thống sa đoạ.
Sự sa đoạ ấy bắt đầu khi người ta thấy những con
người của Chính nghĩa không c̣n xứng đáng với
vai tṛ của họ, và dưới tay họ, những giá trị
thiêng liêng chỉ c̣n là những giáo điều nghiệt
ngă nhưng trong thực tế th́ lư do chính để không
c̣n ai tin vào những giá trị ấy nữa là giữa Tà
và Chính vơ công bây giờ ai cũng như ai và chẳng
c̣n mèo nào cắn được mỉu nào. Xưa người anh hùng
là người bách thắng. Và cái vinh quang ấy cho
những giá trị mà chàng đại diện cho cái đương
nhiên rực rỡ của Chính nghĩa. Nhưng Chính nghĩa
nào c̣n, khi từ trận này sang trận khác, người
ta chỉ kéo dài những cuộc tương tàn không ai
được và ai thua. Ngay những đối thủ cũng như đă
quên mất những lư do đă làm họ xâu xé lẫn nhau.
Xưa người ta giết một người để trừng phạt tội
ác; giờ th́ người ấy đă làm một tội ác nào chưa
không ai cần biết. Nhưng đă thuộc vào một môn
phái đối nghịch th́ đương nhiên y là một kẻ thù
để người ta thủ tiêu. Ai trách Tạ Tốn là ác độc
th́ ông sẽ lấy sử sách ra để chứng minh rằng từ
xưa những kẻ ác độc bao giờ cũng thành công và
những kẻ được tiếng là nhân tài th́ xét cho
cùng, sự nhân đức của họ cũng chỉ là một cái
tiếng. Ông th́ đương nhiên ông có thừa nghĩa khí
để có thể bao giờ coi sự giết người là một tṛ
lư thú, nhưng những nhu cầu của an ninh buộc ông
thủ tiêu nhân vật vô tội đang cùng ông ôn tồn
đàm thoại, và ông rất tiếc phải thất lễ với một
người mà ông rất có cảm t́nh. Án mạng khi ấy chỉ
là một phương thức cực đoan của vệ sinh. Nhưng
Tạ Tốn là một trong những anh hùng của Tà đạo và
người ta không thể chờ đợi ở ông một sự từ bi
quá đáng. Có lẽ ngạc nhiên hơn là khi thấy Diệt
Tuyệt Sư thái cầm Ỷ thiên kiếm giết một chốc mất
trăm mạng người trong Minh Giáo mà không chớp
mắt. Một Tà một Chính, khi ấy, ai tàn nhẫn hơn
ai? Tà và Chính đều giết người. Họ là người của
vơ lâm, và trong cuộc giao tranh công việc đầu
tiên của họ là cướp lấy phần thắng và tận giệt
kẻ thù… người trưởng môn phái Nga My đă sáng tạo
ra được hai bộ kiếm pháp: một tên là Diệt và một
tên là Tuyệt. Nhưng độc âm cộc lốc ấy, trong sự
thô bạo của chúng, đă tóm tắt cái đạo lư, đầy
máu và đích thực của vơ lâm. Cái thời của những
anh hùng nghĩa hiệp thật đă xa và, trong cuộc
tương tàn miên trường là vô độ của vơ lâm, người
ta chỉ c̣n thấy như sự xung đột của những mănh
lực tự nhiên. Trước khi biết ai phải và ai trái
th́ những đối thủ biết rằng họ phải thắng trước
đă và ư chí thống trị làm suy tàn tinh thần vơ
hiệp cổ truyền.
Nghi vấn đạo lư tuy nhiên chưa mất hẳn. Nó đổi
chỗ. Sự phân biệt giữa Tà và Chính xưa ở cứu
cánh. Nhưng khi trong một xung đột không thể nào
chấm dứt, mọi cứu cánh đều sa đoạ và môn phái
cũng chỉ biết một tham vọng duy nhất là thiết
lập bá nghiệp của ḿnh trên Giang hồ th́ người
ta dựa vào cách đánh nhau của họ để phân biệt họ
với nhau. Vơ học đương nhiên mang một sắc thái
đạo lư. Trong truyện vơ hiệp cổ điển vơ công là
một phương tiện và tà cũng như chính đều sử dụng
một thứ vơ. Hơn thế nữa người ta thấy ngưới của
chính giáo, như tin tưởng tuyệt đối vào lẽ phải
của họ, không ngần ngại trước một phương tiện
nào để thắng kẻ thù. Họ cũng nghe trộm, cũng
đánh lén, cũng lừa bịp. Thôi th́ không có thủ
đoạn nào họ từ. Nhưng tất cả xảy ra như thiện
chất trong người họ đă truyền cho những thủ đoạn
ấy một ư nghĩa chính đáng và không bao giờ ai tự
hỏi trên sự có nên chăng của chúng.
