VỀ VẤN ĐỀ NGUỒN GỐC THƠ
LỤC BÁT
Trong
Facebook của nhóm Diartlogue - Văn đàm có đăng bài
viết "Lục Bát: Của Ta Hay Của Tàu", của tác giả
Đỗ Quý Dân, nhà văn có tầm ảnh hưởng rộng đến
giới trẻ, cùng với lời mời tranh biện. Thấy tầm
quan trọng của vấn đề nguồn gốc này, tôi xin ghi
ra đây nguyên văn bài viết của ông Đỗ Quý Dân cùng
lời phản biện của tôi.
Sau đây là nguyên văn bài viết của ông Đỗ:
LỤC BÁT: CỦA TA HAY
CỦA TÀU?[*]
Từ trước đến nay nhiều người cho rằng thể thơ lục bát là
do người Việt chúng ta đặt ra. Tuy nhiên, thể lục bát đă
được sử dụng trong kinh, truyện, và sử của Trung Quốc
(Kinh Dịch, sách Trung Dung và Tống Sử). Vậy phải chăng
chúng ta đă mượn lục bát từ người Tàu?
Phần diễn giảng hào lục tam của quẻ Khôn trong Kinh Dịch
có hai câu như sau:
“Lục tam, hàm chương khả trinh
Hoặc ṭng vương sự, vô thành, hữu chung.”
Đúng là lục bát. Từ số chữ đến cách gieo vần.
Trong sách truyện (Trung Dung) có hai
câu:
“Phù thủy, nhất thước chi đa
Cập kỳ bất trắc, ngoan đà giao long.”
Rơ ràng là lục bát. Có khác chăng là lời thơ bằng Hán
tự.
C̣n sách Tống Sử có hai câu:
”Đế sĩ Sái Xác hữu công,
Sử chi ṭng tự Triết tông miếu đ́nh..."
Cũng lại lục bát. Trước khi nên thơ văn của Việt Nam
được phát triển.
Khi nhắc đến vấn đề này, cụ Ngô Tất Tố mượn nhân vật “
Cụ bảng”, thầy dạy học của Đào Vân Hạc trong “Lều
chơng”, để bàn như sau:
“ Cũng v́ có mấy câu đó cho nên từ xưa đến nay đă có
nhiều người cho rằng: lối văn trên sáu dưới tám của ta
gốc ở kinh, truyện và sử mà ra. Nhưng theo ư ta, th́ nói
như vậy có lẽ cũng quá khiên cưỡng. Trời đă sinh ra mỗi
nước có một thứ tiếng, th́ tất nhiên mỗi nước cũng phải
có một điệu hát. Nếu bảo điệu hát lục bát gốc ở kinh,
truyện và sử, th́ sao ở Tầu lại không có cái thể văn ấy?
Tuy vậy, các cụ đời trước nói thế, bây giờ ḿnh cũng hăy
hay rằng thế, để rồi kê cứu dần dần, không nên vội vàng
bài bác.” – trích “Lều Chơng” của Ngô Tất Tố.
Không biết đúng sai thế nào, tôi chỉ biết người Việt
chúng ta tự ái rất cao, t́m đủ mọi lư lẽ để chứng minh
ḿnh không lệ thuộc Tàu, nhưng cái mà chúng ta hay gọi
là “chứng minh” chỉ là những ư kiến hết sức chủ quan,
không dựa trên căn bản biện chứng vững chắc. Người Nhật
cũng mượn nhiều từ văn hóa Trung Quốc, nhưng họ không
phủ nhận điều đó mà chỉ đem mấy cái đă “mượn” kia làm
cho hoàn hảo hơn rồi lấy đó làm tự hào. Sao người Việt
chúng ta không làm được như người Nhật nhỉ? Cứ nhận là
lục bát gốc ở Tàu, nhưng người Việt chúng ta đă biến nó
thành thể thơ riêng, đặc biệt của ḿnh đi, có làm sao
đâu?
Chỉ sợ cái tự ái rất Việt Nam sẽ ngăn cản chúng ta làm
chuyện đó.
