UYÊN THÚY LÂM

 

 

T̀NH SỬ CỔ LOA THÀNH

 

Truyền thuyết Mỵ Châu  ( Tranh Nguyễn Trọng Khôi )

 


Trong cung cấm sao chàng lặng lẽ,
Không cười vui bên thiếp hiền ngoan.
Chung mỹ tửu chiều nay ướp lệ
Chàng không vui, ḷng thiếp ngỡ ngàng.

Khúc Nghê-Thường xiêm y rực rỡ,
Rượu Bồ-đào cùng uống chung môi.
Hồi cố quốc chàng xa một thuở
Rồi lại quay về ta sánh đôi.

Chàng đi ngàn dặm ngoài biên ải,
Ḷng thiếp theo chàng đến cố cung.
Đâu biết lần đi là măi măi
Đời không cho nữa, phút tương phùng!

Ngàn dặm trông theo hút bóng chàng
Trường -đ́nh quạnh vắng chẳng tin sang.
Thẩn thờ gối chiếc canh thâu vắng
Một nửa vầng trăng luống bẽ bàng!

Tin hồng chưa lại đă can qua
Binh biến nghiêng trời đất Cổ-Loa.
Cha vững tin nỏ thần linh nghiệm
Thiếp cũng nào hay chuyện chính tà.

Nỏ tráo móng thiêng, thành đă mất,
Em bên cha trên bước bôn đào.
Nước mất, tim đau ḷng quặn thắt
T́m chàng đâu muôn nẻo binh đao?!

Đâu ngờ chàng mang tâm bội bạc,
Chia tay c̣n hẹn buổi tao phùng.
Lỡ binh biến phận người trôi dạt
Lông ngỗng đưa đường cho trọn t́nh chung.

Lông ngỗng trắng rơi dài tuyệt lộ
Nặng t́nh ai đâu cảnh giác chi cùng.
Sống hết ḷng ḿnh như thác đổ
Em yêu chàng vô thủy, vô chung!

Thần phán rằng: “Nàng là giặc dữ”
Cha nh́n lông ngỗng trắng sơn khê
Ḷng con vằng vặc như sao tỏ
“Phụ vương ơi! Oan khuất con về...”

Lời hẹn thề xưa chàng đă trễ
Giếng xưa chôn một khối u t́nh.
Sóng biển đă chan ḥa máu lệ
Duyên ḿnh tan tác bởi đao binh!!!

Ngọc trai nàng rực sáng long lanh
Khi rửa vào trong giếng Cổ thành.
Tham đoạt đế quyền rồi cũng tắt
C̣n vầng mây đáy giếng mông mênh

Giếng Ngọc xưa chôn vùi hận cũ,
Giả hiếu ḥa để chiếm cơ đồ.
Thành Cổ Loa điêu tàn sương phủ,
Lầm một lần, hận đến thiên thu!

Bạc t́nh chàng quên nghĩa phu thê
Quên cả lời xưa buổi hẹn về.
Đem tấm t́nh son vùi gió cát
Đất rộng trời cao thẹn ước thề!

Phụ t́nh chàng quên cả ân sâu
Mưu đồ tham vọng giết đời nhau.
Nàng sống trọn ḷng không giới hạn
T́nh sử ngàn năm tiếc Mỵ Châu...
 


UYÊN THUƯ LÂM
 




VINH HỒ

 VỀ BÀI THƠ

T̀NH SỬ CỔ LOA THÀNH
 

          Năm 2011, thi sĩ Uyên Thúy Lâm có làm một bài thơ tựa đề: T̀NH SỬ CỔ LOA THÀNH

Trong đó chuyên chở t́nh cảm/thái độ của ḿnh đối với hai nhân vật lịch sử Trọng Thủy-Mỵ Châu (TT-MC).

