BÀI CH̉I (BỘ
BÀI TỚI)
Xin tạm dừng lại tại đoạn (1) nàỵ Gần mươi năm trước, có người thuộc lớp đàn anh của tôi là anh Đặng Tiến, từ lâu anh đă nổi tiếng là nhà viết Văn Học Sử hàng đầu của nước ta vào cuối thế kỷ thứ 20, anh đă viết cho tôi các ḍng này:
DT gui
LQN: Laiquangnam chuyển về unicode:
Đặng Tiến
gửi laiquangnam
Vơ Phiến
đă đặt vấn đề này, nhưng chưa giải quyết
( Nguyệt san Tân văn, SAIGON,
số 1 tháng 4-1968 có in lại trong Toàn Tập, Mỹ, cuốn Tạp Bút, 1989,
trang 227. Anh cho biết địa chỉ, tôi sẽ photocopy gửi. Ngoài ra Nguyễn
Văn Xuân có viết sơ lượt trên NGUYỆT SAN VĂN số 2, tháng 12 năm 1967.
Quách Tấn có bàn tới trong Nước Non B́nh Định, Saigon, 1967, trang 444.
Thành thật khai báo cùng ông anh kính yêu của mình.
Lúc ấy 2006, laiquangnam nghĩ
ḿnh không đủ sức hiểu hết các ẩn dụ trong cổ Bài Cḥi, bộ Bài Tới của
tiền nhân; nghĩ rằng sự phân tích mình còn ú ớ, không làm sao chống
đỡ nổi lư lẽ của các kẻ Vọng Hán, đội Hán đưa ra lập luận VanVáiTứ
Phương. Vào lúc ấy các tên gọi từ trên con bài quá kin kẻ, ví dụ:
con bài Tuyết, tại sao lại có sự chuyển biến thành tên
gọi là Bạch huê như thế?, hoặc từ Đấu, tên trên con
bài Đấu chuyển biến tên gọi thành Nh́ Bí, liệu có mối
quan hệ ǵ giữa chúng với nhau không? và còn nhiều điều phải
được tìm hiểu cần thấu đáo hơn không? Nay quỹ thời gian đă gần
cạn, lúc này không nói ra, đợi đến lúc hoàn hảo th́ biết đến
bao giờ?! 60 tính từng năm, 70 tính từng tháng, 80 tính từng giờ!
Chỉ mong việc làm của mình mang tâm thức tự phát của một sĩ quan
đềlô sẽ là động cớ khiến cho AiĐó động tâm và cùng tiếp tục.
Trong văn học Việt Nam hiện nay còn quá nhiều điều cần phải được
giải mã, cần được làm sáng tỏ. Hãy trả về cho lịch sử những ǵ
mà tiền nhân chúng ta đă “kín đáo gởi vào đó lời dạy khôn dại “
cho thế hệ mai sau. Mong rằng Người Việt hải ngoại hôm nay sẽ là Tổ
bốn đời, tổ năm đời …. của các hậu duệ 1,5 ; 1,7 ….1,9999 của
mình sẽ để lại chút ǵ cho cháu chắt của mình có chút lận lưng.