Đỗ Quý Dân
NHỮNG LỜI PHẢN BIỆN
Đọc qua bài viết của ông Đỗ Quư Dân, tôi nhận xét
như thế này:
- Sau khi viện dẫn 3 câu "thơ" Tàu mà ông cho
là thể thơ Lục bát, Đỗ Quư Dân đưa ra câu nói rất
nặng: "Không biết đúng sai thế nào, tôi chỉ biết
người Việt chúng ta tự ái rất cao, t́m đủ mọi lư lẽ để
chứng minh ḿnh không lệ thuộc Tàu, nhưng cái mà chúng
ta hay gọi là “chứng minh” chỉ là những ư kiến hết sức
chủ quan, không dựa trên căn bản biện chứng vững chắc"
(Đỗ Quý Dân)
Có nghĩa là chuyện ăn cắp thể thơ Lục bát rành rành ra
đó mà c̣n tự ái, còn cãi nữa.
Tôi sẽ lần lượt phản biện về câu "thơ"
trong Kinh Dịch cùng 2 câu trong Trung Dung và Tống
sử mà ông Đỗ cho là thơ Lục bát, cùng vài điểm
nhỏ về "tự ái" dân tộc.
1. Về Kinh Dịch
Vì trong bài viết của Đỗ Quý Dân có liên hệ đến
Quẻ Dịch - hào Lục tam - nên tôi ghi ra đây sơ lược
vài hàng về Dịch:
Kinh Dịch là một trong ba bộ kinh cổ nhất của
Trung quốc, sau Kinh Thi và Kinh Thư,
nhưng nguồn gốc của nó (tức bát quái) th́ có thể sớm
hơn, vào cuối đời Ân, khoảng 1.200 năm trước Tây Lịch.
Nó không do một người viết, mà do nhiều người góp sức
trong một ngàn năm, từ Văn Vương nhà Chu măi đến đầu đời
Tây Hán.
Vì nó được "tập đại thành" có hệ thống và
giảng giải sơ khởi bởi Chu Văn Vương, và được
giải thích rõ thêm bởi con ông là Chu Công nên
thường được gọi là Chu Dịch. ( Cũng có
nhiều nguồn khả tín cho biết Dịch phát xuất từ
nước nông nghiệp: Lạc Việt nên còn được gọi là
Việt Dịch) .
Điều kỳ dị nhất của Dịch là nó chỉ dựng trên thuyết âm
dương, trên một vạch liền ____ tượng trưng cho dương,
một vạch đứt __ __ tượng trưng cho âm. Hai vạch đó chồng
lên nhau, đổi lẫn cho nhau nhiều lần thành ra tám h́nh
bát quái, rồi tám h́nh bát quái này lại chồng lẫn lên
nhau thành sáu mươi bốn h́nh mới: Lục thập tứ quái: 64
quẻ.
Sáu mươi bốn quẻ mới này gọi là trùng quái (quẻ trùng)
để phân biệt với tám quẻ nguyên thủy gọi là đơn quái
(quẻ đơn).
Mỗi quẻ trùng có 6 vạch - gọi là hào - thứ tự từ dưới
lên trên là: Sơ, nhi, tam, tứ, ngũ và thượng. Gọi là
thượng mà không gọi là lục v́ trong Kinh Dịch, Lục (6)
là Âm: (vạch đứt: _ _ ), Cửu (9) là Dương: (vạch liền:
___ ). Riêng đặc biệt 2 quẻ Thuần Càn và Thuần
Khôn có thêm hào 7 gọi là dụng.
Thí dụ: Thượng lục là hào 6 âm, Thượng cửu là hào 6
dương, Cửu ngũ là hào 5 dương v.v ...
[Trích Quẻ Dịch, Cách Lập Và Giải Đoán - Nguyên
Lạc ] [*]
Trong bài, Đỗ Quư Quân nói hào "lục tam" nghĩa là
hào 3 âm của quẻ Khôn/ Thuần Khôn. Thử xét quẻ
trùng này:
QUẺ THUẦN KHÔN
Quẻ Thuần Khôn là quẻ thứ 2 trong 64 quẻ Dịch,
nó gồm 6 vạch âm: (vạch đứt: _ _ ). Hào từ của quẻ
Khôn (có thêm hào dụng như đã nói) từ dưới lên
trên, kể cả lời Kinh là:
7. DỤNG LỤC: Lợi vĩnh trinh.
6. LỤC THƯỢNG: Long chiến vu dã, kỳ huyết huyền
hoàng.