1. Trước khi t́m hiểu Bài thơ T̀NH SỬ CỔ LOA THÀNH xin lược qua truyền thuyết:

Thục Phán An Dương Vương (257 tr.TL - 208 tr.TL) xây thành Cổ Loa bị yêu quái phá, nhờ thần Kim Quy giúp mới xây xong. Thần cho cái móng thiêng, Vua sai Cao Lỗ làm nỏ thần, lấy móng thiêng làm lẫy, đặt tên là Linh Quang Kim Trảo Thần Nỏ bắn 1 phát giết ngh́n quân giặc, đánh bại quân xâm lược Triệu Đà. Đà sai sứ đến giảng ḥa, Vua mừng. Năm 208 (tr.TL [trước tây lịch]) Đà sai con là Trọng Thủy vào hầu làm túc vệ, cầu hôn con gái vua là Mỵ Châu. Vua không nghe lời Cao Lỗ can ngăn, bằng ḷng cho cưới và ở rể. Trọng Thủy dỗ Mỵ Châu để xem trộm nỏ thần, rồi ngầm bẻ găy lẫy nỏ, thay cái khác vào, giả vờ về Bắc thăm cha mẹ, bảo Mỵ Châu rằng: “Ân t́nh vợ chồng không thể quên nhau, nếu lỡ hai nước không ḥa, Nam-Bắc cách biệt, ta lại tới đây th́ làm thế nào mà t́m thấy nhau?” Mỵ Châu nói: “Thiếp có cái áo gấm lông ngỗng, thường mang theo ḿnh, đi đến đâu th́ rút lông ngỗng rắc ở chỗ đường rẽ để làm dấu.” Trọng Thủy về báo cho Đà biết. Đà đem quân đến đánh, vua không biết lẫy nỏ đă mất, ngồi đánh cờ cười mà bảo: “Đà không sợ nỏ thần của ta sao?” Quân của Đà tiến sát đến nơi, vua giương nỏ th́ lẫy đă găy rồi. Vua thua chạy, để Mỵ Châu ngồi trên ngựa, cùng chạy về phía nam.

Trọng Thủy nhận dấu lông ngỗng đuổi theo. Vua đến bờ biển, hết đường mà không có thuyền, liền gọi rùa vàng mấy tiếng: “Mau đến cứu ta!” Rùa vàng nổi lên mặt nước, mắng rằng: “Kẻ ngồi sau ngựa là giặc đấy, sao không giết đi?” Vua rút gươm, Mỵ Châu khấn rằng: “Trung tín trọn tiết, bị người đánh lừa, xin hóa thành ngọc châu để rửa thù nhục này.” Cuối cùng vua vẫn chém Mỵ Châu, máu chảy loang mặt nước, loài trai nuốt vào bụng, hóa làm hạt minh châu. Vua cầm sừng tê văn dài 7 tấc xuống biển mà đi. Trọng Thủy đuổi theo đến nơi, thấy Mỵ Châu đă chết, thương khóc ôm xác đem về chôn ở Loa Thành, hóa làm đá ngọc. Trọng Thủy nhớ tiếc Mỵ Châu, trở lại chỗ Mỵ Châu tắm gội trang điểm khi trước, thương nhớ không nguôi, cuối cùng nhảy xuống giếng mà chết.

Tương truyền ngọc ấy đem rửa nước giếng Trọng Thủy th́ trong sáng bội phần. Hiện nay giếng Trọng Thủy (TT), am Mỵ Châu (MC), đền An Dương Vương (ADV) vẫn c̣n ở Cổ Loa, Bắc Việt. (Theo Đại Việt Sử Kư Toàn Thư).

2. Trong bài thơ T́nh Sử Cổ Loa Thành (TSCLT) của ḿnh, nhà thơ Uyên Thúy Lâm (UTL) không ghi lại từ đầu câu chuyện cổ tích, mà chỉ ghi lại từ lúc Trọng Thủy (TT) từ biệt vợ về cố quốc cho đến hết chuyện, bằng những vần thơ thất ngôn buồn vời vợi.

Bữa tiệc tiễn chồng nơi cung cấm có Bồ đào mỹ tửu, có khúc Nghê Thường với xiêm y rực rỡ, nhưng tất cả đều trở nên vô vị:

Trong cung cấm sao chàng lặng lẽ
Không cười vui bên thiếp hiền ngoan
Chung mỹ tửu chiều nay ướp lệ
Chàng không vui, ḷng thiếp ngỡ ngàng

Khúc Nghê Thường xiêm y rực rỡ
Rượu Bồ đào cùng uống chung môi
Hồi cố quốc chàng xa một thuở
Rồi lại quay về ta sánh đôi


Tựa đề là “T́nh sử Cổ Loa Thành” nhưng nội dung là lời than thở, nỗi niềm tâm sự sầu khổ của Mỵ Châu (MC) là nhân vật chính. Mọi sự việc đều được ghi nhận, diễn tả qua lăng kính tâm hồn nàng.