Sự thật thà có khi đến chỗ ngây ngô mà Kim Dung
coi là một đức tính quư hoá th́ truyện vơ hiệp
cổ điển lại dành cho những người của Tà đạo.
Ngược lại th́ một trong những ấn tích của Tà đạo
trong Kim Dung lại là sự thông minh theo trực
giác của những tâm hồn đơn giản, mà sự thông
minh làm ra kế hoạch và mưu trước, nghĩa là cái
tài sáng tạo, và người ta hiểu tại sao những vơ
công được coi là của tà đăo bao giờ cũng phức
tạp, biến ảo, nửa thực và nửa hư không biết đâu
mà lường. Trong khi ấy th́ người của chính giáo
sẽ tự hào là có những vơ công ngay thẳng, minh
bạch và đường hoàng hơn. Một trưởng của họ là
một trưởng và họ sẽ ít khi dùng đến ám khí, độc
dược và mưu trước. Một bên th́ nặng như núi,
cứng như thép, rơ như ban ngày và một bên th́
phức tạp, uyển chuyển, mơ hồ. Ấy tuy nhiên chỉ
là những cách giết người khác nhau, và trong sự
đối lập ấy, giữa Tà và Chính, người ta nhận ra
sự đối lập giữa Âm và Dương nghĩa là giữa hai
mặt của tự nhiên. Không có ai ngoài mấy kẻ ngây
ngô, c̣n th́ giờ nghĩ đến truyện nghĩa hiệp nữa.
Và giờ nếu người ta có giết nhau th́ chẳng qua
là để cướp lấy những vơ lâm kỳ thư có thể giúp
người ta rhành bá chủ vơ lâm. Khi những cao thủ
t́m mọi cách để độc chiếm cái bí mật giấu trong
con dao Đồ Long th́ người ta nghĩ đến những tay
gián điệp quốc tế đang tranh nhau một tài liệu
quân sự hay những đảng cướp trong những truyện
Seríe Noire xâu xé lẫn nhau để giành một món
hàng. Ư nghĩa của truyện vơ hiệp sẽ đổi khác. Và
tổ chức của truyện cũng đổi theo.
Đỗ Long Vân
_____________________
Ghi chú:
Vấn đề dịch thuật.
Đỗ Long Vân đă từng học chữ Nho, chỉ để đọc Kim
Dung. Chắc chắn, ông đă từng bực ḿnh v́ những
bản tiếng Việt, vốn chỉ là phóng tác. "Ai tuy
nhiên đă gây nên phong trào ấy và với mục đích
nào? Nghi vấn ấy người đời sau sẽ giải quyết"
(Đỗ Long Vân, đoạn mở "Vô Kỵ giữa chúng ta"),
ông biết, với cơn sốt v́ hiện tượng Kim Dung,
thật khó mà có một bản dịch trung thành với
nguyên tác. Ông cũng đă từng dịch. Thời gian sau
1975, ông sống gần như xa cách tất cả mọi người,
tại một con hẻm (Hồ Biểu Chánh ở đường Trương
Tấn Bửu, h́nh như vậy), ở Phú Nhuận; đọc, đa số
là tiểu thuyết khoa học giả tưởng, và dịch
"Những hệ thống mỹ nghệ" của Alain. Chắc chắn,
ông phải biết tới Simone Weil, người học tṛ
xuất sắc nhất của Alain. Weil cũng đă từng học
chữ Nho để đọc Lăo Tử. Trong bài viết về Iliade,
bà đă đưa ra một số câu thơ, do chính bà dịch,
và ghi chú: "Những đoạn trích dẫn là mới dịch.
