MÙA THU, NHỮNG DI DÂN
Di dân là "số" phần, (a matter of arithmetic), theo Kundera. Joseph Conrad, sống 17 năm tại Ba-lan, và tại Russia, lưu vong cùng với gia đ́nh. 50 năm c̣n lại, ở Anh, hay trên những con tầu Anh. Đương nhiên, ông viết văn bằng tiếng Anh, về đề tài Anh. Ông bị dị ứng, khi đụng phải những ǵ có "mùi Nga": dấu vết Ba-lan độc nhất ở nơi ông. Tội nghiệp Gide, không thể hiểu tại sao Conrad "không thiện cảm" với Dostoevsky. Bohuslav Martinu sống ở Bohemia đến năm 32 tuổi, sau đó, 36 năm ở Pháp, Thuỵ sĩ, Hoa kỳ, rồi lại Thuỵ sĩ. Ông luôn coi ông là một nhà soạn nhạc Czech, và hoài cố hương cũng là chất nhạc của ông. Nhưng sau chiến tranh, ông từ chối mọi lời mời trở về. Vào năm 1979, hai mươi năm sau khi ông chết, những "biệt kích" làm hỏng ước muốn được mồ yên mả đẹp ở Thuỵ sĩ, đă quật mồ, "bắt cóc", long trọng làm một cuộc "hôn nhân cưỡng ép" với đất mẹ cho cái xác chết của ông. Gombrowics sống 35 năm tại Ba lan, 23 năm tại Argentina, 6 năm tại Pháp. Tuy chỉ viết văn bằng tiếng Ba-lan; nhân vật, người Ba lan, nhưng khi được "mời về", ông ngần ngại, cuối cùng từ chối, rồi an nghỉ đời đời ở miền Nam nước Pháp.
Ba phần đời sấp xỉ bằng nhau của Stravinsky: Nga, 27
năm, Pháp và Thuỵ sĩ- Pháp, 29 năm và Hoa kỳ, 32 năm. Chất Nga đậm đặc
trong sáng tác của ông, những năm đầu xa xứ tại Pháp. Rồi chiến tranh
cắt đứt dần những mối nối, tuy nhiên ông vẫn là một nhà soạn nhạc Nga
với những sáng tác mang chất thơ dân giă của quê hương. Sau Cách mạng
Nga, ông hiểu rằng, ông đă mất hẳn, nơi chốn ra đời, và cuộc đời di dân
thực sự bắt đầu. Khi ông chết, vào năm 1971, bà vợ đă bác bỏ đề nghị của
chính quyền Xô-viết, và thực hiện đúng ước nguyện của ông, được chôn tại
một nghĩa địa ở Venice. gđ: Nhạc sĩ Phạm Duy đă là một trong những linh hồn của giới văn nghệ sỹ trong sáu năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, khi văn nghệ c̣n ít nhiều tự do, chưa bị siết trong sự quản chế của Đảng Cộng sản. Đă sống và sáng tạo trong sự biến thiên sâu sắc của lịch sử hiện đại Việt Nam, bác nghĩ như thế nào về thời kỳ ấy? Liệu có thể coi đây là một trong những giai đoạn thành công, đáng ghi nhớ nhất trên hành tŕnh sống và sáng tạo của nhạc sĩ Phạm Duy? Phạm Duy: Tôi hănh diện v́ được tham gia vào kháng chiến chống Pháp và v́ đă đóng góp được vào nền âm nhạc nước nhà bằng ba mươi bài ca kháng chiến. Không lúc nào tôi phủ nhận điều này. Giờ đây, tôi vẫn cho rằng trong ṿng năm trăm năm nay, nước ḿnh chỉ có mười năm đoàn kết, thực sự yêu nhau, cùng gánh vác giang sơn và đó chính là khoảng thời gian từ bốn nhăm đến năm nhăm (1945-1955). C̣n nhà cầm quyền và nhân dân đánh giá như thế nào về phần đóng góp của tôi thời kháng chiến, là ba mươi ca khúc ấy, th́ nói thật: tôi xin chịu. Tôi chỉ biết cống hiến xong rồi, là xong (cười). gđ: Nhắc đến Phạm Duy, không thể không nhắc đến Văn Cao. Có thể coi Văn Cao như là điển h́nh cho thế hệ văn nghệ sỹ của bác, tài hoa nhưng gặp bao nhiêu là tai họa bởi chế độ độc tài cộng sản. Nhiều người đă nghĩ rằng gia tài âm nhạc của Văn Cao sẽ không chỉ có thế, ngót nghét hai chục bài, nếu ông được sống cho âm nhạc trong những điều kiện khác. Thế c̣n bác, bác nghĩ thế nào về vấn đề hết sức tế nhị này?