Thiên t́nh sử rất dài, nhưng tác giả Uyên Thúy Lâm chỉ chọn phần đời bi thảm, nhờ thế mà cường độ xúc cảm trong thơ rất mạnh, bố cục bài thơ chặt chẽ nhất quán. Giống như chuyện Lưu-Nguyễn rất dài nhưng Tản Đà chỉ ghi lại khoảnh khắc tâm trạng Lưu-Nguyễn khi từ biệt cảnh Thiên Thai mà thôi.

Như trên đă nói, trong bữa tiệc tiễn đưa, người về thành Phiên Ngung trên danh nghĩa thăm cha, người ở lại thành Cổ Loa nước Âu Lạc tức nước Việt xưa, tác già Uyên Thúy Lâm chọn lọc t́nh tiết, tâm lư, ngôn ngữ thật đẹp và sử dụng thể thơ trường thiên thất ngôn tứ tuyệt vốn có âm điệu cổ kính trầm buồn: để giới thiệu một cuộc t́nh diễm lệ, độc đáo, tuyệt vời (không thua một cuộc t́nh nào trên thế giới). Thiển nghĩ chọn chủ đề khó khăn này, ngay bước đầu tác giả cũng đă cho thấy sự can đảm và tự tin nơi cây bút của ḿnh.

Chúng ta biết chuyện t́nh Romeo-Juliette của đại văn hào Shakespeare đă vượt lên trên biên giới hận thù của hai ḍng họ, nhưng chuyện t́nh Trọng Thủy-Mỵ Châu c̣n bay cao hơn, đă vượt lên trên biên cương thù hận của hai quốc gia, hai chủng tộc, trở thành bản giao ước bất thành văn chấm dứt chiến tranh, tái lập ḥa b́nh cho hai nước thù địch từng đánh nhau khốc liệt do Triệu Đà xua quân xâm lược trước đó. Trọng Thủy tự tử chứng tỏ t́nh yêu quá vĩ đại coi thường cả ngai vàng, lợi danh, phản kháng chiến tranh xăm lược, thủ phạm gây ra cảnh chia ĺa chết chóc của đôi trẻ đang yêu.

Qua đó có thể nói văn minh Âu Lạc vào cuối thời kỳ lập quốc (Văn Lang-Âu Lạc (2879 tr.TL - 258 tr.TL) - (257 tr.TL - 208 tr.TL) đă để lại cho chúng ta một tác phẩm văn học (chuyện cổ tích) chủ đề t́nh yêu/chiến tranh thật vô cùng bi tráng, lăng mạn, giàu nhân bản, vĩ đại hàng đầu trong văn học sử thế giới kim-cổ cùng thể loại.

Nay cuộc t́nh ấy được tái hiện trong thơ Uyên Thúy Lâm đầy tính vương giả, t́nh tứ, lăng mạn và đẹp qua h́nh ảnh “rượu Bồ đào cùng uống chung môi” và qua niềm hy vọng đoàn viên trong ḷng cô Công chúa trẻ đang yêu “rồi lại quay về ta sánh đôi.” Tác giả tả đúng tâm trạng ngây thơ hồn nhiên trong sáng của cô Công chúa khi dùng 2 chữ “hiền ngoan” cũng như đă điểm trúng huyệt hai nhân vật qua hai câu thơ sau:

Trong cung cấm sao chàng lặng lẽ,
Không cười vui bên thiếp hiền ngoan.


Trong lúc nàng hiền ngoan như viên ngọc trai chưa lấm bụi trần, chưa một lần t́ vết th́ chàng lại khác: “lặng lẽ, không cười vui.” Mà cười vui sao đuợc khi trong ḷng đang chồng chất ngổn ngang bao toan tính và thủ đoạn chết người. Dưới ng̣i bút tinh tế, Tác giả Uyên T Lâm kín đáo cho thấy đó chính là đám mây xám vừa bay ngang qua bầu trời tím báo hiệu trong 5 chữ vừa nêu.