Cám ơn ông anh của mình vô cùng. Kính. Nay xin quay trở lại chủ đề chính, bộ Bài Tới. Bộ Bài Tới vốn là di sản mang dấu ấn của tiền nhân ta. Một di sản ở tầm cao mang tính nhân văn của nhân loại cũng không khỏi bị nạn. Người vận động được sự ủy nhiệm của chính phủ Việt Nam đương thời đứng tên xin UNESCO chấp nhận nó là di sản Văn hoá Thế giới cũng chỉ dám xin chung chung, xin cho Tṛ Chơi Bài Cḥi được công nhận. Tṛ Chơi Bài Cḥi gồm các thuộc tính hát ḥ, cách chơi bài đặc trưng, lời hô thai tiêu tiếu nặng về khía cạnh âm thanh, âm nhạc, làm sao mà so sánh nổi cái hồn, cái tinh hoa cùng nét nhân bản trong khi phác họa tính nhân loại và nữ quyền của dân tộc mình đi trước thế giới Phương Tây hàng vài thế kỷ đă thể hiện mình trong bộ Bài Tới. Bộ Bài Tới là ǵ ? Đó là hệ thống tư tưởng “khó hình dung nổi “ của một nước ở châu Á đă bị hiểu lầm rằng “dường như” họ chịu ảnh hưởng nặng nề của văn minh Trung Hoa, nay lộ rơ bản sắc mình xuyên qua bộ tranh hội họa kỳ ảo. Ngôn ngữ hội họa mới là ngôn ngữ chung của nhân loại th́ các chuyên gia văn hoá trong nước lại không dám đề cập. Tại sao? Xin mời đọc câu sau đây do Sở Khoa học công nghiệp tỉnh Bình Định ngày nay viết : “..ngược lại đánh bài cḥi là hoàn toàn của người B́nh Định, người Việt Nam, do người Việt Nam nghĩ ra, không chịu ảnh hưởng nước ngoài nhiều, song cũng phải thừa nhận đă tiếp thu có chọn lọc của loại h́nh bài diệp tử mă điếu và toàn đố ”http://skhcnbinhdinh.gov.vn/?p=2705. Tại sao Sở KHCN này lại cạn nghĩ như thế? Rằng ai ăn cắp của ai. Phải gọi là ăn cắp mới đúng tính chất nghiêm trọng của vấn đề. Bởi v́ đâu đây có các bài viết cho là “di sản này ” ta bắt chước của Tàu. V́ sao? Rơ ràng nhất từ hai bài viết. Một của Huỳnh Ngọc Trảng và một của bsi Lê Văn Lân, Người Việt hải ngoại. Bài của Huỳnh Ngọc Trảng được nhiều nguồn trích dẫn đang laị, trong đó có trang báo Tuổi Trẻ, và có lẽ SKHCN tỉnh Bình định đă khớp từ bài viết này? Cho đến bây giờ, 2005, tại Việt Nam vẫn có người nay đang là giáo sư tiến sĩ môn Văn học dân gian vẫn còn phân tuyến Văn Vạn Sách, một cách phân hạng mục xuất hiện từ Võ Phiến khi dựa vào bộ bài “tổ tôm” trên đất Bắc?. Bài viết của Võ Phiến vào năm 1968 tại miền nam Việt Nam như anh Đặng Tiến đă ghi lại. Bài của Võ Phiến bây giờ có thể truy cập dễ dàng tại link: bài Võ Phiến bạn có thể đọc lại link: http://www.gocnhin.net/cgi-bin/viewitem.pl?4775 Bạn sẽ làm ǵ khi gặp bối cảnh như thế?
Cái ǵ của Caesar trả lại cho
Caesar. Bạn OK?
Bộ Bài Tới là công cụ chính của Tṛ chơi Bài Cḥi. Tṛ chơi Bài Cḥi là tập hợp gồm bốn yếu tố xảy ra cùng một lúc tại không gian chơị 1-một là, tṛ chơi tập thể xảy ra công khai trong một cái chòi. Chòi là nhà cất vội dùng tạm. Chòi nay được hiểu có thể là đình làng, là nhà công cộng đông người. Chòi có thể được hiểu là chỗ ngồi đủ rộng cho một thành viên chơi bài với số đông người, tuy họ chỉ là một tay chơi; hay chòi là không gian là tập hợp của 10 tay chơi gồm cả nhà cái lẫn người xem. Tùy. Bạn có tìm hiểu thêm qua Google search khi gơ từ khóa “bài Cḥi” 2- hai là, phải có một cỗ bài đặc trưng thuần chất Việt, đó là bộ Bài Tới, hay còn gọi là bài Trùng gồm 60 lá bài với ba mươi hình vẽ ẩn dụ, hình vẽ được thể hiện bằng một thứ ngôn ngữ hội hoạ đặc trưng văn hoá Lạc Việt, mang tính nhân loại. 3- ba là, phải có dàn trống, kèn hổ trợ lời hô thai, tức lời hát xướng tên lá bài qua các câu văn vần, tiêu tiếu, có khi dung tục. 4- phải có người hoạt náo linh hoạt, gọi là anh Hiệu cùng