Đặng Tiến

Con Nhện Vương Tơ

 

 

Nghệ thuật gắn liền với thời đại, cụ thể là với đời sống vật chất của từng xă hội. Nghệ thuật sinh hóa, biến thể và có khi biến mất. Các bộ môn văn nghệ dân gian, gắn liền với sinh hoạt nông nghiệp và xă hội nông thôn dần dần lùi vào dĩ văng của từng dân tộc một. Ca dao, dân ca Việt Nam cũng chịu chung quy luật đó.

Thế hệ chúng ta c̣n may mắn tiếp xúc với dĩ văng của dân tộc qua những văn bản ca dao, những làn điệu ghi âm, hay vài ba buổi tŕnh diễn. Nhưng cái không khí dân gian th́ đă xa xăm. Điệu ḥ mái đẩy năo nùng tiếng sương, lời chào giă bạn nửa đêm về sáng và tiếng ḥ lơ trong rừng tràm rừng đước, chúng ta c̣n được nghe những điệu hát đă tách rời ra khỏi không gian. Chúng ta c̣n những đêm rằm mà đă mất ánh trăng.

Loạt bài này rủ rê bạn trở về với ca dao, suy nghĩ thêm về những lời thơ quen thuộc, qua vài ba chủ đề. Thử bắt đầu bằng h́nh ảnh, thân phận người phụ nữ.

 

*

Đêm khuya ra đứng bờ ao

Trông cá, cá lặn ; trông sao, sao mờ.

Buồn trông con nhện vương tơ,

Nhện ơi nhện hỡi, nhện chờ mối ai ?

Buồn trông chênh chếch sao mai

Sao ơi sao hỡi, nhớ ai mà mờ…

 

Khuya. Thời gian sâu thẳm nhất của tâm tư. Nó khắc khoải hơn buổi chiều ; buổi chiều thương nhớ mong manh, cô đọng lắm th́ cũng chỉ « tan thành lệ ». Khuya là những tra vấn dằn vặt, những hoang mang, những đau buồn vô vọng. Khuya là lúc duy nhất người phụ nữ sống với chính ḿnh sau một ngày dài lao động và chịu đựng, khuya là thời gian mà ư thức về thân phận xoáy sâu vào tâm tư người phụ nữ, đối diện với chính ḿnh :

 

Anh buồn c̣n có chỗ thở than

Em buồn như ngọn nhang tàn thắp khuya

 

Ư thức thân phận ở đây là đóm lửa nhỏ nhoi hắt hiu trong bóng đêm dày đặc, đang tắt dần, tắt dần, một cách tuyệt vọng và bất khả kháng. Cũng có những canh khuya trong sáng và rộng thoáng hơn :

 

Sáng trăng sáng cả đêm rằm

Nửa đêm về sáng trăng nằm đọt tre

Anh có yêu em cho trọn mọi bề

Để em thấp thỏm ngồi kề bóng trăng

 

Canh khuya ở đây có ánh sáng của hy vọng, của đợi chờ, nhưng đặc biệt là niềm lo sợ, hoang mang của người đàn bà thụ động, không bao giờ làm chủ được đời ḿnh.

Đêm khuya, có lúc gợi lên những cảm xúc, những thèm khát nhục thể - th́ nó lại càng tha thiết hơn :

 

Người về để áo lại đây

Để canh khuya em đắp kẻo ngọn gió tây lạnh lùng…

 

Đêm khuya gió lọt song đào

Chồng ta đi vắng, gió vào làm chi…

 

Đêm khuya ra đứng bờ ao… (cũng có người đọc « Đêm qua… »)

 

Bờ ao. Sao lại bờ ao ? Đây là khung cảnh lao tác ban ngày của người phụ nữ : giặt giũ, rửa ráy… Ban đêm nó là nơi hoang vắng nhất trong một góc vườn và người phụ nữ không có quyền hưởng những giờ thanh vắng : một là phải lao động, hai là phải sống với kẻ khác. Muốn một chút yên tĩnh để thảnh thơi hay suy tư, không dễ t́m nơi :

 

Thương chàng lắm lắm chàng ơi

Biết nơi nao thanh vắng mà ngồi thở than

 