Cho dù Trọng Thủy tay gián điệp tài ba giỏi giấu diếm, che đậy thế nào, cũng không giữ được trăm phần tự nhiên khi đối diện với giai nhân, ng̣i bút Uyên T Lâm đă tinh tế đến như vậy. Nhưng cái bi đát lại nằm ở chỗ Mỵ Châu không nh́n thấy, không ngờ tới. Ngay trong lời nói từ cửa miệng Trọng Thủy thốt ra: “nếu lỡ hai nước không ḥa, Nam-Bắc cách biệt” nàng cũng không thắc mắc, vẫn nhất mực “hiền ngoan”! Tác giả đă diễn tả quá chính xác t́nh tiết và tâm lư hai nhân vật.

Hai khổ thơ kế tiếp kết cấu bằng những âm “bằng” trầm buồn “tương phùng, bẽ bàng” đặt ở cuối mỗi khổ tạo ra không khí năo nề, u uất trong ḷng người đọc. “Chàng đi ngàn dặm ngoài biên ải, ḷng thiếp theo chàng đến cố cung” làm nhớ cảnh chia ly trong Chinh Phụ Ngâm (Chàng th́ đi cơi xa mưa gió, thiếp lại về buồng cũ gối chăn) năo nùng, bi xúc! Nỗi ḷng Mỵ Châu qua thơ UTL không khác nỗi ḷng Kiều ở Lầu Ngưng Bích bời bời nhớ thương: “Trường đ́nh quạnh vắng chẳng tin sang, đâu biết lần đi là măi măi, đời không cho nữa phút tương phùng!”.

Tác giả báo động tấn thảm kịch chiến tranh nhơ nhuốc, bỉ ổi, đầy thủ đoạn đê hèn sắp sửa đổ ụp lên Cổ Loa Thành. Những chữ “trường đ́nh quạnh vắng, canh thâu vắng” chữ vắng lặp đi lặp lại là cố ư tạo ra khoảng không gian vắng lặng đồng nghĩa với “im lặng là sự chuẩn bị của một cơn băo” hay của một sự dời đổi kinh thiên động địa:

Chàng đi ngàn dặm ngoài biên ải
Ḷng thiếp theo chàng đến cố cung
Đâu biết lần đi là măi măi
Đời không cho nữa, phút tương phùng!

Ngàn dặm trông theo hút bóng chàng
Trường đ́nh quạnh vắng chẳng tin sang
Thẫn thờ gối chiếc canh thâu vắng
Một nửa vầng trăng luống bẽ bàng!


Vâng, Tác giả Uyên Thúy Lâm không bắt độc giả chờ lâu. Băo đă thổi, can qua đă ngập tràn:

Tin hồng chưa lại đă can qua
Binh biến nghiêng trời đất Cổ Loa.


Cả hai cha con đứng đầu vận mệnh một dân tộc/quốc gia, mà ai cũng bàng quang, thơ ngây, hiền lành, vô trách nhiệm. Con th́ nhẹ dạ cả tin, cha th́ mất cảnh giác, chủ quan, khinh địch. Tất cả đều mù quáng tin vào cuộc liên minh “ḥa hiếu” ma quỷ, tin vào lời đường mật “hôn nhân” ru ngủ của kẻ thù đồng nghĩa với sự tự đào huyệt chôn ḿnh, đưa dân tộc vào ṿng nô lệ ngàn năm. Ngoài biên ải không pḥng bị, nơi quốc pḥng không canh tân luyện tập, trong nhà chứa chấp kẻ gian mà qua bao năm trời chẳng hề hay biết. Nỏ thần (bí mật quân sự) đă lọt vào tay địch mà cũng chẳng ai hay.

Trong truyền thuyết nói: “Đà đem quân đến đánh vua, vua không biết lẫy nỏ đă mất, ngồi đánh cờ cười mà bảo: ‘Đà không sợ nỏ thần của ta sao’. ‘Mỵ Châu không ngần ngại, chạy ngay vào chỗ cha nằm, lấy nỏ đem ra cho chồng xem. Nàng lại chỉ cho chàng biết cái lẫy vốn là chiếc móng chân thần Kim Quy và giảng cho Trọng Thủy nghe biết cách bắn.’”

Bi đát ở chỗ cả hai cha con (cũng là vua tôi) đều hoàn toàn mất cảnh giác:

Cha vững tin nỏ thần linh nghiệm
Thiếp cũng nào hay chuyện chính tà.