một ban bệ tổ chức. Để tổ chức được một buổi bài chòi thành công cần các bước chuẩn bị kỹ lưỡng, cần có tài chính. Đó là lư do tại Quảng Nam quê tôi, bài Cḥi được tổ chức vào các ngày đầu xuân. Ăn tết dài ngày, đồng quê Việt Nam dạo ấy sống bằng nền kinh tế nông nghiệp, lúa nước. Và thêm vài thuật ngữ khác: - Đừng nói : Đánh bài cḥi mà nói Đánh bài tới, Đánh bài trùng. - Bạn có thể nói: chơi bài cḥi, chơi bài tới. Từ “ Chơi “ xin hiểu lẹ là từ " Play " trong Anh ngữ. Bạn vào mạng tra cho lẹ. - Xin nói đúng: hát bài cḥi, đi nghe hát / hô bài cḥi, đi coi bài cḥi. - Hô/hát bài cḥi có nghĩa là hô thai câu có vần điệu về một lá bài cḥi nào đó. - Đi nghe Hát Bài Cḥi: Từ này xin hiểu theo từng địa phương, từng thời điểm. Tại B́nh Định có lối hát Bài Cḥi rất đặc trưng. Có lẽ trên đường hành quân ngày xưa, nghĩa quân Tây Sơn đă dùng lối hát này trên đường hành quân dưới thời vua Quang Trung chăng? Chính lối hát nhặt khoan vui tươi, âm điệu dồn dập khiến cho lòng binh sĩ thêm hưng phấn, quên đường xa. Thời ấy đạo quân Quảng Nam dưới sự điều binh của danh tướng Trần Quang Diệu tham gia rất khí thế. Họ đánh trận như chẻ tre. Khí thế này mất khi danh tướng Nguyễn Huệ đột ngột ra đi vào lúc 32 tuổi. Tiếp đến khi bên nhà vợ lớn của Quang Trung can thiệp thô bạo vào việc triều đình th́ nhuệ khí Tây Sơn sa sút hẳn. Mười năm sau th́ họ tan hàng. Đáng tiếc. Nếu không, dòng lịch sử Bài Chòi đă chuyển sang một khúc quanh sâu sắc hơn không chừng!. - Hát Bài Cḥi tại B́nh Định là lối hát có tuồng tích. Tuồng ta tuồng Tàu. Thế hệ người Quảng Nam tại miền Nam Việt Nam, thuộc lớp chúng tôi sinh thập niên 40, có lẽ không mấy ai biết về lối hát này. Đa phần họ chỉ biết hát Bài Cḥi là hát các câu hô thai theo từng lá bài mà thôi. Nghệ thuật hát Bài Cḥi được các giới nghệ sĩ người gốc B́nh Định mang ra Bắc sau năm 1954, họ đă xây dựng và hoàn thiện bộ môn hát Bài Cḥi tại đó. Sau năm 75 nó được mang trở lại vùng đất Đàng Trong cũ, gồm Nam Ngăi B́nh Phú và vài địa phương khác mà tôi thật sự không biết hết. Bạn có thể tìm trên Google search. Vậy hô thai bài Cḥi (Bộ Bài Tới) liên quan đến độ tồn vong của tṛ chơi dân gian này, nhưng lối hát bài Cḥi Bình Định mà bạn tìm gặp qua youtube lại thuộc một phạm trù khác và hiểu về nội hàm bộ bài tới th́ hầu như đội Hán nặng nề như đă dẫn ở trên.
II -Cội nguồn xuất phát. Tiền nhân ta người Đàng Ngoài tự hỏi tại sao có sự lặp đi lặp lại măi trên vùng đất văn vật này những điều bất an? Gạt nước mắt, ḷng đầy quyết tâm giúp họ có thể bỏ lại phía sau sản nghiệp cùng mồ mả ông bà để dẫn cả gia đ́nh vào Nam. Đoàn người theo chúa Nguyễn Hoàng bỏ miền Bắc vượt đèo Ngang vào Nam, họ không quên mang theo những kinh nghiệm sống cay đắng từ nơi chôn nhau cắt rN#7889;n. Tại vùng quê hương mới, nơi đây họ kỳ vọng mọi việc sẽ được cải thiện. Một quyết định đầy khó khăn và đầy cao vọng. Họ bắt đầu làm lại từ đầu với hai bàn tay không. Lịch sử cho thấy họ là những người khôn ngoan nhất bởi qua bàn tay họ, bởi những thành quả mà họ đạt được trong thời kỳ đầu dựng nước vào đầu thế kỷ 17. Vậy xă hội Đàng Trong vốn do từ những rường cột ban đầu là người Đàng Ngoài dựng nên. Người ra đi hầu như không có mấy ai trong số họ đỗ cử nhân, Tư HƯƠNG, nghĩa là dân đội Hán rất ít. Con cháu họ quả thật được hưởng hơn 150 năm sau đó trong cảnh thái b́nh. Họ đă làm được điều “ biến việc không thể thành có thể. “ Nhờ đâu? Có thể so với xă hội cũ Đàng Ngoài họ ít bị nhiễm bẩn văn hóa Tàu ít hơn không?