Phạm Duy: (cười) Tôi phải công nhận là anh Văn Cao
tài hoa hơn tôi nhiều lắm. Về nhạc, về vẽ. Về thơ. Đủ thứ. Đủ mọi phương
diện. Nói anh ấy không may th́ cũng không đúng. Anh ấy đă chọn con đường
của anh ấy. Tôi cũng chọn con đường của tôi: làm một người tự do tuyệt
đối. Vào thời điểm 1951, tôi cũng được chính quyền và nhân dân yêu lắm.
Nhưng tôi muốn được tự do, để sáng tác, vâng thế là tôi đi. Đi cho tới
lúc này, ngồi cạnh các anh ở Hannover, vẫn chưa ngừng nhé, (cười). Ông
Văn Cao th́ ở lại. Việc đánh giá ông ấy, cũng như kết quả đến với ông ấy
ra sao th́ tôi không dám nói. Văn Cao có cái vinh cái nhục của Văn Cao.
Tôi cũng thế. Văn Cao được chết ở đất quê. Chứ c̣n tôi, nay mai chết sẽ
được chôn ở Bắc cực chăng? (cười)... Về Văn Cao, bài viết của Hoàng Phủ Ngọc Tường, trong Hợp Lưu (trích đoạn): Đêm ấy, trong cuộc tâm t́nh nghệ sĩ của Văn Cao với những ngư phủ trên Phá Tam Giang, tôi muốn biết một điều mà với tôi là một bí ẩn thuộc về đời ông: -Tại sao kháng chiến chống Pháp, anh vẫn vẽ, vẫn làm thơ, nhưng người ta không nghe anh hát nữa? -Hồi nhận viết Tiến Quân Ca, tôi không hề chuẩn bị trước để làm một bài hát, mà một đặc nhiệm nguy hiểm của đội biệt động. Tôi là đội viên biệt động vũ trang. Nhiệm vụ của tôi là trong một đêm, cầm một khẩu súng, vào một thành phố, để giết một người. Tôi đă làm xong việc ấy. Đó là chiến tranh, và căm thù, đơn giản thôi. Những ngày đầu sau chiến tranh, tôi đă trở lại căn nhà ấy, thấy c̣n lại một gia đ́nh mẹ góa con côi. Làm sao tôi có thể nói điều cần thiết nhất đối với tôi trong những bài hát sau đó? Nói về chiến công, hay phải nói một điều ǵ khác? Nên tôi im lặng, và chỉ viết nhạc không lời. (Khi Văn Cao mất, báo Time có loan tin, và trích dẫn một câu trong bài Tiến Quân Ca, người viết bài này ghi chú thêm). Và Hoàng Phủ Ngọc Tường kết luận:... nhưng tôi nghĩ, chỉ có những nghệ sĩ lớn mới nuôi cho ḿnh những bi kịch như vậy. Những con số: một đêm, một người, một khẩu súng, một thành phố, một việc ấy, một gia đ́nh mẹ goá con côi, những ngày đầu sau chiến tranh.
Không ai biết được, những người chết, "ở bên trong"
con số 10 yêu thương đoàn kết. Khái Hưng và những đồng chí của ông, Phan
Văn Hùm, Tạ Thu Thâu... Không phải chuyện chính trị đảng phái không thôi.
Sống, chết. Đi, Ở. Văn chương, nghệ thuật, âm nhạc, ư thức hệ (quốc cộng),
đất nước phân đôi, từ đó. Tâm trạng "thiên di" (émigration) bắt đầu từ
Mùa Thu.
Phạm Duy muốn làm một người tự do tuyệt đối nên đă bỏ
vào thành. Nhưng Văn Cao, chỉ v́ muốn đồng nhất với tự do tuyệt đối, nên
đă cầm súng giết người. Thiên tài Mayakovski cần thiết cho Cách Mạng Nga
cũng như trùm công an mật vụ, là vậy.