5. LỤC NGŨ: hoàng thường, nguyên cát.
4. LỤC TỨ: quát nang, vô cữu, vô dự.
3. LỤC TAM: hàm chương khả trinh, hoặc tòng vương
sự, vô thành hữu chung.
2. LỤC NHỊ: trực phương đại, bất tập vô bất lợi.
1. SƠ LỤC: Lý sương, kiên băng chí.
(Hào từ của quẻ Khôn từ dưới lên trên)
Hào Lục Tam mà Đỗ Quý Dân liên hệ là hào 3 âm.
Sau đây là lời hào Lục Tam - Hào 3 Âm - qua các
lời giải:
六三:含章可真,或從王事,無成有終.
Lục Tam:
Hàm chương khả trinh, hoặc ṭng vương sự, vô thành
hữu chung.
Dịch nghĩa:
- Hào Sáu Ba:
Ngậm văn vẻ, có thể chính; hoặc theo đuổi việc nhà vua,
không cậy công; th́ được tốt lành về sau.- Lời giải
của Ngô Tất Tố.
- Hào 3, âm:
Ngậm chứa (đừng để lộ ra) đức tốt mà giữ vững
được, có khi theo người trên mà làm việc nước,
đừng chiếm lấy sự thành công thì sau cùng sẽ có
kết quả - Lời giải của Nguyễn Hiến Lê.
Lời hào lục tam là "Hàm chương khả trinh; hoặc
ṭng vương sự, vô thành hữu chung" viết liền
và chỉ có 12 âm tiết. Ông Đỗ Quý Dân đă không
lương thiện khi ghép thêm tên hào LỤC TAM vào 12
âm tiết của nội dung HÀO, cho đủ 14 âm tiết theo cách
“mập mờ đánh lận con đen”, rồi viết xuống ḍng kiểu
“trên 6, dưới 8”, và gọi đó là THƠ LỤC BÁT:
“Lục tam, hàm chương khả trinh
Hoặc ṭng vương sự, vô thành, hữu chung.”
(Đỗ Quý Dân)
Rõ ràng có sự "nhập nhằng", có ý đồ ở đây!
2.
Về hai câu thơ Trung Dung và Tống Sử
Trong sách truyện (Trung Dung) có hai câu:
“Phù thủy, nhất thước chi đa
Cập kỳ bất trắc, ngoan đà giao long.”
Sách Tống Sử có hai câu:
”Đế sĩ Sái Xác hữu công,
Sử chi ṭng tự Triết tông miếu đ́nh..."
Đúng là các câu lục bát âm Hán Việt dẫn trên đều là
có đủ 6 thanh điệu: ngang (không dấu), huyền,
sắc, hỏi, ngă và nặng. Nhưng ông Đỗ nên nhớ rằng
tiếng Tàu chỉ có 4 thanh điệu: âm b́nh, dương b́nh,
thượng thanh và khứ thanh. Hán Việt là đọc chữ Hán
theo âm Việt chứ âm Tàu đâu phải vậy. [Mời các
bạn đọc thêm phần thanh điệu ở phụ chú dưới của
Thiếu Khanh và nhà giáo, nhà thơ La Thụy] [@.Phụ
Lục]
Theo riêng tôi, đây là cách các cụ đồ nho Việt Nam
hồi trước dùng thể lục bát để diễn giải Trung Dung (của
Khổng Tử) và Tống Sử cho các môn sinh hoặc người sau
dễ dàng hiểu mà thôi.
3.Về sự tự ái của
người Việt
Ông Đồ Quý Dân nói:
"Không biết đúng sai thế nào, tôi chỉ biết người Việt
chúng ta tự ái rất cao, t́m đủ mọi lư lẽ để chứng minh
ḿnh không lệ thuộc Tàu, nhưng cái mà chúng ta hay gọi
là “chứng minh” chỉ là những ư kiến hết sức chủ quan,
không dựa trên căn bản biện chứng vững chắc. Người Nhật
cũng mượn nhiều từ văn hóa Trung Quốc, nhưng họ không
phủ nhận điều đó mà chỉ đem mấy cái đă “mượn” kia làm
cho hoàn hảo hơn rồi lấy đó làm tự hào. Sao người Việt
chúng ta không làm được như người Nhật nhỉ?..."