III -Người Đàng Trong ngày ấy là ai? Lần qua ḍng lịch sử dân tộc, năm 40 SCN, Mă Viện thời Hán đă làm cỏ nước ta. Người Việt gốc chạy vào vùng Thanh Nghệ Tỉnh bởi họ không muốn ra làm quan Bờm cho Tàu. Đến thời Lê Mạc Trịnh, họ chạy vào Nam. Tại miền đất mới này họ đă chọn giải pháp dùng bộ bài tới vẽ chân dung quan Bờm. Bài ca thằngBờmCóCáiQquạtMo đă để lại hai nét vẽ. Một là, trên đám con trai được mẹ cha cho đi học chữ Tàu, là đầu phải đội Hán. Âm Hán này và háng( hán+g) này dân Trung eo đều đọc như nhau, kể cả dân Nam bộ bây giờ. Biểu trưng là trên đầu bọn ấy có chữ Hán. Chữ Hán ấy là ǵ ? Ư nghĩa ra sao? Rất ốt dột. Ốt dột trong ngôn ngữ Trung eo nghĩa là xấu hổ quá. Chữ Hán ấy lấy âm là “điền kiến”. Chữ Hán chép không đầy lá mít, mà học đ̣i nói chữ! Điền, âm điền chỉ người,[ 佃, ] làm ruộng, khác nhau với ruộng 田, điền thổ, là có bộ nhân đứng gá thêm vào; kiến là kiến văn, kiến thức. Điền kiến, 田見, lấy âm, là kiến thức của một gă nông dân. Từ nông dân được dùng ở đây như tính từ, chỉ trạng thái tiêu cực, kẻ ít được học hành. Hai là, mặt anh luôn luôn có cái quạt mo che mặt, bởi thực tâm anh muốn che dấu cái khí cốt xấu xa của ḿnh. Mấy ai biết cái quạt mo trên đất Bắc trong bài ThằngBờmCóCáiQuạtMo. Nay tại đàng Trong, hình vẽ được thống nhất che mặt cho toàn đám Quan Bờm lại phát xuất từ câu ca dao:
Văn chương chữ nghĩa bề bề, Rõ ràng nhờ đội Hán, vọng Hán th́ được họ sẽ được gần với Thần l. mà thôi. Kinh thiệt! Độ mĩa cay nghiệt của ông bà mình! Rõ ràng, Mo là hình tượng so sánh với L. Trong vết ngôn ngữ Việt ngày nay, nay còn thể hiện nơi người Huế. Một người đàn ông Huế khi chê trách một người đàn ông khác, có thể là một quan chức cấp cao, một thường bạn khó ưa, cái thằng cha hay làm khó mình vô cớ, mặt mày chai cứng, họ gọi là "Thằng Mặt L.". Trong khi Quảng Nam quê tôi th́ “nhìn cái bản mặt Bạch Huê của thằng đó là khó ưa rồi !”. Nghĩa là người đàn ông nọ có bộ mình mặt mang là sân xi măng láng cóong!. Quạt mo là dấu ấn của bài thằng Bờm khi bài ca này được hiểu dưới dạng phong dao thay v́ đồng dao dành cho trẻ thơ. Trong tinh thần đồng dao của bài ca “thằngBờm Có CáiQuạtMo”. Từ “Có” trong bài đồng dao là động từ chỉ việc “ thủ trong tay ḿnh, phần ấy là của ḿnh”. Khi bài thằngBờmCóCáiQuạtMo được hiểu trong tinh thần phong dao, có là giới từ, tỉ như “with” trong Anh ngữ, có khiến cụm từ “có cái quạt mo’ là cụm từ thuộc tính bổ nghĩa cho thằng Bờm. Ngoài hai điều nhận dạng trên, tên cúng cơm mỗi lá bài là một sự định danh cho một nhân vật dang tồn tại trong xă hội Đại Việt thời đó. Tên mỗi lá bài trong nhóm đội Hán này, từ chớm thành quan bờm cho đến hiện thân là quan bờm, nói trại ra là “quan bợm”. Bợm là lưu manh. Bọn quan bịp bợm. Vậy mỗi lá bài tự thân nó đă là một nối tiếp truyền thông thống nhất tư tưởng giữa hai miền Nam Bắc, Đàng Ngoài và Đàng Trong cho dù giữa họ đang thật sự có chiến tranh mất còn. Chiến tranh là vấn đề giữa hai nhà cầm quyền, văn hoá thống nhất là thuộc tính của nhân dân. Bạn xem 10 nhân vật có ăn học đội Hán mang mặt người.
