Đặng Tiến
TRÁI CAM VÀ H̉N BI
Tranh Déborah Chock
Thơ gắn liền với bản sắc tiếng nói của từng dân tộc nên khó chuyển dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác. Tuy nhiên, dịch thơ là việc cao quư, đọc thơ dịch là một lư thú, cả hai việc đều cần thiết để t́m hiểu, so sánh văn học, văn hoá và ngôn ngữ, từ dân tộc này sang dân tộc khác.
Lấy một ví dụ để suy nghĩ : câu thơ nổi
tiếng của Paul Eluard (1895-1952) trong tập T́nh yêu Thi
ca (L'Amour La Poésie, 1928) : La terre est bleue comme une orange
Quả đất xanh như một trái cam Dịch như vậy th́ không phải là sai, nhưng không lột hết ư nghĩa câu thơ. Đă có rất nhiều học giả uyên bác giải thích câu thơ một cách cao siêu, nhưng cách giải thích đơn giản và “ sư phạm ” nhất là : Quả đất xanh tṛn như trái cam và ư “ tṛn ” ẩn đi. Nhưng tái lập nó th́ câu thơ không dở nhưng mất đi phần nào ma lực của nó. Chữ khó dịch trước tiên là tính từ bleu, tiếng Pháp chỉ một màu chính xác, “ màu của vô cùng... nói rằng quả đất xanh như một trái cam là nối liền hư không hạnh phúc với trọng lượng của địa cầu, hai tiếng reo mừng đă tạo dựng thiên đàng trong hạ giới ” (Jean Omnimus (1)). Giảng như thế là hay quá, nhưng khi ta dịch bleu thành xanh, th́ người đọc Việt Nam không biết màu xanh nào : da trời hay lá cây – trong câu thơ dịch, màu lá cây lại có phần lấn lướt.
Câu thơ mạnh nhờ lối so sánh nghịch lư,
xanh như cam, v́ cam của phương Tây không phải màu xanh mà
là màu... cam, một loại vàng gạch, vàng nghệ. Nhưng cam Việt
Nam th́ lại xanh. Câu thơ siêu thực hoá ra hiện thực. Cũng
không hẳn là dở, chỉ yếu đi và khác đi thôi.
Quả đất và trái cam đồng dạng h́nh cầu.
Nhưng đây là lối suy diễn của thầy giáo t́m lối giải thích
cho học sinh chóng tiếp thu. Đoạn trên, chúng tôi thêm vào
chữ tṛn là lếu láo. Nhưng dù không dùng chữ tṛn th́
câu tiếng Việt hai loại từ quả (đất) trái
(cam) cũng đă bao hàm tṛn trịa h́nh dáng của hai thực thể.
Như vậy, tiếng Việt vốn nhiều h́nh tượng đă khai thị cho một
câu thơ bí hiểm, mặt khác, đáp ứng với quan niệm sáng tác
của Eluard, thời đó từ chối màu sắc. “ Ai đề cập đến màu
sắc với tôi, tôi không nh́n nữa. Hăy nói với tôi về h́nh
thể, tôi đang rất cần hoang mang ” (Littérature, tháng
2-3.1923, tr.16)(2). Một câu thơ dịch, nói lên đúng ư tác
giả, nhưng chính tác giả không tŕnh bày ư ấy trong câu thơ,
vậy là dịch sai hay dịch đúng ? Đối tượng của người dịch là
câu thơ, trong kích thước nhất định của nó ; nhưng lắm khi
phải đi quá câu thơ mới đến được nó : đó là kinh nghiệm thơ
dịch của Tản Đà. Màu sắc đối với chúng ta là cụ thể, tuyệt đối ; trắng ra trắng, đen ra đen. Nhưng trong các ngôn ngữ, bảng tên màu sắc lại không giống nhau. Cái ta thấy xanh th́ người Pháp thấy hai màu bleu và vert ; cái người Pháp thấy bleu, th́ người Nga thấy siniï và golouboi khác nhau. Những từ thông dụng trong tiếng Việt như nâu, chàm, đà, th́ người Pháp không biết dịch là ǵ, có khi gọi là màu “ củ nâu ” (couleur cunau), sông Đà th́ dịch là Rivière Noire, đối lập với sông Lô là Rivière Claire, lẽ ra phải là sông... Đáy. Tên của màu sắc là một vấn đề gay go trong cấu trúc ngữ nghĩa của lư thuyết ngữ học, mà nhiều chuyên gia đă đề cập. Màu sắc, trong từng nền văn hoá, lại mang tính cách biểu tượng kiểu thương xanh núi, nhớ tím trời (Xuân Diệu) lại làm người dịch thêm rối trí.