Bằng cung cách của một người hát rong vượt bực, Phạm
Duy có thể cảm nhận "niềm tủi hổ" của Kafka, khi ông không làm hiện thực
chủ nghĩa. Có thể ông cảm nhận, và "yêu" sự tự do tuyệt đối của ông, v́
nó là tinh thần nghệ thuật hiện đại. Và chủ nghĩa hiện đại là nạn nhân
đầu tiên của chủ nghĩa CS. Cenek, trong "Chuyện Diễu" của Kundera, bị
đưa đi tù v́ say mê hội họa lập thể, "Kẻ Thù Số Một" của "nhân dân", của
Cách Mạng. Kundera không thể nào quên nổi nhà thơ Konstantin Biebl, và
thuộc ḷng những vần thơ của ông. Khốn khổ cho thi sĩ, ông là người say
mê chủ nghĩa CS. Được Đảng giao trách nhiệm, làm những vần thơ tuyên
truyền, cuối cùng, để trốn tránh thơ ca, và cách mạng, ông gieo ḿnh từ
cửa sổ căn pḥng ông xuống hè đường Prague, và chết. "Không ai có thể đi xa hơn Kafka, trong Vụ Án. Ông tạo một h́nh ảnh "cực kỳ thơ", về một "thế giới cực kỳ không thơ". Bằng thế giới cực kỳ không thơ, tôi muốn nói, một thế giới trong đó không có chỗ cho tự do cá nhân, không có sự độc nhất vô nhị: là một cá nhân. Nơi con người chỉ là dụng cụ của những sức mạnh phi nhân: Thư lại, Kỹ thuật, Lịch sử. Bằng h́nh ảnh cực kỳ thơ, tôi muốn nói, không thay đổi yếu tính, cũng như bề ngoài không thơ, Kafka đă "nắn lại" thế giới đó, bằng sức tưởng tượng bao la, đầy thi tính của ông."(Kundera, sđd). K. hoàn toàn bị vụ án ám ảnh, không lúc nào anh không nghĩ về nó. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh tuyệt vọng như thế đó, đột nhiên, bất th́nh ĺnh, có những cửa sổ hé ra đối với anh, dù chỉ một thoáng thôi, nhưng cho thấy thi tính của thế giới bên ngoài, "sự tự do tuyệt đối", hay chỉ là một cuộc sống b́nh thường mà một con người đang bị săn đuổi, tầm nă, mơ ước? Theo nghĩa đó, 1984 của Orwell, tự nó, đă gia nhập vào tinh thần "toàn trị". Nó giản lược (và dậy người ta giản lược cuộc sống của xă hội bị thù ghét, xă hội CS, thành một bản liệt kê những tội ác của nó. Bài phỏng vấn trên "gió đông", khi nhắc đến Văn Cao, những người chủ trương tờ báo có thể chỉ muốn "khoanh vùng" con người hát rong Phạm Duy vào một mùa, Mùa Thu. Tôi không hiểu, Văn Cao, khi đề tặng "Buồn Tàn Thu" cho Phạm Duy, liệu ông có "thấu thị" Phạm Duy sẽ "thoát ra" được và giúp ông gieo nhạc buồn đi khắp chốn? Với tôi, Phạm Duy hay nhất vẫn là những bản nhạc t́nh. Giống những cửa sổ, đối với K. trong Vụ Án. Lần đó, ở trong trại cải tạo, nằm kế một anh bạn. Chẳng bao giờ anh hát. Một buổi tối, cả hai không ngủ được. Nói chuyện lăng nhăng một hồi, và đột nhiên anh thủ thỉ một ḿnh. Những ǵ ..."đưa nhau tới bên cầu", "giờ đây cơn mộng tan rồi"... Sau này, mỗi lần nghe nhạc Trịnh Công Sơn, tôi có cảm tưởng cuộc chiến c̣n nguyên đó, đối với riêng tôi, những ngày ở Trung Tâm Ba Quang Trung, lần đầu tiên xa Sài-g̣n, xa cô bạn. Nhưng, nếu không có nhạc Phạm Duy, không hiểu những ngày ở trong trại cải tạo c̣n thê thảm tới bực nào, đối với hai bạn tù...
(Nguồn : Tin Văn
|