Trong h́nh này có hai dấu hiệu mà người Việt ngày nay không mấy am tường. Chữ trên lá bài là tên người xưa đặt cho. Chữ viết tay của laiquangnam là tên dân gian. Ví dụ 1: Một là, từ cổ như thể lá bài tới mang tên " Đấu " có nghĩa là ǵ? Vậy mà người phụ nữ Đàng Trong gọi đúng ý tiền nhân là anh “ Nh́ Bí ” mới tài tình làm sao! Từ khi tên dân gian Nh́ Bí từ họ mà ra, khiến cho nhân vật này trở nên dễ hiểu vô cùng. Đấu là một từ cổ. Sao Đấu, sao Đẩu, là chùm sao trong nhị thập bát tú. Sao ĐẤU có hình cái đấu để đong rượu, nhưng không dùng đựng rượu hay đong lúa được. Hàm ý thấy tưởng chừng như có mà thực tế không sao sử dụng được. Tỉ như học chữ Hán láp nháp, học không tới nơi tới chốn có hại hơn là có lợi. Đôi khi mình phạm tội ngộ sát văn hoá dân tộc mình mà mình không hay. Đó là tâm trạng của người đi học còn chút tâm huyết, học để làm ǵ, phục vụ cho ai?
Lỡ quan, lỡ lính, lỡ làng. Ví dụ một câu Hô thai biến tướng từ ca dao. Ví dụ tình huống hiện tại của anh (chị) chạy Hiệu. Anh/chị ta đang rút ra từ trong ống tre một lá bài có tên là Tứ Cẳng (con bài HƯƠNG, tư Hương). Muốn cho người chơi đoán được lá bài trong tay mình đang có là lá bài ǵ, anh HIỆU cố lồng vào câu hát của mình sao cho có từ “ tứ cẳng” càng tốt, hay ý văn độ chừng có thể am hiểu, hay đoán mò chừng 50/50 là Ok. Anh Hiệu đó nhớ câu ca dao này và hát.
Có chồng từ thuở mười lăm.
Có chồng từ thuở mười lăm. “Chớ thương chi, thương chi mà HUNG RỨA …. Cho bốn cái cẳng giường… nó rung rinh!"
Lời hát rất dung tục, chuyện ăn nằm nay được nói trước đám đông trước các bà ngoại, trước các cháu bé, không sao, ba ngày tết, vui là chính. Cười là liều thuốc bổ. Không ai lấy thế làm phiền mà lên mặt đạo đức Giáo Khoa Thư! Đừng lo. Xin mời các bạn cùng nghe lại đoạn rất ngắn Mp3, do laiquangnam ghi âm tại một đêm lửa trại tại Cù Lao Chàm do các anh chị văn công Quảng Nam quê tôi hát vào cuối thập niên 00, thuộc niên kỷ 2000, với sự tài trợ từ anh SANG, người Hà Mật-Thi Lai. Anh là một doanh nhân Quảng Nam thành đạt, thương hiệu của anh là dệt Phước Thịnh.