Cách đây mươi năm, tôi đă có dịp ca ngợi
câu thơ Tản Đà trong bài Tiễn ông công lên Trời (Ngày
nay số 99, 1938), tân kỳ không kém Eluard : Ngày xanh như ngựa, đầu xanh bạc (a) Chán cả giang hồ, hết cả ngông (b)
Câu (a) sắc sảo v́ từ xanh láy lại
ở vị trí trọng yếu và đối xứng, lại đối lập với bạc,
làm nổi bật nghịch lư xanh như ngựa : ngựa nhiều màu,
mỗi màu chữ hán việt lại có tên riêng, nhưng không xanh. Cần
hiểu đại khái : ngày như ngựa, ngày nhanh như ngựa. Lấy ư cổ
văn : bạch câu quá khích, ngựa trắng thoáng qua kẽ hở
; chữ ngày xanh lại đối lập với điển cố về màu ngựa.
Ngụ ư ở đây là tốc độ của thời gian, chữ nhanh ch́m
trong câu thơ, làm một thứ trầm châu, cùng vần với chữ nổi –
Nguyễn Tuân gọi là chữ gánh – là xanh, có nghĩa là
tuổi trẻ. Tản Đà sáng tạo từ ngữ một cách hồn nhiên, nhưng
cách chơi chữ này lại đáp ứng với nhiều quy luật ngữ học
hiện đại (3).
Câu thơ Eluard và Tản Đà xuất sắc ở
nghịch lư. Nhưng ở đời không phải ai ai cũng thưởng thức
nghệ thuật trong nghịch lư. Bằng cớ là nhà xuất bản Văn Học,
trong Tuyển tập Tản Đà, 1986, tr. 187, ḍng thứ ba đă đổi
câu chữ cho thuận lư Ngày xuân như ngựa đầu xanh bạc
thành ra một cái thứ ǵ đó, phi ngưu phi
mă.
* Về h́nh ảnh địa cầu nh́n từ xa, Xuân Diệu có câu thơ hay, làm năm 1957, thời điểm Liên Xô mới phóng vệ tinh lên trời :
Trái đất – ba phần tư nước mắt Đi như giọt lệ giữa không trung
Câu thơ hay và có giá trị tổng hợp : đi từ thực tế địa lư – biển chiếm ba phần tư địa cầu – đến t́nh cảm – nước mắt cuộc đời, của t́nh yêu, và bất công, của chúng sinh theo h́nh tượng nhà Phật. Và giọt lệ vẫn thường long lanh trong thơ Xuân Diệu, “ đă vỡ v́ nước mắt ” ; cuối cùng đi đến tưởng tượng – giọt lệ giữa không trung. H́nh ảnh tuyệt vời, bao la, trong sáng, như hoá giải được mọi cuộc trầm luân. Những khổ đau hoá thân thành ánh sáng. Tôi chợt nhớ, chợt đau xót, chợt nghĩ đến người bạn vong niên khác, Vũ Hoàng Chương, mà trầm luân dường như chưa siêu thoát :
Từ phen trái đất ra đi Lệ chia phôi đă xanh ŕ đại dương
Cùng trong đề tài này, Trịnh Công Sơn có bài hát làm cho thiếu nhi, khoảng 1979, một trọng điểm khác trong khoa học không gian :
Như một ḥn bi xanh Trái đất này quay tṛn
So với những câu thơ đă viện dẫn, đặc sắc của lời hát Trịnh Công Sơn là vui, có phần tếu, nhưng vẫn thâm trầm, cao siêu. Trong một băng nhạc thu âm khoảng 1980, tác giả tự hát bài này và tự thuyết minh h́nh ảnh “ trái đất nh́n từ xa như một ḥn bi nhỏ nhắn, sông nước xanh màu lá, màu xanh cây cỏ ”. Các tác giả khi tự ḿnh giải thích thơ ḿnh, ít khi giải thích hay, kể cả trích tiên Tản Đà và “ thợ b́nh ” Xuân Diệu. Nhất là khi đăi đưa trong một băng nhạc thương măi. H́nh ảnh ḥn bi xanh thâm trầm hơn nhiều, nó phản ánh thân phận phi lư của cuộc đời. Trái đất chỉ là tṛ chơi nhỏ nhoi trên đầu ngón tay tạo hoá, th́ thân phận con người c̣n phù phiếm đến bao nhiêu ? Con người, anh là cái quái ǵ mà đa mang đa sự thắc mắc cái này, đ̣i hỏi cái kia ? Cụ Ôn Như Hầu đă nhận xét :