Mỗi ḍng là một câu thơ Hy Lạp, y chang nguyên
tác. Trật tự từ Hy Lạp bên trong từng câu thơ
cũng được tôn trọng tới mức tối đa" (nguyên văn
ghi chú của Weil: "La traduction des passages
cités est nouvelle. Chaque ligne traduit un vers
grec, les rejets et enjambements sont
scrupuleusement reproduits; l’ordre des mots
grecs à l’intérieur de chaque vers est respecté
autant que possible". Simone Weil, Tác phẩm, nhà
xb Gallimard, tủ sách Quarto, trang 529).
***
Bây giờ, chúng ta hăy thử so sánh hai bản dịch
Kim Dung, đoạn mở đầu Cô gái Đồ Long, một của Từ
Khánh Phụng và một của Nguyễn Duy Chính, mới
xuất hiện trên lưới Internet.
Bản Từ Khánh Phụng:
"Quách Tường, con gái thứ của Đại Hiệp Quách
Tĩnh và nữ Hiệp Hoàng Dung, biệt hiệu Tiểu Đông
Tà. Hôm nay nàng đi chơi một ḿnh là muốn nguôi
sầu giải muộn. Một ḿnh một lừa cứ thấy đường là
đi. Hết núi này sang núi nọ. Cũng không biết đi
bao xa và đi tới đâu."
Ngoài những độc giả đă quá mê Kim Dung, không
nói, một độc giả lần đầu làm quen ông, đọc đoạn
mở như vậy, chắc chắn là vất tác phẩm vào thùng
rác, bĩu môi, đưa ra một lời khinh khỉnh: Thế
này mà bao nhiêu người ca tụng!
Tôi chắc chắn, Đỗ quân cũng bực ḿnh, với một
đoạn mở như vậy.
Bây giờ, chúng ta hăy so sánh với bản dịch của
Nguyễn Duy Chính:
Ỷ Thiên Đồ Long kư
Chương I
Thiên nhai tư quân bất khả vong.
Xuân du hạo đăng, thị niên niên hàn thực, lê hoa
thời tiết.
Bạch cẩm vô văn hương lạn mạn, ngọc thụ quỳnh
hoa đôi tuyết.
Bài từ "Vô Tục Niệm" này vốn là của một vị vơ
học danh gia, cũng là một đạo sĩ ở vào cuối đời
Nam Tống họ Khưu tên Xứ Cơ, đạo hiệu Trường Xuân
Tử. Ông là một trong Toàn Chân Thất Tử, và là
nhân vật xuất sắc nhất của phái Toàn Chân. Trong
"Từ Phẩm" đă bàn về bài từ như sau: "Trường
Xuân, người đời vẫn coi là một vị tiên, nên lời
từ mới hay và xuất sắc đến thế."
Đọc đoạn mở như trên, mới thấy thật lạ, thật kỳ!
Tiếc rằng, Nguyễn Duy Chính đă không dịch nghĩa
cho chúng ta, những ǵ "Thiên nhai tư quân",
những ǵ "Xuân du hạo đăng…". May thay, ngay sau
đó, Kim Dung giải thích:
"Bài từ tuy nói về hoa lê, nhưng thật ra là để
ca tụng một thiếu nữ xinh đẹp, mặc áo trắng…
Khưu Xứ Cơ tặng nàng ba chữ ‘Vô Tục Niệm’ thật
mười phần xác đáng."
Mở ra bằng một bài từ, để ca tụng nhan sắc một
thiếu nữ, tức Tiểu Long Nữ. Từ Tiểu Long Nữ mới
bắt qua Quách Tường, có như vậy người đọc mới
hiểu được tâm trạng của nàng:
"Trên sơn đạo núi Thiếu Thất, tỉnh Hà Nam, có
một thiếu nữ, đang cúi đầu lẩm nhẩm bài từ này.
Cô gái ước chừng mười tám, mười chín tuổi, mặc
áo mầu vàng nhạt, cưỡi một con lừa đen, đi chầm
chậm lên núi, vừa đi vừa nghĩ thầm:
-Chỉ có người như Long tỉ tỉ mới xứng đáng lấy
được chàng mà thôi.