Ở Trung Bộ lời hát c̣n da diết :

 

Cực ḷng Lan lắm Huệ ơi

Biết nơi mô thanh vắng mà ngồi thở than

 

Ở đây, nàng phải chọn bờ ao, khuất nẻo :

 

Thiếu chi cam rim hồng rim anh không chuộng

Anh đi t́m trái khế rụng bờ ao…

 

Và trong bối cảnh câu ca dao, bờ ao diễn tả niềm hoang mang cùng cực của người phụ nữ, bờ ao là ám ảnh cơi chết. Ao nhà, không nhất thiết phải sâu, vẫn là biên giới, là cái bờ của vực thẳm, như đêm nào đó đă quyến rũ niềm tuyệt vọng thảm khốc. Trông cá, cá lặn, trông sao, sao mờ…Tiếng gào rất hiện đại, và hiện sinh, ném vào bóng tối của vũ trụ; và vũ trụ đă câm nín tàn nhẫn. Không một động tịnh, một âm thanh, một tia sáng nào đáp lại những gào gọi trầm thống của con người về thân phận ḿnh, từ mấy ngàn năm nay. Ở đây, là câu hỏi của người đàn bà nông thôn bên bờ ao, nơi khác là của nàng cung nữ, là của cô Thúy Kiều, và tiếng kêu thương của họ đă va vào bức vách im lặng tàn bạo của vũ trụ, một vũ trụ đành hanh quá ngán: trông cá cá lặn, trông sao sao mờ…

 

Buồn trông con nhện vương tơ…

 

Biểu tượng của t́nh yêu, chờ mong, mơ ước, vẫn thường gặp trong ca dao, nhất là trong quan họ:

 

Nghĩ xa thôi lại nghĩ gần

Làm thân con nhện mấy lần vương tơ

 

H́nh ảnh con nhện có lẽ là rất xưa trong văn thơ ta, v́ nó đă có trong truyện Hoa Tiên giữa thế kỷ XVIII của Nguyễn Huy Tự (câu 1157):

 

Một thân xưa đă quyết thầm

Nhện vương dễ mấy phen lầm nữa vay

 

Bản Hoa Tiên do Nguyễn Thiện nhuận sắc, đầu thế kỷ XIX (câu 1227):

 

Thôi duyên đâu nữa mà nhằm

Nhện vương tơ lại mấy tơ tằm nữa đây

 

Trong Kiều, khi quan phủ muốn trả Kiều về lầu xanh, nàng trả lời:

 

Nhện này vương lấy tơ kia mấy lần

 

Có nhiều lối giải thích câu này. Nhưng tơ nhện, tơ tằm – những h́nh ảnh quen thuộc của nông thôn – tượng trưng cho t́nh duyên, có lẽ là hợp lư nhất.

Nghệ thuật bốn câu sau, không nằm ở từ pháp, mà ở cú pháp:

 

Buồn trông con nhện vương tơ,

Nhện ơi nhện hỡi, nhện chờ mối ai?

Buồn trông chênh chếch sao mai

Sao ơi sao hỡi, nhớ ai sao mờ…

 

Cách lặp lại mấy chữ ở đầu câu, là một mỹ từ pháp thông thường (anaphore). Trong ca dao:

 

Buồn về một nỗi tháng giêng

May áo cổ kiềng, sắm sửa cho trai

Buồn về một nỗi tháng hai

Cờ bạc dong dài, nói dối mẹ cha

 

Ở đây, hai chữ “buồn trông” lặp lại làm nổi bật những chữ luyến láy khác: bốn lần gọi “nhện” và gọi “sao” với lời vọng thê thiết “sao ơi sao hỡi”, “nhện ơi nhện hỡi…”. Những từ “ơi, hỡi” liên tiếp nhau gợi lên bi kịch trong bóng đêm của người phụ nữ. Kiều, lúc tuyệt vọng, cũng gào gọi như thế.