Quyền hoạ phúc trời tranh mất cả Món tiện nghi chẳng trả phần ai Cái quay búng sẵn trên trời Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm
Cái quay, hay con cù, con vụ của cụ Ôn Như c̣n khá khẩm, chững chạc hơn ḥn bi lông lốc của Trịnh Công Sơn, tầm thường, rẻ rúng, vô định. Bài Ḥn Bi Xanh tác giả làm khi mới rời khỏi Huế – ḷ cừ nung nấu sự đời – nhờ xin được hộ khẩu vào Thành phố Hồ Chí Minh, thoát ly ra khỏi nhiệt t́nh của các đồng chí đồng hương. Nhưng mỗi câu thơ đều giống con người : quả cam của Eluard là Eluard, ngựa xanh là Tản Đà, giọt lệ của Xuân Diệu là bản thân Xuân Diệu, ḥn bi là bản chất Trịnh Công Sơn, tếu, hồn nhiên. Lời hát nhắc đến cái ngất ngưởng của Tản Đà :
Đất say đất cũng lăn quay Trời say mặt cũng đỏ gay, ai cười
Lại say, 1921 Trên bản chất nghệ sĩ, những đớn đau đă biến Trịnh Công Sơn thành một thứ triết nhân, với triết lư “ cơi tạm ” và “ đời cho ta thế ”. Nghiệm cho cùng, con quay và ḥn bi c̣n may mắn hơn con người, v́ nó chỉ mang trọng lượng của bản thân, đă giảm đi nhiều với lực dính (force adhésive) và lực ma sát (force de frottement), c̣n con người, ngoài trọng lượng của xương thịt, lại c̣n đèo thêm cái tâm hồn, với trăm thứ bà giằn : nào là lịch sử, dân tộc, có khi đèo cả ái t́nh, mà sức cọ xát th́ vô cùng vô tận. Chỉ những tâm hồn cổ kim hăn hữu như Tản Đà mới đạt tới thái độ sinh khoái
Nở gan cười một cuộc say
Đường xa coi nhẹ gánh đầy như không Trở lại với ḥn bi xanh. Khi Trịnh Công Sơn giải thích là xanh lá cây, th́ thật ra, anh không đặt vấn đề xanh ǵ. Như Nguyễn Bính đă làm thơ
Xanh cây xanh cỏ xanh đồi
Xanh rừng xanh núi da trời cũng xanh Rơ ràng là tác giả Mây Tần (1951) không phân biệt hai màu xanh cỏ và xanh da trời. Khi ta nghe Tản Đà nói xanh như ngựa th́ ta ngạc nhiên, nhưng khi nghe tóc xanh, đầu xanh, mắt xanh th́ không để ư đến nghịch lư. Tâm hồn Á Đông chịu nặng ảnh hưởng của thiên nhiên, đặc biệt là của cỏ cây. Từ xanh gợi ư tuổi trẻ, v́ trái xanh đối lập với trái già, trái chín ; lá xanh đối lập với lá vàng, lá rụng. Từ đó, ta có những khái niệm tuổi xanh, ngày xanh, xuân xanh, và tính từ xanh trở thành sáo ṃn trống nghĩa, khó sử dụng để dịch những màu sắc cụ thể như trong Baudelaire :
Cheveux bleus, pavillons des ténèbres
tendues
Tóc lam, cờ lộng bóng đêm căng...