Tôi có thêm ý kiến ngắn về điều này:
-- Có chút tương đối "tích cực" trong ý nghĩ
này, nhưng ông Đỗ nên nhớ:
- Nếu không có tự ái dân tộc thì không có lòng
yêu nước. Tuy nhiên phải suy nghĩ cho tận tường về
lòng tự ái của mình, điều nào nên, điều nào
không nên, nên tránh. Tự ái chủ quan mù quáng sẽ
chặn bước tiến của dân tộc. Cái hay, cái đẹp là
của chung nhân loại khi được công bố; và nước nào
cũng có, chậm mau tùy điều kiện. Con người cao
hơn con vật là ở tính "Kế thừa". Dại gì để mất
thời gian, có khi cả đời để phát minh, phát kiến
cái mà người xưa đã?
- May mắn cho nước Nhật là có được minh quân Minh
Trị Thiên Hoàng và Yukichi Fukuzawa [***] đưa đến
công cuộc Duy tân, canh tân đất nước trong một thời
gian ngắn chỉ hơn 50 năm, biến nước Nhật thành
cường quốc. Nhật không chỉ “Thoát China”, mà c̣n vượt
qua China nhờ học hỏi Hà Lan/ Tây phương. Giả dụ
nếu không "Thoát China", biển đảo của Nhật chắc
cũng giống như của Việt Nam bây giờ thôi.
LỜI KẾT
Thật lòng nói, bài viết của ông Đỗ tôi không cần
phải bỏ nhiều thời gian phản biện như vầy, vì
nó "bình thường" lắm; tôi không dám nói "ấu trỉ"
như các bạn tôi vì sợ ông buồn. Tuy nhiên, như
người Mỹ nói: "Once and for all": Trả lời một lần
những ai cứ cho rằng mọi điều của Việt Nam
đều từ China; giống như một số người cố
tình cho truyện Kiều/ Đoạn Trường Tân Thanh là từ
Thanh Tâm Tài Nhân của China mà ra, sao không nghĩ
ngược lại?
Trân trọng và mong các bạn góp thêm ý kiến.
Mời đọc thêm Phụ Lục dưới.
.
Nguyên Lạc
...................
[*] Đây là FB của bài Đỗ Quý Dân
https://www.facebook.com/groups/339950766569558/
[**] Quẻ Dịch, Cách Lập Và Giải Đoán 1 - Nguyên Lạc
https://khoahocnet.com/2016/12/13/nguyen-lac-que-dich-cach-lap-va-giai-doan-bai-1/
http://phudoanlagi.blogspot.com/2019/01/que-dich-cach-lap-va-giai-oan-nguyen-lac.html#more
Quẻ Dịch, Cách Lập Và Giải Đoán 2
https://khoahocnet.com/2016/12/29/nguyen-lac-que-dich-cach-lap-va-giai-doan-bai-2/
[***] Yukichi Fukuzawa - Khuyến Học
Fukuzawa Yukichi là nhà tư tưởng có ảnh hưởng sâu rộng
nhất đối với xă hội Nhật Bản thời cận đại. Người Nhật
tôn vinh ông là "Voltaire của Nhật Bản", không chỉ v́
tính triệt để và tầm mức vựơt trội trong tư tưởng của
ông, mà c̣n v́ cũng như danh nhân người Pháp, Fukuzawa
Yukichi cùng những người đồng chí của ḿnh là những
người khai sáng tinh thần quốc dân Nhật Bản, đem lại
linh hồn, động lực và sự hậu thuẫn tinh thần cho công
cuộc Duy tân của chính phủ Minh Trị. Những tác phẩm của
ông dù viết từ hơn một thế kỷ trước nhưng vẫn được người
Nhật Bản ngày nay hết ḷng ngưỡng mộ.
.
@. Phụ Lục
Xin được ghi ra đây thêm những phản biện về bài
viết của Đỗ Quý Dân:
I. Phản biện của Đỗ Phú
Đây là phản biện của nhà văn, nhà nghiên cứu về
Tây nguyên Đỗ Phú:
Tác giả bài viết là ông Đỗ Quư Dân quá ấu trĩ. Ba cặp
câu mà ông Dân nêu ra, xét về luật, vần th́ đúng là 3
cặp thơ Lục bát, 3 cặp câu Lục Bát hay, khó có.
