Thanh
Trí là bậc nữ sử (la femme intellectuelle) tài hoa,
phụng hiến cuộc đời cho hội họa.
Bà
sử dụng điêu luyện nhiều thể loại tạo hình : đồ họa,
màu nước, tranh lụa, sơn dầu, sơn mài. Tiêu biểu
nhất, và làm nền cho nghệ thuật Thanh Trí là tranh
lụa.
Hai
nét chính trong tranh Thanh Trí là thanh tú và trí
tuệ. Hai từ « thanh » và « trí » kết hợp ở đây là do
tình cờ, một hạnh phúc của ngôn ngữ.
Thanh
tú : thanh là trong sáng ; tú là tươi đẹp, mà còn có
nghĩa là thêu, vẽ, bằng ngũ sắc. Màu sắc thiên nhiên
và nhân tạo làm nên bản chất của hội họa. Thanh tú
vượt qua vẻ tao nhã trong mỹ nghệ, vươn đến những
cảm xúc mãnh liệt hay xoáy xuống đáy uẩn khúc của
tâm tư để làm nên nghệ thuật.
Trí
tuệ là vế thứ hai, như thành phần đối xứng thường
gặp trong thiên nhiên trên một chiếc lá chẳng hạn.
Trí tuệ nơi đây là một suy tưởng, hay nhiều ý nghĩ
đồng quy, bồi đắp vào quá trình hình thành một bức
tranh. Trí tuệ là thành tố, có khi đến trước, như
gợi hứng, nhưng nó chưa phải là nội dung như người
xem có thể hiểu lầm. Nội dung bức tranh là tổng thể
họa phẩm, tạo nên rung cảm cho người xem, có khi
vượt qua dụng tâm và dự đoán của tác giả.
Đây
là một điểm lý thuyết thẩm mỹ, cần nắm bắt để thưởng
ngoạn, đánh giá đúng mức một họa phẩm, thậm chí một
họa tiết. Ví dụ, không tiêu biểu nhưng cụ thể và đơn
giản nhất, năm nay Đinh Sửu, năm trâu, Thanh Trí vẽ
trâu. Nhưng đây không còn là con trâu đinh sửu, mà
là hình tượng thân thương hiện ra từ kỷ niệm, tâm
thức của họa sĩ, do đó Thanh Trí âu yếm thực hiện
hai bức tranh dưới đề tài « đôi bạn » (trâu)
và « Mẹ con » (trâu). Một mặt dùng những
đường nét mảnh mai, màu sắc dịu nhẹ để thăng hoa đời
sống cần lao, lam lũ ở nông thôn, mặt khác tạo được
niềm huyền đồng cảnh-vật-người, là chủ đề thường
xuyên trong tranh bà. Cũng như danh họa Nguyễn Tư
Nghiêm hàng năm vẽ tranh con giống theo âm lịch,
nhưng nội dung vượt hẳn mười hai con vật theo can
chi.
Tiếng
Việt ta có từ láy « vẽ vời », nghĩa hẹp là kiểu cách,
bày vẽ vô ích. Trong hội họa, vẽ là vời, là mời gọi.
Năm Sửu mời gọi con trâu ; trâu vời gọi tình đôi lứa,
đưa đến tình mẹ con, tất cả dẫn đến bức tranh, làm
nên thế giới nghệ thuật. Đi cày, ai cũng biết đặt
trâu trước cái cày ; nghệ sĩ không được cái may mắn
của nông phu : cầm cây cọ, trước giá vẽ, có khi anh
không biết đâu là con trâu, cái gì cái cày. Có bột
mới gột nên hồ, ai cũng biết vậy, nhưng trước một
họa phẩm, đâu là bột, đâu là hồ, người xem phải phân
vân.
Phân
vân là đòi hỏi của mỹ cảm. Trước vẻ tráng lệ của
cánh đồng hướng dương, chúng ta say đắm chẳng chút
phân vân, như khi đứng trước họa phẩm « Hướng
dương » của Van Gogh. Nhìn cành hoa huệ, rồi
nhìn sang tranh Tô Ngọc Vân, trước đóa hoa sen rồi
ngắm tranh Monet, hay Nguyễn Sáng, cũng vậy thôi.
Tác phẩm nghệ thuật đòi hỏi chút phân vân tư lự, rồi
mới đắm say.
Nhìn hoa huệ, hoa sen anh không
cần, không nhất thiết phải góp phần vào tạo vật.