Chữ ‘chàng’ hiển nhiên là nói đến Thần Điêu đại
hiệp…"
Bạn thấy không: nghệ thuật của Kim Dung, hay là
"cái nên thơ của cơ cấu luận". T́nh nọ cuốn lấy
t́nh kia, buồn này đuổi theo buồn nọ, sóng sau
đè sóng trước, rắn luồn trong cỏ, ư thức đuổi
theo cái chết của ư thức (mượn một câu của Hegel
mà Simone de Beauvoir rất mê: Chaque conscience
poursuit la mort de l’autre)…
Ngay đoạn tả sau đó, về cuộc gặp gỡ giữa Côn
Luân Tam Thánh với Quách Tường, như đă tiên
đoán, cơn điên loạn của hai đệ tử của ông sau
này, trước nhan sắc của Hân Tố Tố.
Đây là tiếng đàn khi chưa tương kiến:
"… mỗi lần tiếng đàn lên cao, th́ đàn chim lại
ngưng tiếng, chỉ nghe tiếng vỗ cánh… tiếng đàn
tuy b́nh ḥa trung chính nhưng bên trong có ẩn
một phong vị vương giả…. Phải chăng bản đàn này
là ‘Bách Điểu Triều Phượng"?
Và đây là tiếng đàn khi đă "triều kiến":
"Quách Tường chỉ mới nghe vài nốt, bất giác vừa
mừng vừa sợ. Hoá ra bản đàn này một phần là từ
‘Khảo Bàn’, là khúc mà nàng đă tấu qua [lần
tương kiến trước đó], nhưng một phần khác lại từ
trong thơ ‘Kiêm Gia’, hai bản không cùng một
điệu, nhưng y đă ḥa lại với nhau, một ứng một
đáp, nghe thật là kỳ diệu"… "trong tiếng đàn của
y có nói đến y nhân, chẳng nhẽ nhắc tới ta ư.
Sao điệu đàn có vẻ ư tứ triền miên đến thế, nghe
đầy những nhớ thương cảm mến?"
***
"Vỗ trường kiếm, giương mi lên, nước trong đá
trắng sao xa cách? Thế gian này nếu không có kẻ
tri âm, dù sống đến ngh́n tuổi, phỏng có ích
ǵ?"
Côn Luân Tam Thánh, sau khi chim chóc bay đi
hết, bèn than như trên, rồi vạch kiếm thành bàn
cờ, một ḿnh thủ cả hai vai ta và địch. "Quách
Tường xem cờ xuất thần, từ từ nhích lại gần,
nhưng v́ quân trắng lúc bố cục bị thua một nước,
trước sau vẫn rơi vào hạ phong… nh́n thấy thế
cục… buột miệng nói:
-Sao không bỏ Trung Nguyên đi để lấy Tây Vực?"
Nội câu nói đó đă tiên đoán, thiên hạ sẽ xuất
hiện một môn phái mới: Côn Luân Tam Thánh, thua
trên núi Thiếu Lâm, thề không trở lại Trung
Nguyên, trở về Tây Vực, lập thành môn phái Côn
Luân.
Bao nhiêu người được biết đến mối t́nh của Quách
Tường, đều cùng xuất hiện, ở ngay đoạn mở đầu –
chỉ thiếu hai nhân vật trung tâm, là cặp vợ
chồng Dương Quá, Tiểu Long Nữ: Vô Sắc, người
tặng quà mừng sinh nhật. Giác Viễn và Trương
Quân Bảo, hai người này đă gặp Quách Tường,
Dương Quá và Tiểu Long Nữ, khi đuổi theo kẻ trộm
kinh sách. Một mối t́nh câm, và chỉ những người
xứng đáng được biết tới, mới xuất hiện, để rồi
đi vào quên lăng: Quách Tường tới già, ngộ ra,
cắt tóc, đi tu, mở ra môn phái Nga Mi, mà những
người trưởng môn sau đó, đều cũng lao đao với
t́nh, như Diệt Tuyệt Sư thái, Chu Chỉ Nhược.
Trương Quân Bảo sau thành Trương Tam Phong, suốt
đời không gần nữ sắc, "người nhà trời", trưởng
môn phái Vơ Đang. Giác Viễn viên tịch, sau khi
đọc Cửu Dương chân kinh lần chót. Vô Sắc biệt
tích giang hồ…
Bây giờ chúng ta hiểu, tại sao (tên gọi) Vô Kỵ;
tại sao Kỷ Hiểu Phù, nữ đệ tử Nga My, thà để cho
sư phụ đánh bể đầu, nát thây, chứ không chịu chỉ
chỗ ở của Quang Minh Hữu Sứ Dương Tiêu, và tại
sao nàng đặt tên con là Bất Hối.