Tuy nhiên để gọi 1 cặp câu Lục Bát là 1 bài thơ th́ chưa
đủ. Hai câu thơ 7 chữ đối nhau cũng chỉ là 1 cặp đối chứ
không phải là 1 bài thơ đường luật. 3 cặp câu ông Dân
nêu ra bất quá chỉ là Tàu cú mà thôi.
Để gọi là một ḍng thơ cần phải xét đến tính phổ quát
của nó. Dọc theo từng thời kỳ phát triển của thơ ca, thể
loại thơ đó, ḍng thơ đó phải xuất hiện liên tục và
không gián đoạn. Và điều tiên quyết là mọi nhà thơ của
quốc gia, hoặc các nhà thơ sống tại lănh thổ mà ḍng thơ
đó xuất hiện đều có sáng tác thơ theo thể loại này.
Thể thơ lục bát cũng không ngoại lệ. Muốn nói nó là thể
thơ của quốc gia nào, phải xét khía cạnh có bao nhiêu
bài thơ được lưu truyền, bao nhiêu tác giả danh tiếng,
bao nhiêu bài bất hủ mà đại chúng hầu hết đă từng nghe,
từng đọc.
Không thể v́ 3 câu lục bát t́m được trong 3 quyển sách
khác nhau mà kết luận xứ sở nào đó khai sinh ra ḍng thơ
này.
Nếu nói lục bát là của Trung Quốc. Câu hỏi là tại sao
chỉ có 3 cặp câu? Tại sao trong vài ngàn năm người Trung
Quốc không làm thơ lục bát nữa? Thể thơ này v́ sao
không được lưu truyền? Nếu nó chết th́ tại sao nó chết?
Nếu nó vẫn sống th́ sao lại không thấy thơ?
Đỗ Phú
.
II. Phản biện của La Thụy
Đây là phản biện của nhà giáo, nhà thơ La Thụy:
A. Xét việc KINH DỊCH dùng thể thơ lục bát, cụ
thể là Quẻ Thuần Khôn theo như ông Đỗ Quý Dân nêu.
Ta thấy:
* HÀO TỪ của QUẺ THUẦN KHÔN gồm có:
1/ SƠ LỤC: Lý sương, kiên băng chí. (5 âm tiết)
2/ LỤC NHỊ: trực phương đại, bất tập vô bất lợi.
(8 âm tiết)
3/ LỤC TAM: hàm chương khả trinh, hoặc tòng vương
sự, vô thành hữu chung.
(Chỉ có 12 âm tiết trong 3 cụm từ - mỗi cụm từ có 4 âm
tiết)
4/ LỤC TỨ: quát nang, vô cữu, vô dự. (6 âm tiết)
5/ LỤC NGŨ: hoàng thường, nguyên cát. (4 âm tiết)
6/ LỤC THƯỢNG: Long chiến vu dã, kỳ huyết huyền
hoàng. (8 âm tiết)
7/ DỤNG LỤC: Lợi vĩnh trinh. (3 âm tiết)
Trong quẻ thuần khôn của Kinh Dịch từ SƠ LỤC cho đến
DỤNG LỤC hoàn toàn không thấy thể lục bát như THƠ LỤC
BÁT Việt Nam “trên 6 dưới 8” gồm 14 âm tiết.
- Trong đó, HÀO LỤC TAM viết liền (không viết xuống ḍng
kiểu “trên 6, dưới 8”), chỉ có 12 âm tiết. Ông Đỗ Quý
Dân đă có dụng ư riêng khi ghép thêm tên hào LỤC TAM vào
12 âm tiết của nội dung HÀO, biến hóa cho đủ 14 âm tiết,
ông ấy lại viết xuống ḍng kiểu “trên 6, dưới 8”, rồi
gọi đó là THƠ LỤC BÁT:
(“Lục tam, hàm chương khả trinh
Hoặc ṭng vương sự, vô thành, hữu chung.” – Đỗ Quư
Dân)
Mà LỤC BÁT theo kiểu ông Đỗ Quư Dân không đúng LUẬT
THANH, chữ thứ tư phải là thanh trắc (trong khi CHƯƠNG
trong ‘hàm chương’ lại mang thanh bằng). Không giống như
thơ Tàu nói riêng, thơ thế giới nói chung - chỉ gieo vần
chân (cước vận), thơ lục bát và thơ song thất lục bát
Việt Nam ngoài việc gieo vần chân, c̣n có thêm vần lưng
(yêu vận) nữa, mà thơ Tàu th́ hàng ngh́n năm vẫn chỉ
gieo vần chân mà thôi…
.
