Phạm Đức Thân
CÓ CHĂNG MỘT VĂN HÓA ĂN THỊT NGƯỜI?
Gold Rush 1925
Ăn thịt
người là một đại cấm kỵ của nhân loại. Thỉnh thoảng cũng có những ghi
nhận của nhà thám hiểm hay du lịch về hiện tượng này tại một vài dân tộc
thiểu số, bán khai...Ví dụ dân Wari (Ba Tây) ăn thịt người thân chết để
bớt đau buồn; dân Fore (Papua New Guinea) ăn thịt thân quyến vừa mất để
giữ lại linh hồn; dân Nabutautau (đảo Fiji) kiêng xoa đầu trẻ em, người
lạ vi phạm bị xử tử và ăn thịt.
Ngoài tục lệ, tín ngưỡng như trên, cũng thường có chuyện ăn thịt kẻ thù
hoặc nô lệ, ngoại nhân. Thế kỷ XVII một giáo sĩ Pháp ḍng Dominico đă
nhận xét rằng dân Carib có xếp loại thịt kẻ thù: Pháp thơm ngon nhất,
sau tới Anh; thịt Đức nhạt nhẽo và khó tiêu, Tây Ban Nha dai, có luộc
chín vẫn hạng bét. Dân Carib, nay thuộc vùng Guadeloupe, Carribbean, đọc
theo tiếng Arawak là Cariba mà Columbus nghe lầm thành Caniba; từ đó
phát xuất chữ "cannibal" (dân ăn thịt người).
Nhiều tài liệu kể lại rơ ràng cả cách chặt xẻ, nấu nướng thịt cho thấy
ăn thịt người trước kia có dân Aztec, Chichimeca, Tupinamba, Ethitopia,
Da Đỏ Bắc Mỹ, Maoris, Melasenian... Và sau này xuất hiện vài kẻ ăn thịt
người nổi tiếng như Alfred Packer, Johnson Ăn Gan, Issie Sagawa, Jeffrey
Dhadmer ...trước khi Thomas Harris hư cấu nhân vật nổi tiếng Bá Tước BS
Hannibal Lecter trên truyền thông.
Trên thực tế, ăn thịt người quả có xẩy ra, nhất là trong thiên tai, mất
mùa, ngục tù... Ví dụ như nạn đói ở Ukraine 1932-33 (chết 5 triệu), trại
tập trung Do Thái của Đức Quốc Xă Thế Chiến II (chết
6 triệu), trại lao
cải và đại nạn sai lầm của Bước Nhẩy Vọt tại Trung Quốc 1958-61 (chết
phỏng đoán trên 50 triệu), trại tù Soviet (chết 20 triệu). Riêng tại VN
nạn đói năm Ất Dậu 1945 làm chết 2 triệu, do mất mùa cộng với chính sách
thu gom lúa gạo của phát xít Nhật và thực dân Pháp.
Sở dĩ có chuyện ăn thịt người là v́ khi đói hành hạ, người ta mất khôn.
Lănh sự quán Ư Đại Lợi ở Trung Quốc báo cáo rằng cơn đói phát sinh hoang
tưởng do thiếu vitamin, khiến nh́n con cái thành chỉ là con vật, cho nên
giết và ăn thịt con. Một số sống sót sau nạn đói, không nhớ và chối chưa
bao giờ nghĩ vậy. Phim hài The Gold Rush (Cơn Sốt Vàng) diễn tả
rất đúng trạng thái bị đói hành hạ: Big Jim nh́n Charlot thành con gà,
và Charlot nh́n đôi giầy thành thực phẩm, ăn uống ngon lành cả dây giầy,
làm khán giả cười nghiêng ngửa.