Giặc đă đánh tráo nỏ thần, thành đă mất, cha con đă lên ngựa bôn đào, mà cô Công chúa vẫn chưa biết chồng ḿnh là gián điệp, là giặc hiện đang tấn công Cổ Loa thành. Kể cũng lạ thật! Con vua sao đến nỗi dại khờ! Cùng đường chết tới nơi rồi, mà vẫn nuôi ư tưởng t́m chàng “t́m chàng đâu muôn nẻo binh đao?!”. Và vẫn mơ tưởng gặp lại chàng khi thả đầy lông ngỗng trên bước đường thập tử. Qua đó, ta thấy t́nh yêu của nàng thật là hồn nhiên. Hồn nhiên như tờ giấy trắng, mănh liệt như thác đổ, và mênh mông vô cùng tận:

Nỏ tráo móng thiêng, thành đă mất
Em bên cha trên bước bôn đào
Nước mất tim đau ḷng quặn thắt
T́m chàng đâu muôn nẻo binh đao?!

Lông ngỗng trắng rơi dài tuyệt lộ
Nặng t́nh đâu cảnh giác chi cùng
Sống hết ḷng ḿnh như thác đổ
Em yêu chàng vô thủy, vô chung!


Đến khi Thần Kim Quy hiện ra phán, th́ cha con mới hiểu sự thật. Tỉnh ngộ muộn màng. Vua (và cha) th́ u mê, chủ quan, khinh địch, coi sự vui chơi cá nhân là trên hết. Tôi (và con) th́ đặt t́nh riêng trên đất nước. Trách nhiệm vua tôi, cha con như thế hỏi sao không quốc phá gia tan? Cái chết bi thảm phải nhận lănh cũng là lẽ thường t́nh:

Thần phán rằng: “Nàng là giặc dữ”
Cha nh́n lông ngỗng trắng sơn khê
Ḷng con vằng vặc như sao tỏ
Phụ vương ơi! Oan khuất con về...


Tất cả đă tan nát, lời thề xưa đă trễ, duyên t́nh đă tan và đế quyền cũng tắt. Chỉ c̣n một “khối u t́nh” chôn giếng xưa, chảy tràn trên biển sóng. Khối t́nh sẽ sáng trong đẹp đẽ khi hai trái tim được ḥa vào nhau, khi ngọc trai được rửa giếng cổ thành:

Giếng xưa chôn một khối u t́nh
Sóng biển đă chan ḥa máu lệ
Duyên ḿnh tan tác bởi đao binh


Ngọc trai nàng rực sáng long lanh
Khi rửa vào trong giếng Cổ thành
Tham đoạt đế quyền rồi cũng tắt
C̣n vầng mây đáy giếng mông mênh!


Bằng trái tim đa cảm, tác giả UTL không thể kết án Mỵ Châu nặng lời mà chỉ “tiếc” cho nàng. Bao nhiêu oán giận Tác giả đổ hết lên đầu Trọng Thủy. UTL dùng 2 lần chữ quên “bạc t́nh chàng quên, phụ t́nh chàng quên” để kết tội Trọng Thủy. Đúng thế, TT đáng trách! Tàn ác, lừa dối, thủ đoạn, gian manh. Trong lúc MC đặt t́nh yêu lên trên tất cả, th́ TT lại xem nhẹ t́nh nàng, mượn t́nh yêu để phục vụ cho ư đồ đen tối. Tuy nhiên khi đă đạt được mộng xâm lăng th́ hốt nhiên giác ngộ, thức tỉnh, ân hận, lương tâm dày ṿ, rồi đâm đầu xuống giếng chết giống như Giu-đa hối hận quăng 30 đồng bạc rồi đi treo cổ sau khi đă bán Chúa Giê-su.

Chính cái chết của Trọng Thủy dưới giếng sâu đă làm cho cuộc t́nh thăng hoa, bất tử và có ư nghĩa: t́nh yêu vượt lên trên mọi giới hạn đời thường, từ chối địa vị, danh vọng, giàu sang, những thứ dễ dàng làm sa đọa tâm hồn, dễ biến con người thành lạc đà trước lỗ kim của cánh cửa thiên đường, và sau cùng là tiếng nói nhân bản phản kháng chiến tranh xâm lược. Nếu TT ôm ngôi cao th́ t́nh sử Cổ Loa Thành không c̣n ǵ đẹp đẽ nữa:

Bạc t́nh chàng quên nghĩa phu thê
Quên cả lời xưa buổi hẹn về
Đem tấm t́nh son vùi gió cát
Đất rộng trời cao thẹn ước thề!