B. Xét việc SÁCH TRUYỆN TRUNG DUNG và việc SÁCH
TỐNG SỬ dùng thể thơ lục bát như ông Đỗ Quý Dân nêu:
Trong sách truyện (Trung Dung) có hai câu:
“Phù thủy, nhất thước chi đa
Cập kỳ bất trắc, ngoan đà giao long.”
Sách Tống Sử có hai câu:
“Đế sĩ Sái Xác hữu công,
Sử chi ṭng tự Triết tông miếu đ́nh...”
(Theo Đỗ Quý Dân)
*
Theo tôi, cái gọi là sách truyện Trung Dung, sách Tống
Sử này, ta nên xem thử ai là tác giả, có lẽ các nhà Nho
Việt Nam hồi trước hứng khởi dùng thể lục bát để diễn
giải Trung Dung (của Khổng Tử) và Tống Sử đó thôi. Nếu
có điều kiện, chúng ta nên xem lại Trung Dung và Tống Sử
(văn bản được xem là chính quy) sẽ tường tận hơn các bản
do ông Đỗ Quý Dân nêu mà không nói rơ tên tác giả.
*
Mấy ông đồ nho cũng đă từng dùng thể lục bát để nêu cách
viết chữ ĐỨC 德 đó mà:
Chim chích mà đậu cành tre
Thập trên, tứ dưới, nhất đè chữ tâm
Chữ ĐỨC:
Bên trái có bộ xích (ở đây có h́nh tượng con chim chích
đậu trên cành tre) – Chích và Xích cũng cùng âm
Bên trên có chữ thập: 十
Dưới chữ十 là chữ Tứ: 四
Dưới nữa là chữ Nhất: 一
Dưới cùng là chữ Tâm: 心
*
Tiếng Tàu chỉ có 4 thanh điệu: âm b́nh, dương b́nh,
thượng thanh và khứ thanh. Trong khi âm Hán-Việt xét
theo h́nh thức (của ngữ pháp thông dụng), có đến 6 thanh
điệu: ngang (không dấu), huyền, sắc, hỏi, ngă và nặng.
Phiên thiết Hán-Việt về thanh điệu th́ 6 thanh điệu đó
tương ứng với:
1/ Phù b́nh thanh – không dấu
2/ Phù khứ thanh –dấu sắc
3/ Phù thượng thanh – dấu ngă
4/ Trầm b́nh thanh – dấu huyền
5/ Trầm thượng thanh – dấu hỏi
6/ Trầm nhập thanh – dấu nặng
Theo ông Lê Ngọc Trụ và một số nhà làm từ điển khác,
chia làm 8 thanh bậc: phù b́nh, trầm b́nh, phù thượng,
trầm thượng, phù khứ, trầm khứ, phù nhập, trầm nhập.
* Thanh b́nh: Có hai bậc, phù và trầm.
- Thanh b́nh bậc phù (phù b́nh hay âm b́nh) là những
tiếng không dấu, tức thanh ngang. Ví dụ: vui, hương.
- Thanh b́nh bậc trầm (trầm b́nh hay dương b́nh) là
những tiếng có dấu huyền. Ví dụ: đà, điền, thần.
Điều cần chú ư là các chữ thanh ngang bắt đầu bằng l, m,
n, ng, nh, d, v đều thuộc "trầm b́nh" ("hạ b́nh") trong
cách áp dụng phiên thiết (Lê Ngọc Trụ) như: minh, nhân,
vân, nếu không sẽ sai về bậc thanh. Điều này rất ít tác
giả nhấn mạnh.
* Thanh thượng: Có hai bậc, phù và trầm.
- Thanh thượng bậc phù (phù thượng) là những tiếng có
dấu hỏi. Ví dụ: bả, hải, trảm.
- Thanh thượng bậc trầm (trầm thượng) là những tiếng có
dấu ngă. Ví dụ: mẫu, nữ, ngữ.
* Thanh khứ:
- Thanh khứ bậc phù (phù khứ) là những tiếng có dấu sắc.
Ví dụ: đấu, phóng, tiến.
-Thanh khứ bậc trầm (trầm khứ) là những tiếng có dấu
nặng. Ví dụ: đại, tại, vọng.