Con trai là phải vô kỵ: Chẳng uư kỵ ǵ hết!
C̣n gái là phải bất hối!
Đừng hối tiếc ǵ hết!
Như trong ca dao:
Cho nhau chẳng tiếc ǵ nhau,
Về nhà mẹ hỏi:
Qua cầu gió bay!
***
Vô Kỵ giữa chúng ta: Tang Loạn Thiếp?
Với cơn sốt chưởng Kim Dung tại Sài G̣n hồi đó,
thật khó mà có một bản dịch cho ra hồn. Ấy là
chưa kể những Kim Dung giả như Hậu Cô Gái Đồ
Long… Ngay cái tên "Cô Gái Đồ Long" thay v́ "Ỷ
Thiên Đồ Long kư", là cũng để qua mặt Bộ Thông
Tin, với qui định, mỗi nhật báo chỉ được đăng
tối đa hai truyện chưởng. Thành thử một bản dịch
chính xác, như của Nguyễn Duy Chính là hết sức
cần thiết. Theo như trang Web có đăng truyện
dịch của ông, Nguyễn Duy Chính tốt nghiệp Quốc
Gia Hành Chánh Sài G̣n, hiện đang sống tại
California với phu nhân và ba người con. Ông là
người thích đọc sách, ham nghiên cứu văn học
Trung Hoa. Riêng về truyện vơ hiệp, ông đă dịch
xong Ỷ Thiên Đồ Long Kư, Việt Nữ Kiếm, Bạch Mă
Khiếu Tây Phong, Uyên Ương Đao, và hiện đang
dịch Thiên Long Bát Bộ của Kim Dung.
Nếu không có bản dịch của Nguyễn Duy Chính,
chúng ta không thể biết được "tiền thân" của môn
vơ công có tên là "Đồ Long Công" mà Đỗ Long Vân
đă nhắc tới; nhờ nó mà Trương Thúy Sơn và Hân Tố
Tố được Tạ Tốn tha chết, tại đại hội Giương Đao
Lập Oai, và sau đó là cuộc hành tŕnh thần tiên
xa lánh vơ lâm giang hồ, và loài người, tới Băng
Hoả Đảo…
Sau đây là đoạn văn do Nguyễn Duy Chính dịch
thuật liên quan tới Đồ Long Công:
"… Chỉ thấy Trương Tam Phong đi lại một hồi,
ngửng đầu ngẫm nghĩ, bỗng nhiên đưa tay phải,
tại không trung làm bút viết lên thành chữ.
Trương Tam Phong cả văn lẫn vơ đều thông, ngâm
thơ viết chữ, học tṛ đều biết nên cũng không
lấy làm lạ. Chàng [Trương Thúy Sơn] theo dơi nét
bút ở tay, hóa ra ông viết đi viết lại mấy lần
hai chữ ‘tang loạn’[tai nạn lớn, catastrophe,
chú thích của Nguyễn Duy Chính], rồi lại viết
hai chữ ‘đồ độc’ [làm thương tổn, phục độc, to
injure, to poison. NDC]. Trương Thúy Sơn trong
ḷng rung động, nghĩ thầm: ‘Sư phụ trong ḷng
nghĩ đến "Tang Loạn Thiếp’…. Khi đó chàng thấy
sư phụ dùng ngón tay làm bút, đạt đến t́nh trạng
‘không nét nào duỗi ra mà không thu vào, không
nét nào đi rồi mà không quay lại’, chính là bút
ư của Vương Hi Chi trong ‘Tang Loạn Thiếp’…. Lúc
này, chàng thấy sư phụ đưa tay viết liên tiếp:
‘Hi Chi đốn thủ, tang loạn chi cực, tiên mộ tái
ly đồ độc, truy duy kháo thậm’ mười tám chữ, mỗi
chữ đều tràn đầy uất hận bi phẫn, nên bỗng cảm
thông được tâm t́nh Vương Hi Chi khi viết ‘Tang
Loạn Thiếp’.