Phụ t́nh chàng quên cả ân sâu
Mưu đồ tham vọng giết đời nhau
Nàng sống trọn ḷng không giới hạn
T́nh sử ngàn năm tiếc Mỵ Châu.


Cám ơn tác giả Uyên Thúy Lâm đă cho chúng ta sống lại một thời huyền sử với đầy đủ cảm xúc yêu ghét giận hờn trước các nhân vật, đồng thời nhận ra t́nh yêu vĩ đại cùng sự bất hạnh quá lớn của họ. Không biết trong văn học sử thế giới có nhân vật nào đau thương như Công chúa Mỵ Châu?

3. T́nh sử TT-MC c̣n có một giá trị tiềm ẩn: văn hóa người Việt cổ nhân hậu nhân bản đối nghịch với văn hóa người Hán tàn độc phi nhân bản, mà sau này Nguyễn Trăi có nói trong B́nh Ngô Đại Cáo:

Đem đại nghĩa thắng hung tàn,
Lấy chí nhân thay cường bạo.


Ở đời “thiện tất thọ lăo, ác tất tảo vong”, sau khi ADV chết, VN rơi vào ṿng nô lệ 1 ngh́n năm, dân Việt liên tục nổi dậy giành độc lập và cuối cùng đă thắng, bởi dân Việt mất nước nhưng không đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc, t́nh yêu nước sinh ra từ đó. Bản sắc văn hóa của chúng ta cao đẹp, đó là tinh thần nhân hậu nhân bản tiềm tàng suốt chiều dài lịch sử. Qua huyền sử, tổ tiên nhắn nhủ dù trong hoàn cảnh tang thương dâu bể nào cũng phải giữ ǵn bản sắc văn hóa Việt. Đó là đại nghĩa, chí nhân chống lại hung tàn, cường bạo. Cha con ADV-MC đối xử với họ bằng ḥa b́nh, nhân ái, th́ cha con họ đối xử ngược lại bằng thủ đoạn, chiến tranh. Ngay trong t́nh vợ chồng, Mỵ Châu đối xử với chồng bằng sự tin yêu, thật thà, trong sáng, th́ Trọng Thủy lại đối xử ngược lại bằng sự lợi dụng, dối trá, đen tối. Nhưng kết cuộc “trời bất dung gian”, “chánh vẫn thắng tà” chính cái “nặng t́nh” chính cái t́nh mănh liệt “như thác đổ, vô thủy vô chung” của nàng đă cảm hóa Trọng Thủy quay về với lương tâm đạo lư, quay lưng lại với vinh hoa và tự kết liễu đời ḿnh cho trọn nghĩa tào khang. Triệu Đà tham vọng xây bá đồ vương cho đứa con trai, nay nghe hung tin nó đă tự tử, th́ sự tức giận, sầu khổ, tan nát trong ḷng ông ta sẽ như thế nào?

Lông ngỗng trắng rơi dài tuyệt lộ
Nặng t́nh đâu cảnh giác chi cùng
Sống hết ḷng ḿnh như thác đổ
Em yêu chàng vô thủy, vô chung!


Ngày nay, am thờ Mỵ Châu vẫn c̣n ngoài Bắc. H́nh tượng MC qua tảng đá không đầu là một h́nh phạt nghiêm khắc mà tiền nhân đă dành cho nàng để làm bài học cảnh giác trước mưu đồ ma quỷ của Bắc phương. Nước mất nhà tan, người chịu trách nhiệm chính là ADV, triều đ́nh... MC là con là bề tôi cũng phải chịu tội, đó là tiết lộ bí mật quốc pḥng, đặt t́nh riêng lên trên đất nước, rải lông ngỗng dẫn đường quân giặc, không nh́n ra dă tâm của người đầu ấp tay gối. Cho nên sau 22 thế kỷ tác giả Uyên Thúy Lâm vẫn c̣n “tiếc”: T́nh sử ngàn năm tiếc Mỵ Châu.