* Thanh nhập:
- Thanh nhập bậc phù (phù nhập) là những tiếng có phụ âm
cuối là p, t, ch, c và có dấu sắc. Ví dụ: đáp, thiết,
trách, tróc.
- Thanh nhập bậc trầm (trầm nhập) là những tiếng có phụ
âm cuối là p, t, ch, c và có dấu nặng. Ví dụ: đạp, diệt,
thạch, trạc.
Tiếng Quan thoại có 1280 âm trong khi tiếng Việt có từ
khoảng 4500 đến 4800 âm đọc, tùy theo phương ngữ, và
6200 âm viết trong quốc ngữ. Thơ Tàu không gieo vần lưng
(yêu vận).Thanh điệu của ngữ âm Tàu chỉ có 4 thanh bậc
không được phong phú 8 thanh bậc như ngữ âm Việt Nam.
Rơ ràng các câu lục bát Tàu trên do ông Đỗ Quư Dân nêu,
đều mang âm Hán Việt có đủ 8 thanh bậc… Nên, Khổng Tử
không thể ghi dạng lục bát đủ 8 thanh bậc theo âm tiết
Việt trong khi san định Kinh Dịch và khi viết Trung
Dung. Tương tự, sách Tống Sử cũng thế.
C. Xét việc học giả Ngô Tất Tố được ông Đào Quư
Dân nêu:
“Khi nhắc đến vấn đề này, cụ Ngô Tất Tố mượn nhân vật
‘Cụ bảng’, thầy dạy học của Đào Vân Hạc trong ‘Lều
chơng’, để bàn như sau:
“Cũng v́ có mấy câu đó cho nên từ xưa đến nay đă có
nhiều người cho rằng: lối văn trên sáu dưới tám của ta
gốc ở kinh, truyện và sử mà ra. Nhưng theo ư ta, th́ nói
như vậy có lẽ cũng quá khiên cưỡng. Trời đă sinh ra mỗi
nước có một thứ tiếng, th́ tất nhiên mỗi nước cũng phải
có một điệu hát. Nếu bảo điệu hát lục bát gốc ở kinh,
truyện và sử, th́ sao ở Tầu lại không có cái thể văn ấy?
Tuy vậy, các cụ đời trước nói thế, bây giờ ḿnh cũng hăy
hay rằng thế, để rồi kê cứu dần dần, không nên vội vàng
bài bác.” – trích ‘Lều Chơng’ của Ngô Tất Tố”
Trong trích đoạn mà ông Đỗ Quư Dân nêu ở trên, th́ cụ
Ngô Tất Tố cũng đặt câu hỏi nghi ngờ đó mà...
*
Tôi đồng ư với anh Đỗ Phú:
“3 cặp câu lục bát t́m được trong 3 quyển sách khác
nhau mà kết luận xứ sở nào đó khai sinh ra ḍng thơ này.
Nếu nói lục bát là của Trung
Quốc. Câu hỏi là tại sao chỉ có 3 cặp câu? Tại sao
trong vài ngàn năm người Trung Quốc không làm thơ lục
bát nữa? Thể thơ này v́ sao không được lưu truyền? Nếu
nó chết th́ tại sao nó chết? Nếu nó vẫn sống th́ sao lại
không thấy thơ.”
La Thụy
III. Thêm về vụ "thanh điệu".
Mời các bạn đọc trích đoạn từ bài viết của
Thiếu Khanh:
Một học giả rất nổi tiếng của Trung quốc hiện đại là
“Quư Tiễn Lâm (季羡林 Ji Xian-lin, 1911-2009), người được
dư luận chính thống nước này tôn vinh là “Quốc học đại
sư”, “Học giới Thái đẩu” (Siêu sao trong giới học
thuật), “Quốc bảo” (Báu vật của nước nhà)” vân vân, viết
rằng “chữ viết của người Việt Nam sau khi được La tinh
hóa, đầu đội mũ, chân đi giầy, rất nực cười,” (越 南 文 字 拼
音 化 之 后,头戴帽子,脚穿鞋子,很滑稽. [Việt Nam văn tự bính âm hóa chi
hậu, đầu đái mạo tử, cước xuyên hài tử, ngận hoạt kê] )
Ts Nguyễn Hải Hoành nhận thấy cái ông “đại sư” “quốc
bảo” của Tàu nói năng hồ đồ và chứng tỏ chẳng biết ǵ cả
về chữ quốc ngữ của người Việt. Dù vậy, h́nh tượng “đội
mũ mang giầy” mà Quư Tiễn Lâm gán cho chữ quốc ngữ của
chúng ta, cũng ngộ nghĩnh đó chớ. “Mũ” và “giầy” theo
con mắt Quư Tiễn Lâm chính là các dấu phụ nguyên âm
(diacritical marks). và dấu giọng (accent marks) chúng
ta “gắn” vào chữ viết của ḿnh.