Trung Quốc là nước đông dân, thường bị lũ lụt, hạn hán làm mất mùa (từ
108 BC đến AD 1911 có 1828 đại nạn) bị đói đe dọa triền miên. Lại thêm
kiến thức y khoa hạn chế, cho thịt người là bổ. Ăn thịt người diễn ra
trên suốt chiều dài lịch sử tới tận ngày nay, và c̣n thấy ghi trong sách
vở, sử liệu cũng như văn học. Phát sinh một loại "văn hóa nạn đói",
truyền từ đời này qua đời kia. Dân chúng biết rơ loại cây cỏ dại nào có
thể ăn được, loại nào nên bán để đuợc tiền, và cả thứ tự ai phải bị hy
sinh trước, khi cần thiết. Dân An Huy c̣n có kinh nghiệm nhận ra kẻ ăn
thịt người: thân thể có mùi khác lạ và mắt cũng như da đỏ au.
Thật ra thực tế cho thấy có hai hậu quả đối với kẻ ăn thịt người. Một
mặt, hắn trở nên tham ăn khủng khiếp, gần như biến thành man rợ. Mặt
khác, hắn nghĩ ḿnh đă được bồi dưỡng bởi một loại thực phẩm đặc biệt có
ma lực huyền bí, cho nên cảm thấy tự tin, cường tráng hẳn lên
Ăn thịt người có một chỗ đứng thật độc đáo trong văn hóa Trung Quốc và
được dân chúng tôn trọng. Phải chăng có một nền văn hóa ăn thịt người ở
Trung Quốc bao gồm ăn thịt người chết, giết người ăn thịt để khỏi chết
đói, ăn thịt người để trả thù, để bồi bổ, để chữa bệnh, cũng như buôn
bán thịt người để làm thực phẩm, dược phẩm...?
Cách đây hơn 2000 năm, triều đại Hán được thiết lập giữa đổ nát hoang
tàn của chiến tranh và đói kém, chết gần nửa số dân, khiến năm 205 BC
Hán Cao Tổ phải ra chiếu chỉ, cho phép dân bán hoặc ăn thịt con. Tháng
Năm 549 BC quân nhà Chu phong tỏa thủ đô của nhà Tống. Dân Tống ghi lại:
"Trong thành, chúng tôi hoán đổi con của nhau để ăn thịt, và chẻ xương
làm củi". Thời Đại Nhẩy Vọt nông dân An Huy cũng như nhiều địa phươg
khác đă lập lại hành động trên để khỏi chết đói và khỏi mang tiếng, v́
đây là ăn con người khác chứ không phải ăn con ḿnh. Cho thấy cái văn
hóa ăn thịt người này xuất phát từ 2500 năm trước và tiếp tục tới nay.
Ăn thịt người để khỏi chết đói hoặc do bị điên không c̣n biết đúng sai,
là chuyện có thể hiểu được và diễn ra khắp nơi. Bài này chỉ bàn về Trung
Quốc v́ hiện tượng ăn thịt người phổ thông hơn, cũng như có thêm các
nguyên ủy khác ngoài khỏi chết đói. Ray Kay Chong (trong sách
Cannibalism in China) đă phân ra hai loại: Một là ăn thịt người để
sống c̣n, do hoàn cảnh bức bách (nạn đói, trong tù, lênh đênh trên biển,
hay lạc trong rừng...) phải chọn giải pháp cuối cùng này. Hai là ăn thịt
người do những nguyên ủy khác (bồi bổ, chữa bệnh, trả thù, tập tục, tín
ngưỡng...) sẽ được đề cập chính trong bài.
1/ Ăn thịt người để bồi bổ hoặc chữa bệnh.
Từ cổ đại, theo Jitsuro Kubawata, người ta đă biết ăn thịt người, và ghi
ra những cách nấu nướng, sử dụng: Phủ (cắt và sấy thịt), Canh (đun sôi
trong món canh), Hài (xay nhỏ thịt), và Luyến (cắt thịt)
Thịt người được cho là thơm ngon.. Nhiều món đặc biệt dành cho phú hộ,
quan chức giầu có. Nhiều cách bảo tŕ, muối thịt để giữ được lâu. Dao
Qingyi, đời Nguyên, trong sách Chuo Geng Lu, khuyên ăn thịt trẻ
em v́ thơm ngon nhất, và đề nghị ăn nguyên con, ăn cả xương. Ông gọi
người lớn là "cừu hai chân" và cho rằng thịt phụ nữ ngon hơn thịt cừu.