Vương Hi Chi là người Đông Tấn, lúc đó trung
nguyên đang rối ren, rơi vào tay dị tộc. Họ
Vương, họ Tạ là những gia đ́nh có thế lực nay
phải di cư xuống miền Nam tránh giặc, trong cái
tai biến đó, phần mộ của ông cha bị dày xéo,
khiến những đau khổ trong ḷng không sao phát
tiết ra cho hết, nên tất cả những uất ức đều thể
hiện trong bài Tang Loạn Thiếp. Trương Thúy Sơn
đang tuổi thanh niên, không lo không sầu, trước
đây làm sao lănh hội được những thâm ư trong bài
thiếp? Lúc này gặp phải cảnh đại họa, không biết
sống chết ra sao của sư huynh mới hiểu được hai
chữ ‘tang loạn’, hai chữ ‘đồ độc’, hay bốn chữ
‘truy duy kháo thậm’ (đau khổ cùng cực. NDC).
Trương Tam Phong viết đi viết lại mấy lần, bỗng
thở dài một tiếng, bước tới giữa sân, đứng trầm
ngâm mọt hồi rồi đưa ngón tay, lại bắt đầu viết
chữ. Lần này cách viết chữ hoàn toàn khác hẳn.
Trương Thúy Sơn theo nét bút th́ thấy chữ đầu
tiên là chữ ‘vơ’, rồi đến chữ ‘lâm’, tiếp tục
hai mươi bốn chữ chính là câu người đời thường
truyền tụng ’Vơ lâm chí tôn, bảo đao Đồ Long,
Hiệu lệnh thiên hạ, mạc cảm bất ṭng. Ỷ Thiên
bất xuất, thùy dữ tranh phong.’ Dường như Trương
Tam Phong đang t́m cách suy nghĩ cho ra thâm ư
của hai mươi bốn chữ này để biết v́ cớ ǵ Dư Đại
Nham bị thương? Việc này có liên hệ ǵ đến hai
món thần binh lợi khí là đao Đồ Long và kiếm Ỷ
Thiên?’
Như đă nói, có rất nhiều cách đọc Cô gái Đồ
Long. Chúng ta có thể coi đây là truyền thuyết
về hai món vơ khí tuyệt hảo trong vơ lâm. Ngay ở
đầu truyện, Kim Dung đă hé mở cho thấy một chút
bí mật của nó, qua câu hỏi Dư Đại Nham của viên
cướp bể: ‘Thần điêu đại hiệp Dương Quá đă giết
vua Mông Cổ bằng vơ khí ǵ?’
***
Hăy tưởng tượng Đỗ Long Vân đă/chưa từng học chữ
Nho, đă/chưa từng đọc đoạn nguyên tác trên đây,
và viết ‘Vô Kỵ giữa chúng ta’, mới hiểu được hai
chữ ‘tang loạn’, hai chữ ‘đồ độc’, bốn chữ ‘truy
duy kháo thậm’ đă ám ảnh Đỗ quân như thế nào.
Bởi v́ trong cụm từ ‘tai biến của chúng ta’đă
gói trọn tất cả, nào là tang loạn, nào là đồ
độc… Theo cách đó, có thể coi bản văn "Vô Kỵ
giữa chúng ta"là một cuộc t́m kiếm nguồn cơn của
mọi tai biến của chúng ta, vậy.
Hăy tưởng tượng một chàng thanh niên Hà Nội, con
nhà giầu, được cha mẹ cho qua Tây, học dược để
nối nghiệp nhà làm chủ một cửa tiệm thuốc lớn
ngay bên Bờ Hồ, nhưng thay v́ học để thành dược
sĩ, học văn chương (chắc là gặp tác phẩm Weil ở
Paris), thay v́ ở lại nước ngoài để trốn cuộc
chiến, trở về, dạy đại học Huế, rồi bỏ dạy học,
không phải để lên rừng mà đành để bị bắt đi
lính.
***
Hăy nhớ đến tôi,
hạt bụi [họ Đỗ] nói.
(
xem tiếp Kỳ 5
)
Những câu trích từ bài viết làm đề từ, là do
người giới thiệu bầy đặt ra, như một cách hiểu,
hoàn toàn mang tính cá nhân, tức chủ quan, bài
viết của Đỗ quân, và những vấn đề mà bài viết
đặt ra.