 

Ơi Kim Lang, hỡi Kim Lang

Thôi thôi thiếp đă phụ chàng từ đây

 

Ơi  là gọi gần, có khi là gọi thầm, hỡi là gọi xa, hay gọi cái ǵ đó đă mất mát. Khoảng cách từ ơi đến hỡi xa tít tắp trong không gian và có khi mịt mù trong tâm tưởng. Nhện ơi… sao ơi là đối thoại với ngoại vật, nhện hỡi… sao hỡi là tiếng nói lạc loài không có đối tượng. Trong văn chương, ta có nhiều ơi, nhiều hỡi, nhưng ít khi có kết hợp ơi hỡi, khi đảo ngược thành hỡi ơi, tính bi thiết lại càng rơ như trong Nguyễn Bính:

 

Hỡi ơi trời đất vô cùng rộng

Nào biết t́m đâu một mái nhà

 

Nhện chờ mối ai?... Nhớ ai sao mờ. Chữ chờ ai đầu, là nghi vấn; người phụ nữ không biết, và tự hỏi tơ duyên nào sẽ đến với đời ḿnh. Nhớ ai th́ nghĩa khác; cô biết rơ, rất rơ là nhớ ai, chỉ không thổ lộ ra đấy thôi:

 

Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ

Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai

 

Chữ mối trong mối ai ám chỉ một t́nh duyên chưa thành tựu, và khó thành tựu, qua những câu hỏi thôi thúc. Mơ ước mong manh và tha thiết; thương nhớ mông lung mà da diết. Câu ca dao tuyệt vời ở chỗ dịu dàng, thắm thiết mà đau xót. Cô lo sợ, cho t́nh yêu, cho duyên phận, trong một xă hội mà cô không có quyền quyết định số phận:

 

Thân em như mảnh lụa đào

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai

 

Thời đại nào, xă hội nào rồi cũng vậy thôi: hạnh phúc người phụ nữ vẫn mong manh. Khi hẹn ḥ với Kim Trọng, hoàn cảnh khách quan c̣n thuận lợi, Thúy Kiều đă lo lắng:

 

Nghĩ ḿnh phận mỏng cánh chuồn

Khuôn thiêng biết có vuông tṛn cho chăng

 

Với Thúc Sinh, nàng e ngại ngay t́nh cảm của chàng Thúc: Ḷng kia giữ được thường thường măi chăng? Thậm chí làm vợ vua rồi mà nàng cung nữ c̣n than duyên đă may cớ sao lại rủi.

 

Về niềm lo sợ trong t́nh yêu, ca dao Trung Bộ có câu rất hay:

 

Ḥn đá xanh rong v́ ḍng nước chảy

Ḥn đá bạc đầu là bởi sương sa

Em thương anh không dám nói ra

Sợ mẹ bằng đất sợ cha bằng trời

Em thương anh không nói nên lời

Sợ vầng mây bạc giữa vời mau tan

 

Trong t́nh yêu, cô gái sợ mẹ sợ cha, đă đành. Nhưng đặc biệt là sợ chính cuộc đời, sợ chính cái hạnh phúc của ḿnh nó cũng mong manh như áng phù vân. Niềm hoang mang có khi hoảng hốt đó hiện qua một bờ ao khuya khoắt. Bên kia màn tơ nhện ánh mắt mờ đi:

 

Đêm khuya ra đứng bờ ao…

 

*

 

Tôi rủ rê bạn chuyến bến sang một bờ tư tưởng khác. Ánh mắt buồn trông của cô thôn nữ bên bờ ao, sẽ truyền sang cái nh́n của cô Thúy Kiều, một chiều Ngưng Bích:

 

Buồn trông cửa bể gần hôm

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa (a)

Buồn trông ngọn nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu (b)

Buồn trông nội cỏ dàu dàu

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh (c)

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh

Ầm ầm tiếng song kêu quanh ghế ngồi (d)

 

Có lẽ do ảnh hưởng truyện Kiều (đầu XIX) mà trong Bích Câu Kỳ Ngộ (giữa XIX) chàng Tú Uyên cũng buồn trông như thế (câu 495-502)

 

Buồn trông quăng vắng đ́u hiu

Gió lay nhẹ lá, móc treo nặng cành

Buồn trông cửa bể mông mênh

Con thuyền thấp thoáng cuối ghềnh ngổn ngang

Buồn trông cuối phố Hành Dương

Cánh hồn tăm tắp, hạt sương đầm đ́a

Buồn trông theo giải Tô Khê

Chim kêu bụi rậm, trâu về đồng không

 