Lư Thời Trân, đời Minh, cho rằng thịt người tốt cho bệnh lao. Năm 1578,
ông ra sách tham khảo y khoa (Ben Cao Gang Mu - Materia Medica)
liệt kê 35 bộ phận hoặc phần thịt khác nhau của người có thể chữa được
một số bệnh. Một vài bộ phận được cho là gia tăng khả năng mây mưa. Thái
giám đời Minh cố t́m lại sinh lực bằng cách kiếm ăn óc của thanh thiếu
nam hoặc thịt trai tân. Đời Thanh, thiên hạ tin rằng máu tươi tốt cho
sinh dục. Khi có hành h́nh công khai, các bà có chồng bất lực, thường
mua máu tươi của tội nhân để hấp hoặc dúng bánh cho chồng ăn, khôi phục
dương cương. Máu tươi phụ nữ được coi như có công dụng trẻ hóa.
Thế kỷ XIX, vua quan hoặc đao phủ thường thích ăn tim, óc của tội nhân
để bồi dưỡng. Sang thời hiện đại, vẫn có người tin rằng thịt người bồi
bổ hoặc chữa bệnh. Tại Bắc Kinh, một ông lấy cắp xác ở nghĩa trang, xẻo
thịt nấu xúp, và nghiền nhỏ xương để bồi bổ sức khỏe cho vợ. Tại Quảng
Đông có chuyện buôn bán thai nhi và làm xúp để bán, coi như phương pháp
làm đẹp. Nhà báo Arthur tố cáo chính phủ Trung Quốc thường lấy cơ quan
nội tạng của tội nhân để cấy ghép. Và tin trên báo thỉnh thoảng vẫn có
chuyện mua bán nội tạng, hoặc giết người để lấy nội tạng. Gần đây kiểm
tra phát hiện tại Đại Hàn và Châu Phi, dược phẩm Trung Quốc có DNA thịt
người.
Quan niệm thịt người ngon bổ - ăn không phải v́ đói, thù hận, hay được
thánh hóa nhờ tính cách thiêng liêng của thịt (vd. thịt Đường Tăng, hoặc
người bị tế thần...) - xuất phát từ ư nghĩ coi thịt người cũng giống như
thịt các thú khác, nghĩa là người cũng chỉ là một loại động vật ăn thịt.
Điều này có thể thấy bao hàm trong Hán tự.
Trung Quốc chỉ có chữ "nhục" để chỉ thịt, không phân biệt thịt người (flesh)
hay thú (meat), muốn chỉ rơ phải ghép thêm chữ: "nhân nhục"
(thịt người), "trư nhục" (thịt heo), "điểu nhục" (thịt
chim).... Sau này Phật Giáo có chữ "nhục thân" để chỉ phần xác
tan ră sau khi phần hồn tiêu diêu. Dân gian có chữ "nhục thể" chỉ
thân xác, đối nghịch với "tinh thần". Tiếp đó với trào lưu nhân
bản thời Khai Sáng (Enlightenment) tính vật chất của duy vật lịch
sử, xuất hiện chữ "thân thể" thay cho "nhục thể" để nâng
cấp thân xác. Phần không có xác được gọi là "bản thể" (lơi,
xương), dẫn đến "nhân bản" chỉ cái ǵ liên hệ đến con người
("bản" ở đây có nghĩa là gốc).
Chữ "nhục" sau này nặng về tính dục xác thịt, như trong "nhục
dục" (ham muốn xác thịt), "Nhục Bồ Đoàn" (Đệm Thịt Người) tác
phẩm của Lư Ngư. Chữ dùng chỉ giao hơp gồm chữ "nhập" trên chữ "nhục"
tượng trưng dương vật đi vào thịt âm hộ. Để bớt tính xác thịt, người ta
thêm chữ "t́nh", cho nên có "t́nh dục" "t́nh dâm".