Nhìn tranh, anh phải tham dự, có khi đồng tác với
tác giả làm nên một trinh tiết mới cho họa phẩm.

Trâu là vật thực, tình bạn, tình
mẹ con là tình thực ; cũng như những con chim
thường xuyên xuất hiện trong vũ trụ Thanh Trí, là
vật thực. Nhưng vào đến tâm thức chúng ta hôm nay,
nó biến hóa thành huyền thoại. Như lối lắp ghép của
Max Ernst, Thanh Trí lắp ghép những mảng truyền
thuyết, chính bà cũng ý thức khi đặt tiêu đề một bức
tranh lớn « Đất Mẹ và Huyền thoại ». Bà vẽ
người mẹ nằm nghiêng ôm con vào lòng. Người
mẹ quá
trẻ so với tuổi con, tha thướt áo dài, đầu gối đè
chiếc nón lá, giữa nhiều tàu lá chuối lót nền, bên
bờ sông. Người mẹ tay ôm con, tay cầm ba nhánh hoa
sen. Phải là ba nhánh.Trong góc trên bên trái, có
thêm rồng bay lượn giữa tinh vân rạng rỡ. Hai mẹ con
lim dim, an giấc, đứa bé tay vẫn cầm con chim hòa
bình. Không có một lô gíc nào cả trong bức tranh,
ngoài việc lắp ghép những mảng huyền thoại. Những
họa tiết kể trên mang nặng nội dung biểu tượng, đến
từ một lối vẽ ít được sử dụng trong nghệ thuật hiện
đại, nhưng vẫn còn một lớp quần chúng ưa chuộng.
Điển hình cho lối vẽ tượng trưng này, mà có người
cho là minh họa, là bức Guernica nổi tiếng của
Picasso hay một số tác phẩm Chagall. Trọng điểm và
nữ tính trong tranh Thanh Trí là ở chỗ này chứ không
do khí hậu lụa là như có người nói. Ta còn bắt gặp
trong tranh các nữ họa sĩ trẻ hơn, như Bùi Suối Hoa
hay Đinh Ý Nhi nhiều chất truyền kỳ và ký sự, dù các
cô sử dụng kỹ thuật khác hẳn với tranh lụa cổ truyền.
Khi đổi chất liệu, nội dung tranh
cũng thay đổi do yêu cầu kỹ thuật, nhưng không nhiều.
Tranh sơn dầu Thanh Trí đường nét
giản lược, nhưng màu sắc quyết liệt hơncó khi đạt
thành quả mới lạ. Nhất là với tranh trừu tượng, có
lúc làm tác giả lúng túng, không biết đặt tên, gọi
là « vô đề », có khi bà nối kết được với tập
quán, gọi là « Hành trình của đá ». Địa chất
(sỏi đá ) cũng có lý lịch và oan khiên của nó ?

Tranh sơn mài của Thanh trí rất
đẹp, hào hoa và truyền cảm, tiếc rằng bà vẽ không
nhiều, có thể vì loại tranh này đòi hỏi nhiều đầu tư
công sức. Nhưng bà thành công, vì thoải mái trong
thể loại cổ truyền, hợp với tạng vẽ công phu, lối
suy nghĩ căn cơ. Tranh sơn mài tĩnh lược đường nét
tối đa, buộc Thanh Trí phải tiết chế tài hoa. « Hoa
tay » là sở trường của khách tài tử vẽ chơi, mà là
sở đoản của họa sĩ chuyên nghiệp : hội họa đương đại
ưu đãi những mảng màu lớn thay vì những đường vờn
tinh tế. Do đó, sơn mài dù không phải là sở trường,
mà lại gạn lọc và tổng hợp được các thể loại tạo
hình của Thanh Trí : giàu chuyển động mà trầm lắng,
chan hòa ánh sáng mà vẫn e dè kín đáo. Tóm lại là
thanh tú và trí tuệ.
Trí tuệ ở tranh Thanh Trí là
những dòng suối trong, đồng quy về tình cảm, phục vụ
lý tưởng. Thanh Trí là kẻ tham lam, khát khao thanh
sắc, ánh sáng và chuyển động. Bà đổ dồn vào khung
tranh tình yêu vạn vật, nhân loại và đất nước.
Đến với Thanh Trí trước tiên là
đi tìm nghệ thuật. Cuối cùng sẽ gặp Nguồn Sống.
Và Nguồn Sáng.
ĐặngTiến
Paris, 11.05.2009
|