Vấn đề tiên quyết: Nguyễn Du mượn ư ca dao hay ngược lại? Ta có thể chọn giả thuyết đầu, v́ ca dao, thỉnh thoảng có mượn thơ Kiều, th́ là những câu ngắn, có tính cách tục ngữ, đại khái như: người đâu gặp gỡ làm chi; đau đớn thay phận đàn bà, chứ không mượn phong cách một đoạn dài để chế biến thành bài thơ khác. Các cô hát ả đào có khi mượn một đoạn Kiều dài để hát, nhưng không thành ca dao. Ngược lại, Nguyễn Du đă kể lại, một cách tự hào, là ông học cách làm thơ dân gian của những người “trồng dâu trồng gai” và trong Kiều có rất nhiều dấu vết của văn chương truyền khẩu. Và cái tài của Nguyễn Du trong đoạn này, có thể là vô tiền khoáng hậu, là đă đưa âm vang ca dao vào tám câu lục bát mà ông … dịch từ bốn câu thất ngôn chữ Hán, và không theo trật tự nguyên tác của Thanh Tâm Tài Nhân. Trong Kim Vân Kiều Lục, Thúy Kiều có làm “nên vài bốn câu” như sau, mà tôi đánh dấu a’ b’ c’ d’ để người đọc dễ so sánh với bản dịch của Nguyễn Du:

 

Nhập song tân thủy tầm kê hoa (b’)

Phụ thảo đà lam tứ vọng xa (c’)

Cận hải trào than hư tọa thấp (d’)

Cách thành phàm ảnh phật lan là (a’)

 

(Sau đó Sở Khanh mới làm thơ trả lời

Lâu ngoại thùy gia thành mấn hoa…

Cô ả nhà ai ngồi ở ngoài lầu…)

 

Nêu lên điển tích này để chứng tỏ một nét tài hoa đặc biệt của Nguyễn Du mà tôi chưa được nghe ai nói đến. Tài hoa đó nhất định phải có học hỏi và trau dồi, chứ nhất định không thể do cao hứng mà đạt đến nét thần t́nh – virtuosité – như vậy.

Bây giờ chúng tôi thử giả thuyết về niên đại câu Ra đứng bờ ao: nhất định nó phải ra đời trước truyện Kiều, có lẽ vào thế kỷ XVIII, v́ trước đó câu thơ lục bát chưa được lưu loát và trau chuốt như vậy. Từ vựng cũng chưa đơn giản và gần gũi chúng ta như vậy. Nó có những âm vang luyến láy như những câu ca dao thời Lê mạt mà Trần Danh Án thời Tây Sơn đă ghi lại trong Nam Phong Giải Trào:

 

Ngày đi trúc hăy c̣n măng

Ngày về trúc đă cao bằng ngọn tre

Ngày đi lúa chửa chia vè

Ngày về lúa đă vàng hoe đầy đồng

Ngày đi em chửa có chồng

Ngày về em đă con bồng con mang

Hai câu cuối đă đi vào truyện Kiều:

Duyên em dù thắm chỉ hồng

May ra khi đă tay bồng tay mang

 

Trong Nam Phong Giải Trào, Trần Danh Án c̣n ghi lại những câu năo nùng, bi thiết, cùng với giọng nhớ ai sao mờ, nói lên niềm cô đơn của người góa bụa:

 

Lạnh lùng thay láng giềng ơi

Láng giềng lạnh ít sao tôi lạnh nhiều

 

Trong giả thuyết bài Đêm khuya ra đứng bờ ao ra đời thời Lê mạt th́ nó soi rọi thêm ánh sáng vào thân phận người đàn bà thời ấy, qua Chinh Phụ Ngâm, Cung Oán Ngâm Khúc, Ai Tư Văn Kiều; và qua người đàn bà, là thân phận con người nói chung, đang bắt đầu ư thức về quyền sống, về hạnh phúc. Khi nàng cung nữ thốt lên:

 

Quyền họa phúc trời giành mất cả

Chút tiện nghi chẳng trả mặc ai

Cái quay búng sẵn trên trời

Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm

 