Tóm lại do ư nghĩa phức tạp mơ hồ của "nhục", đa số người b́nh thường
chỉ có "nhục nhăn", nh́n thân xác chỉ như một tảng thịt, cho nên
dễ phạm vào ăn thịt người cũng là điều dễ hiểu.
2/ Ăn thịt người để báo hiếu, chứng tỏ can đảm, hoặc hiến thịt để trả
ơn.
Theo sách cổ, trên lư thuyết, xưa Trung Quốc có tục chôn tùy ṭng (có
thể là vợ, quản gia, người trung thành....) theo vua chúa, quư tộc qua
đời. Trước khi chôn cất có 3 tháng tang ma thương tiếc, và xác được phân
chia cho con cái tiêu thụ để giải trùng cho người chết được thăng thiên.
Con cái ăn chứng tỏ hiếu đễ, được thừa hưởng cốt cách của bố, xứng đáng
nối dơi tông đường.
Thời Tiên Tần (khoảng 2100 B.C) Hậu Nghệ Đại Cung Thủ nước Hữu Cùng
chết, xác được nấu xúp chia cho các con trai, chúng sợ không dám ăn,
liền bị đem chém tại Cùng Môn. Ngược lại, để chứng tỏ đởm lược, Vua sáng
lập nhà Chu, bị đối thủ thách đố, đă ăn xúp thịt của con trai, và Hán
Cao Tổ , năm 203 B.C., cũng ăn xúp thịt của bố.
Sách đời Tống ghi lại chuyện cắt thịt để nuôi người già . Con dâu thường
cắt thịt đùi nấu xúp để mẹ chồng ăn. Việc này phổ biến đến nỗi vua phải
ra lệnh cấm. Chuyện kiểu này cũng được dựng thành tuồng, với tích Xuân
Đào Cắt Thịt. Chồng nàng là Bạch Trọng Minh lên kinh thành dự thi. Xuân
Đào ở nhà nuôi mẹ chồng già yếu bệnh hoạn đă cắt thịt ḿnh để nuôi bà.
3/ Ăn thịt v́ thù oán, trả thù
Ăn thịt trả thù có thể diễn ra giũa cá nhân cũng như tập thể, và thường
là trong thời chiến. Vương Măng cướp ngôi nhà Hán, về sau thua, bị cắt
lưỡi làm món cho bên thắng cuộc sơi. Sách Cựu Đường Thư chép chuyện Wang
Juncao giết Li Junze để trả thù cho cha và moi tim gan của địch nhân ra
ăn. Sách Tùy Thư ghi lại chuyện Wang Bang thù Trần Vơ Đế đến độ đập
lăng, đào mả ông này, xác đốt thành tro rồi ḥa nước uống.
Thịt người là một loại thưc phẩm đăc biệt nên gặp dịp chính đáng nhiều
người không ngần ngại xuống tay. Sách Zizhitongjian thuật vài vụ
xẩy ra thời Đường. Năm 739 một viên quan nhận hối lộ để che chở tội của
đồng liêu, bị phát giác. Vua sai đánh đ̣n phạt, và viên chức thi hành
moi tim nạn nhân và ăn một miếng thịt. Năm 767, có người giết đối thủ v́
đă bị y tố cáo làm bậy, sau đó xẻ thịt thành những miếng nhỏ để ăn. Năm
803 một sĩ quan cầm đầu toán nổi loạn, giết chỉ huy và làm thịt ông này.
Trong chiến tranh, không những dân trong thành hay đồn bị chiếm, mà cả
tù nhân và xác kẻ thù cũng có thể thành nguồn thực phẩm. Dưới thời vua
Wu Di ( AD 502-549) tù nhân trong cũi bị đem bán, và khi thiếu thịt, có
thể bị giết, đem nấu ăn. Thời giặc Khăn Vàng nhà Đường, cả hàng ngản
người bị làm thịt để ăn mỗi ngày. Thế kỷ sau, Wang Yancheng xứ Min, nghe
nói đă ướp muối và phơi khô xác địch quân để làm lương thực dự trữ cho
binh lính.