baichoi-thaitu_tucang.mp3
lá bài tới tên là HƯƠNG, tư hương ==> tứ cẳng. Câu hát ấy rơ ràng không đúng với ư kiến của tiền nhân, nhưng không sao; bởi các Ngài dẫu có sống lại các ngài cũng cười trừ. Tôi h́nh dung các Ngài đứng xoa xoa hai bàn tay rồi nói, “Xung quá tụi bây! Qua chịu! Qua ước ǵ dân tộc này của Qua luôn có tiếng cười như thế trong mọi gia đình thay vì giữ khuôn mặt đầy đăm chiêu ô nhục vì “ dung nhan dân tộc” ngày ngày đang bị bôi đen một cách dị hợm như hiện nay! Chính những lời như thế mà các lá bài của Qua c̣n tồn tại. Còn tồn tại là còn hiểu Qua. Sau các cuộc chiến tranh tàn phá tan hoang đất nước này không mấy ai quan tâm đến nó, chính cái vui này giữ nó tồn tại. Thôi Qua đi đây." Tiền nhân ta gần gủi làm sao!
Ví dụ 3: Tại sao Xơ ==> mà lại có tên biến là Trạng; Tại sao Dọn?. Dọn là gì? ==> Nhọn. Tại QuảngNômQuốc thời ấy, người phụ nữ Quảng Nam quê tôi lại thấu hiểu và cho nó một tên dân gian là đầy ấn tượng như thế. V́ sao? Bởi bộ bài này xuất phát từ ý kiến của Chúa Hiền Vương (Nguyễn Phúc Tần). Ngài ra lệnh cho các quan hầu cận, và thỉnh cầu người họ Đoàn Đông Yên cố sáng tác giúp cho Bà mẹ kính yêu của mình có một thú vui tao nhă lúc về già. Mẹ ông là người họ Đoàn, người làng Đông Yên. Bà cần được vui sống cùng với gia nhân theo hầu Bà khi Bà xa xứ Quảng. Giải trí cho bà là điều chúa Hiền quan tâm. Người phụ nữ thời ấy cần được mẹ ông truyền cho nhau nghe điều khôn dại từ suy nghĩ của mình. Là nữ nhi, họ có miệng cũng như không, bởi sự điều hành đất nước thuộc về cánh đàn ông. Bởi thế đại diện cho họ là lá bài chủ trong bộ Bài Tới, lá bài duy nhất, tuy không có con dấu đỏ của nhà vua ban cho, nhưng nàng là người có miệng ăn miệng nói, dõng dạc nhất, chững chảng nhất trong ba mươi con bài. Nàng TUYẾT nói câu khí phách, “ nhân danh người trưởng thành tôi xin thưa cùng Thái tử, đó là ý nghĩa ba chữ Hán ghi kín đáo “Đinh khẩu bạch” [丁口白 ] ghi nhỏ trên đầu lá bàị Tuyết là từ Việt cổ nay c̣n vết trong câu thơ của Lê Thánh Tông.
Cắp cầm con Tuyết t́nh cờ đến
Tiếc thay cây mía ngọt lại sâu
( từ BS. Hồ Đắc Duy). Từ “Tuyết” này trong hình là nhánh rong rêu mà biến thành từ Bạch Huê mới là lạ lẫm. Ngoài từ Bạch Huê, không còn một từ nào hay hơn để diễn đạt một khổ nạn thứ nhất trong mười đại khổ nạn mà một đời người phụ nữ Đại Việt phải cam chịu. Khổ nạn này không tự họ gây ra mà là khuyết tật bẩm sinh trong cơ thể một số ít người phụ nữ Đại Việt do vì có gia cảnh nghèo, hay vì lúc mang thai, mẹ nàng đă trãi qua những phút giây chịu đựng trong lo âu, hoặc từ sự suy sinh dưỡng ngay từ người mẹ lúc mang thai truyền sang thai nhi, nay chuyển sang thực tế bất hạnh vì cố tật đội Hán của gia đình nhà chồng, hay của chính anh chồng cà chớn bất tài chỉ có mỗi một tài là tài đổ thừa. Chuyện nhân sinh mười đại nạn người phụ nữ Đại Việt chúng ta cùng gặp nhau trong một bài khác trên trang website này. Nó cần một không gian lớn hơn để tâm tình. Tạm gác chuyện nhân sinh khôn dại khi người phụ nữ Đại Việt muốn thưa cùng Thái tử. Nay chúng ta tiếp tục với đám Quan Bợm nàỵ Trong cỗ bài có lá bài tên là Dọn. Đây là dấu vết của người gốc Quảng Trị. Ngày đó đất Quảng Trị là nơi đặt kinh thành đầu tiên của chúa Nguyễn Hoàng. Người Quảng Trị phát âm NH ==> D, gi. Ví dụ: họ nói: cái thằng nhỏ nhỏ, nhiều người trong họ nói như chim, cái thằng do dỏ. Rất đáng yêu. Người Quảng Nam hiểu ngay lập tức Dọn là Nhọn. Con bài nằm ở bậc thứ bảy. Bảy là thất. Một lá Bài Tới có tên là Thất Nhọn hình thành. Thất nhọn là gì? Thất nhọn là một Quan Bờm sau giai đoạn Lục Chạn. Lục Trạng trở thành viên Quan Bờm chuyên nghề bẻ cong công lư, ngậm máu phun người, kết án người vô tội, không tội đánh cho nhận tội, muốn khỏi đòn roi th́ phải chung chi, đút lót … Đánh mới có tiền lận lưng. Đó là cái nghề làm quan ăn cướp. Thất là tội ác đứng ở bậc thứ bảy.