"Đội mũ mang giầy: chuyện không đơn giản" Đây nhé:
-- Cái ông “siêu sao học thuật” (Học giới Thái đẩu) của
Tàu này không hề... rê đuốc vào chân ḿnh, chỉ nói lấy
được. Trong bài viết dẫn trên, Ts Nguyễn Hải Hoành cho
biết: “Tiếng phổ thông TQ có 4 thanh điệu, v́ thế chữ
Latin trong phương án Hán ngữ Pinyin do Nhà nước TQ ban
hành sử dụng từ năm 1958 cũng phải kèm theo 4 dấu giọng,
ví dụ [lī], [lí], [lǐ], [ĺ], ngoài ra các phụ âm kép
như zh, ch, sh có thể viết tắt là ẑ, ĉ, ŝ. Như vậy chữ
Hán ngữ Pinyin (Bính âm) cũng “đội mũ,” v́ sao cụ Quư
Tiễn Lâm lại chỉ chê chữ Quốc ngữ Việt Nam “rất nực
cười”?”
Ts Nguyễn Hải Hoành nhắc lại lời học giả Hồ Thích từ 100
năm trước “phán” về chữ quốc ngữ của người Việt: “Chữ
viết Việt Nam hiện nay xem ra giống như chữ Pháp bị nước
mưa xối tan ra, giống như phiên bản Latin của chữ h́nh
vuông, vừa không thanh thoát cũng chẳng mỹ quan.” Hồ
Thích cho rằng chữ quốc ngữ của người Việt Nam vừa không
giống chữ Hán, không giống chữ Nôm (đă đành!) lại không
giống chữ Pháp, mà cũng không giống cả chữ La tinh,
“nghĩa là không đâu vào đâu, chẳng ra cái giống ǵ.” .
Lời phán ấy có lẽ khiến một số nhà nho Việt Nam thủ cựu
bài bác chữ Quốc ngữ thời đó khoái lắm.
-- Xem ra các tay học phiệt Tàu không biết ǵ về chữ
quốc ngữ của Việt Nam, chỉ phán bừa v́ họ rất hậm hực về
việc Việt Nam “thoát Trung” thành công về mặt văn tự.
Với thứ chữ viết La tinh hóa này chỉ trong khoảng 60 -
70 năm người Việt Nam đă hoàn toàn thoát ra khỏi hệ
thống văn tự Hán, điều mà người Nhật và người Hàn đă
không làm được, dù họ cũng sáng tạo được văn tự riêng
cho ḿnh.
-- Tiếng Việt có 6 thanh (Phù b́nh thanh – không dấu,
Phù khứ thanh –dấu sắc, Phù thượng thanh – dấu ngă, Trầm
b́nh thanh – dấu huyền, Trầm thượng thanh – dấu hỏi, và
Trầm nhập thanh – dấu nặng), nên phải dùng 5 kư hiệu
sắc, huyền, hỏi, ngă, nặng để phân biệt thanh điệu.
Tiếng Trung quốc (chỉ có 4 thanh: âm b́nh thanh, dương
b́nh thanh, thướng thanh, và khứ thanh) không có thanh
“trầm nhập” như tiếng Việt nên chữ “bính âm” (pinyin)
của họ không mang dấu “nặng”, tức là họ có đội mũ mà
không mang giầy, giống như anh chàng nhà quê đội măo mà
không mang hia, hoặc như Táo quân mặc áo mà không mặc
quần chớ ǵ mà cười tiếng Việt! [ theo Thiếu Khanh ]
Link: Chữ Quốc Ngữ và Hội Chứng nhảy cừu-
Thiếu Khanh:
http://www.art2all.net/tho/tho_tk/chuquocnguvahoichungnhaycuu.htm
art2all.net