Trong cuộc Khởi Nghĩa Thái B́nh (1850 - 64) hai bên đều có người ăn tim
tù nhân để được gan dạ. Thịt và bộ phận người bầy bán công khai ngoài
chợ. Cũng c̣n có người bị bắt cóc để làm thịt. Lính Trung Hoa đóng tại
Đài Loan trước chiến tranh Trung - Nhật (1894-95) cũng mua ăn thịt dân
bản xứ bán ngoài chợ.
Khổng Tử không chê trách trả thù. Ông bảo than khóc, để tang bố mẹ chết
một cách ám muội nghi ngờ th́ không đủ mà phải t́m cách trả thù. Trời
c̣n khen kẻ trả thù. Không những giết mà c̣n ăn cả tim gan xương thịt kẻ
thù. Sử Trung Hoa nhan nhản chuyện vua chúa ăn thịt nhau. Có khi dùng
thịt người bắt ăn để thử dạ trung thành, không ăn là phản bội th́ bị
thái nhỏ đem ướp muối. Có khi người thắng buộc kẻ thua phải ăn thịt vợ,
con hoặc bố ḿnh. Nhiều khi chết rồi vẫn chưa yên, có thể bị đào xác
lên, đốt thành tro...
Thời chiến tranh Quốc- Cộng thập niên 40 vẫn xẩy ra thỉnh thoảng quân
hai bên ăn thịt nhau. Thời Cách Mạng Văn Hóa (1966 - 1976) tại Quảng
Tây, học sinh giết hiệu trưởng ngay tại sân trường, rồi đem nấu ăn, mừng
thắng lợi bọn phản cách mạng. Có trường hợp học tṛ là bồ cũ của con
trai hiệu trưởng, giết hiệu trưởng rồi xẻ thịt ăn để chứng tỏ dứt khoát
theo Cách Mạng Văn Hóa. Cafeteria của nhà nước treo lủng lẳng xác người
trên móc, và phục vụ thịt người cho nhân viên. Harry Wu, trong sách
Laogai:The Chinese Gulag (Lao Cải: Hệ Thống Trại Tù Trung Quốc) ghi
lại chứng kiến tù nhân Yang Baoyin ở Sơn Tây bị hành quyết v́ viết "Đả
Đảo Mao Chủ Tịch", và óc được cán bộ Công An tiêu thụ.
4/ Ăn thịt người trong văn học
Ăn thịt người là một thực thể trong xă hội Trung Quốc cho nên không thể
không xuất hiện trong văn học dân gian cũng như bác học. Ở đây chỉ xin
liệt kê một số điển h́nh trong các tác phẩm nổi tiếng.
Trong Thủy Hử (tác giả Thị Nại Am) luôn có nhắc đến hắc điếm,
quán trọ dọc đường có thể là nơi không an toàn. Chủ điếm có thể là đạo
tặc bất lương, giết người cướp của và lấy thịt làm nhân bánh. Trước khi
lên Lương Sơn Bạc, Tôn Nhị Nương cùng chồng là Trương Thanh đă từng mở
tửu điếm như vậy và Vơ Ṭng suưt chết ở đây. Các đại vương, hảo hán trên
núi cũng thích moi gan nạn nhân để nhắm rươụ. Hảo hán Lư Quỳ giết Lư Quư
rồi ăn thịt. Tống Giang suưt bị giết để lấy gan làm thuốc giải rượu cho
đầu lĩnh Trương Anh.
Trong Tam Quốc Chí (tác giả La Quán Trung) Lưu An giết vợ, cắt
thịt ở cánh tay làm thức ăn dâng lên Lưu Huyền Đức. Trong Tây Du Kư
(tác giả Ngô Thừa Ân) Đường Tăng là một món thịt quư giá, luôn luôn bị
săn đuổi ráo riết để làm thịt.