4. T́nh sử Trọng Thủy - Mỵ Châu thiển nghĩ không chỉ giới hạn ở giá trị văn học (bi kịch t́nh yêu), đạo đức (nhân bản) như đă tŕnh bày, mà c̣n có giá trị về lịch sử (bi kịch mất nước). Đây mới chính là bài học xương máu, bài học cảnh giác, thông điệp vàng ṛng mà tổ tiên muốn gởi đến con cháu trong xây dựng và bảo vệ đất nước trước mưu đồ đen tối của kẻ thù truyền kiếp.

Tôi hiểu tác giả UTL đưa lên Diễn Đàn bài thơ T́nh Sử Cổ Loa Thành trong lúc t́nh h́nh đất nước lâm nguy (đang bị Trung cộng Hán hóa, xâm nhập, bành trướng, chiếm đất, chiếm biển) là tâm huyết, là ḷng yêu nước trăn trở thao thức, muốn nhắc nhở, tô đậm lại bài học mất cảnh giác dẫn đến mất nước năm xưa:

Lông ngỗng trắng rơi dài tuyệt lộ
Nặng t́nh đâu cảnh giác chi cùng.


Đúng như nhận xét của nhà thơ NXVạn sau khi đọc T́nh Sử Cổ Loa Thành:

Bài học Cảnh giác là bài học có giá trị ngàn năm, mà gương người xưa nhắc nhở chúng ta trong việc Giữ nước, phải luôn luôn đề cao cảnh giác trước mưu thần chước quỷ của kẻ xâm lăng. Ngày nay, trước họa xâm lược của Hán gian, có lẽ chúng ta c̣n cần ôn lại nhiều hơn nữa, bài học mất cảnh giác đă đưa đến mất cả giang sơn như người xưa đă để mất!.

Chưa bao giờ bài học cảnh giác phù hợp với hiện t́nh đất nước như bây giờ. Nh́n qua, chúng ta thấy rơ những ai là ADV, TT, Mỵ Châu? Đâu là cuộc hôn nhân ḥa hiếu ma quỷ, đâu là lông ngỗng trắng dẫn đường quân giặc? T́nh h́nh VN hiện nay giống y như t́nh h́nh Âu Lạc xưa: Triệu Đà tấn công Âu Lạc thất bại xin kết thông gia ḥa hiếu, Đặng Tiểu B́nh đánh 6 tỉnh phía Bắc thất bại đưa ra 4 tốt 16 chữ vàng; Trọng Thủy ra vào thành Cổ Loa hợp lệ tự do hoạt động và đi lại bất cứ chỗ nào, Dân Tầu ra vào Việt Nam khỏi hộ chiếu, nghênh ngang lập phố Tàu, khai thác bauxite, lũng đoạn kinh tế, chính trị, văn hóa, xă hội, dùng hóa chất đầu độc diệt chủng, lấn chiếm biên giới đảo biển, bắt bớ bắn giết ngư dân, bao nhiêu trọng điểm chiến lược (Ải Nam Quan, Lăo Sơn, Biển Đông, Hoàng Sa, Trường Sa...) rơi vào tay giặc, bao nhiêu An Dương Vương thời nay thi nhau hưởng thụ đặt quyền lợi cá nhân phe nhóm lên trên sự tồn vong của đất nước dân tộc; bao nhiêu Cao Lỗ thời nay bị bạc đăi, lưu đày? Nếu Tàu cộng xua quân đánh úp như Triệu Đà th́ số phận VN có giống như số phận Âu Lạc năm xưa không?

Mong rằng bài học cảnh giác mà tác giả Uyên Thúy Lâm gởi gắm trong bài thơ T̀NH SỬ CỔ LOA THÀNH sẽ làm cho những người đang nắm giữ vận mệnh quốc gia mau thức tỉnh, mau thoát ra khỏi quỹ đạo Tàu cộng, noi gương Nhật Bản, Thái Lan kết thân với thế giới tự do, củng cố quốc pḥng, canh tân đất nước, quyết không trở thành những ADV, Mỵ Châu, quyết tránh một Tây Tạng thứ hai. Và nên nhớ rằng một lần mất cảnh giác là một ngh́n năm nô lệ. Chưa bao giờ bài học TT-MC lại hệ trọng cần thiết như bây giờ.
 


Vinh Hồ

( Trích trong bài viết NGHỊ LUẬN VỀ CHUYỆN T̀NH LỊCH SỬ BI THƯƠNG TRỌNG THỦY & MỊ CHÂU  )

 

 

~~oOo~~
 

art2all.net