Phân tuyến 60 lá bài trong bộ Bài Tới Quảng Nam. Đặc diểm từng tuyến: Tuyến I: Là cánh phụ nữ, cánh cuối cùng của chính họ. Họ tự nghĩ về thân phận chính họ.Hình vẽ liên quan đến những ǵ mà người phụ nữ có và đàn ông th́ không có, kể cả phần anatomy trực quan cơ quan sinh dục nữ như lá tứ tượng, dái doi chẳng hạn .. Tuyến II: Là cánh đàn ông không được học hành, họ không thể nào lọt vào chốn quan trường đầy thủ đoạn như cánh III. Hình vẽ liên quan đến những ǵ mà người đàn ông có mà người phụ nữ không có. Tuyến III: là thế giới học tṛ, nhờ cái học mà vào đời qua con đường quan lại, ăn trên ngồi trước với nhiều mưu mô thủ đọan. Hình vẽ là Mặt người luôn có cái quạt mo che mặt.
Bánh chưng cô để đó, chứ cái bánh dầy /(bánh hai, bánh ba) cô để đâu? (AVT)
Đượn /đượng là từ của người Đàng Trong, chỉ "Thẳng" tưng/ băng, ngay chừ! Vài nơi như Phú Yên, gọi Chín gối là chín Q. Hô thai tầm bậy,
Con Q ăn đậu ăn mè Bậy hết sức, cho dù vui là chính. Chín gối là lá bài chỉ điều hoạn nạn bậc chín mà người phụ nữ Đại Việt gặp phải khi họ vớ phải anh chồng thất học, không lo làm ăn, tối ngày chỉ mơ đến chuyện trăng hoa sàm sỡ với phụ nữ khác ngoài vợ mình. Gây khổ đau cho con cái bà. Cái anh chàng này đôi khi " là đại họa cho gia đình vợ". Anh ta thường khi thuổng cả cô em khi có điều kiện, nhất cô em được mẹ phái đến săn sóc cho chị mình lúc sinh nở.
Nam California, Laiquangnam
_______________
Chú thích :
--------------------------- BàiCḥi -Bộ Bài Tới,
Phần II. Cội nguồn sáng tạo: Người Việt.
Gợi ý : bạn có thể dùng Google search các cụm từ “ bàiCḥi, nguồn gốc “, bạn đọc trước các bài viết trên mạng, nhất là bài viết Huỳnh Ngọc Trảng để tiện theo dõi Phần II. Cội nguồn bộ Bài Tới là của TA, 100% không sao tranh cãi được cho dù họ có viện dẫn Tây Tàu ...
Laiquangnam Dư âm bài viết :
Câu chuyện bài chòi, bộ
bài tới Quảng Nam Một người bạn học lớp, sau khi đọc bài này anh viết trên Facebook của mình như sau :
ĐÊM RẰM PHỐ CỔ HỘI AN và sau đây là câu trả lời của Laiquangnam:
laiquangnam xin trả lời bạn
Bạn hoài niệm về bài chòi tại xứ Gò Nổi gồm
Bảo An, Phú Bông, Đông Bàn, Hà Mật, Thi Lai. Bạn trách tôi không
viết về thú vui của bài chòi. Tôi nghĩ vào youtube bạn sẽ gặp
các điều bạn muốn nghe biết.
Thân ái ..
Laiquangnam
|