Kim Dung cũng không quên điểm xuyết trong truyện của ḿnh những đoạn
liên quan đến ăn thịt người. Trong Anh Hùng Xạ Điêu, Quách Tĩnh
hút máu rắn của Lương Tử Ông được tăng công lực và bị Lương Tử Ông truy
sát để hút máu sống. Trong Ỷ Thiên Đồ Long Kư, Vi Nhất Tiếu bị tẩu hỏa
nhập ma, khi thi triển nội công phải hút máu người sống, nếu không toàn
thân sẽ bị cóng lạnh chết. Trương Vô Kỵ suưt bị bọn Tiết Viễn Công, Giản
Tiếp giết ăn thịt. Lời Giản Tiếp "Bụng đói nổ đom đóm thế này, dù
ngươi có là em ruột, con ruột th́ ta cũng ăn cả xương lẫn da" mô tả
rất đúng tâm trạng kẻ sắp chết đói. Trong Liên Thành Quyết, Hoa
Thiết Cán ăn thịt hai anh em kết nghĩa là Lục Thiên Trữ và Lưu Thừa
Phong. Hoa Thiết Cán nói với Thủy Sinh: "Thịt người sống ngon hơn
thịt người chết".
Lỗ Tấn trong Nhật Kư Người Điên mô tả một người điên bị ám ảnh ai
cũng muốn ăn thịt ḿnh. Trong truyện có đoạn: "Hăy nh́n vào lịch sử:
nó không phải ghi lại thời gian, mà mỗi trang đều viết khó hiểu những
chữ 'rộng lượng, chính trực, đạo đức'. Thao thức không ngủ được tôi xem
kỹ tới lui măi suốt nửa đêm, và sau cùng nhận ra rằng, giữa các hàng
chữ, đều là cùng một chữ - 'ăn thịt người' ". Ngoại nhân có thể nghĩ
đây chỉ là ẩn dụ, nhưng nhân dân Trung Quốc do kinh nghiệm thực tiễn
chắc chắn hiểu rơ đó là một sự thật không thay đổi trong xă hội Trung
Quốc.
Từ xưa Khổng Tử đă đề cao phong hóa, nếp sống văn minh, coi chuyện ăn
thịt thú cũng là bất đắc dĩ nếu không ăn được toàn rau quả củ. Thế mà ăn
thịt người có một chỗ đứng xuyên suốt độc đáo trong xă hội Trung Quốc.
Vậy đạo đức, luân lư để đâu? Phải chăng trong một ư nghĩa nào đó, có thể
coi như đây là một nền văn hóa đặc biệt?
Văn hóa là tác phong tập tục của xă hội và phải được đánh giá trong bối
cảnh xă hội, lịch sử. Xă hội khác nhau nẩy sinh những giá trị và tiêu
chuẩn khác nhau, không thể đánh giá lẫn lộn. Thuyết tương đối văn hóa,
mà Clifford Geertz là một đại diện, cho rằng luân lư, đạo đức không có
tính tuyệt đối, toàn cầu mà tùy theo bối cảnh, địa phương. Con người đă
tiến hóa để sống văn minh. B́nh thường th́ như vậy, nhưng trong hoàn
cảnh khắc nghiệt, để sinh tồn, có khi phải từ bỏ tác phong đă được cấy
vào đầu óc. Nghĩa là không có cái gọi là "nhân tính tự nhiên", bản tính
con người có khi lệ thuộc điều kiện văn hóa.
Thành thử, nếu bảo Trung Quốc có một nền văn hóa ăn thịt người, th́ đó
chỉ là nêu lên một thực tiễn, không hề có bao hàm ư nghĩa đánh giá, phê
phán.
Phạm Đức Thân
(tham khảo chính M.Granet, K.C.Chang, G.Yue, J. Becker)
art2all.net
|