Th́ lời phản kháng đă vượt số phận của một cung nhân, thậm chí của người đàn bà nói chung, nó vươn đến tầm định mệnh của con người bị xă hội, lịch sử và cuộc đời dày xéo. Người đàn ông, trong xă hội đó, không có cơ hội hay duyên cớ để phản kháng, chàng chỉ thét roi cầu vị ào ào gió thu. Hoặc đi học, đi thi, làm quan, cưới vợ như Kim Trọng, Vương Quan; hay lân la chơi bời như Sở Khanh, Thúc Sinh, cùng lắm th́ nổi loạn như Từ Hải, được việc th́ thành Quang Trung, thua trận th́ thành Quận He, Quận Hẻo.

Họ có thể dọc ngang nào biêt trên đầu có ai, nhưng không biết đứng tự lập như một cá nhân, độc lập trước xă hội, và cật vấn cuộc sống trong thế đối lập cảnh đấy người đây luống đoạn trường. Từ Hải khinh một phường giá áo túi cơm, nhưng không phản đối hệ thống giá trị xă hội, như một người đàn bà đương thời là Hồ Xuân Hương, về cái quyền của người phụ nữ không chồng mà chửa. Không có, nhưng mà có, mới ngoan. Nhất định bà phải dựa vào câu ca dao:

 

Không chồng mà chửa mới ngoan

Có chồng mà chửa thế gian sự thường

 

*

 

Tôi trở lại người phụ nữ của tôi, người trông cá cá lặn, trông sao sao mờ. Người ấy tra vấn cuộc sống, đ̣i hỏi cuộc sống phải trả lời về quyền làm người, quyền yêu đương, quyền hưởng hạnh phúc. Và câu ca dao nằm trong tư trào lớn lao của con người thời Lê mạt, là thế kỷ XVIII.

Năm 1944, Nguyễn Đ́nh Thi, lúc đó hai mươi tuổi, có viết một bài nhan đề “Sức sống của dân Việt Nam trong ca dao và cổ tích”, trong đó ông có b́nh luận về bài ca dao nói trên, gợi lên “một nỗi buồn lành mạnh, khỏe khoắn, nỗi buồn thành thực của những người ham sống, một nỗi buồn trung hậu”. Khát vọng t́nh yêu trong ca dao, là “yêu để được thêm mạnh mẽ, yêu để sống được thêm hăng hái, tranh đấu được thêm vững bền, chứ không phải yêu để mà đắm đuối trong t́nh yêu và quên lăng hết cuộc sống”. Dù rằng, trong ca dao, chúng ta cũng có nhiều câu rất đắm say, ướt át:

 

Khăn thương nhớ ai

Khăn rơi xuống đất

Khăn thương nhớ ai

Khăn vắt lên vai

Khăn thương nhớ ai

Khăn chùi nước mắt

Mắt thương nhớ ai

Mắt ngủ không yên

 

Mắt thương nhớ ai, hôn phối với nhớ ai sao mờ, nhiều thế kỷ sau vẫn c̣n lưu truyền trong mạch máu Việt nam, và phập phồng trong nhịp đập của những trái tim yêu đương trên những bước dập dồn của dân tộc lao ḿnh vào lịch sử, mà chúng ta c̣n nghe thấy trong bài “Nhớ” của Nguyễn  Đ́nh Thi (1954):

 

   Nhớ

Ngôi sao nhớ ai mà sao lấp lánh

Soi sáng đường chiến sĩ giữa đèo mây

Ngọn lửa nhớ ai mà hồng lên đêm lạnh

Sưởi ấm ḷng chiến sĩ dưới ngàn cây

 

Anh yêu em như anh yêu đất nước

Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần

Anh nhớ em mỗi bước đường anh bước

Mỗi tối anh nằm, mỗi miếng anh ăn

 

Ngôi sao trong đêm không bao giờ tắt

Chúng ta yêu nhau chiến đấu suốt đời

Ngọn lửa trong rừng bập bùng đỏ rực

Chúng ta yêu nhau kiêu hănh làm người

 

 

1.5.1991.

Đặng Tiến

 

 

Thơ, Thi pháp và chân dung

Trang Đặng Tiến

art2all.net