Chữ bleu gợi ra cảnh trời xa biển rộng, kết hợp thành chuỗi âm láy cheveux bleus khó dịch thoát, dù câu thơ dịch đă mang nhiều âm láy, và chữ lam nhắc đến thơ Nguyễn Bính :
Da trời ai nhuộm màu lam
Sương lam phơi màu thu muôn nơi
Câu thơ Apollinaire trong bài vô đề bắt đầu bằng Automne malade et adoré – Mùa thu đau yếu và mến thương :
Des nixes nicettes aux cheveux verts et naines Những tiên đồng tiên cô tóc xanh lè người lùn tịt
Tiếng Pháp cheveux verts tạo cảm giác yêu quái lẫn giữa cỏ cây mà chữ Việt tóc xanh không tạo được nên phải thêm bổ từ lè. Nhưng cũng có khi bản dịch không sát nguyên tác như với câu thơ Baudelaire :
Le vert paradis des amours enfantines Thiên đường xanh những mối t́nh thơ dại
Ở đây chữ xanh trong bản dịch có phần súc tích hơn tính từ vert trong tiếng Pháp v́ lơ lửng giữa màu thăm thẳm từng trên của thiên đường và màu cỏ non xanh rợn chân trời của tuổi thơ.
*
La terre est bleue comme une orange
Tản Đà chắc không biết câu này. Nhưng Xuân Diệu, Trịnh Công Sơn th́ biết, v́ họ đều sành thơ Pháp. Giọt lệ giữa không trung và ḥn bi xanh quay tṛn th́ giống thơ Eluard quá. Về câu thơ này, Henri Meschonnic đă có một bài báo uyên bác và xuất sắc, cho biết là Eluard đă mượn ư một bài thơ tiếng Nga của Vladimir Maïakovski làm 1922 :
Một nửa trái đất tṛn trịa trên đầu tôi lai láng đại dương bán cầu Nh́n xa y như một trái cam Nhưng trái nọ vàng trái này xanh.
Phiên tự sang chữ Latinh : Míra polovína
– krúglenẺkaja takája – podo mnój, okeánami s polusárija.
Ízdali soversénno víd appelẺsínij ; tólẺko tot zóltyi, a
etot sínij.
La moitié du monde si ronde est au dessus de moi ruisselant des océans d'un hémisphère De loin tout à fait un air d'orange Seulement celle-là est jaune et celle-ci est bleue.
Chỗ khác nhau là : câu thơ Eluard dựa vào
màu sắc (biểu ư : xanh) và h́nh dáng (ẩn ư : tṛn) c̣n câu
thơ Nga lại dựa vào ngữ âm. Từ sinij xanh, đă nằm
trong tính từ apel'sinij, thuộc về cam bắt nguồn từ
danh từ apel'sin quả cam, từ tiếng Hà Lan
appelsina táo tàu, tiếng Đức Apfelsine. Cấu trúc
láy âm là do Maïakovski cố t́nh, thậm chí c̣n viết lệch
chính tả, dùng tính từ sinij trong khi b́nh thường
phải viết apel'sin-nyj hay apel'sin-ovyi. Vấn
đề đặt ra ở đây là :
*
Thơ là những đặc sắc của ngôn ngữ được
khai thác triệt để, được phát triển đến tận cùng, được quy
hoạch thành những định luật khi ẩn khi hiện nhưng lúc nào
cũng chi phối. Nhưng trong hiện t́nh thơ Việt Nam th́ chỉ
mới có một số người làm thơ và lư luận về thi pháp áp dụng
quan niệm này. Đa số người đọc thơ chỉ thưởng thức qua xúc
cảm, tưởng tượng và kỷ niệm, yêu thích những câu thơ êm tai,
thuận tai, quen tai. Ngày xanh như ngựa đă là cái ǵ
lạ tai, nếu không phải là trái tai. Xưa, thơ là một nhu cầu xă hội. Nay, thơ là một sinh hoạt trí thức. Đây là quy luật phát triển của toàn thế giới, thơ Việt Nam cũng phải vào quỹ đạo. Nhưng, nhiệm vụ của người giới thiệu, phê b́nh thơ là đưa cái xa lại gần với quần chúng và đẩy cái quen thuộc đến chân trời tưởng tượng, như con Ngựa say thời nào của Lưu Trọng Lư :
Ta say ngựa cũng tần ngần
Trời cao xuống thấp, núi gần lên xa. Đặng Tiến
20.1.1997
|