Istanbul

 

Nỗi buồn Istanbul

 

Orhan Pamuk

 

Nguyễn Quốc Trụ chuyển ngữ

 

1

Nh́n thành phố qua mầu đen trắng của nó là nh́n nó qua vẻ xám xịt, xỉn x́n xin của lịch sử: Vẻ gỉ sét của cái già khằn, cái nhạt nḥa, ch́m dần vào hư vô, vào quên lăng, và chẳng c̣n làm cho phần c̣n lại của thế giới thắc mắc làm chi cho mệt. Ngay cả cái kiến trúc Ottoman lớn lao nhất như thế rút cục đành tỏ ra khiêm tốn, thôi thế th́ thôi, trong cái vẻ u sầu, ủ ê tận cùng đế chế, dưới cái nh́n chằm chằm ra vẻ khinh khi, coi thường của Âu Châu, và sự nghèo đói từ đời thuở nào cứ thế kéo dài giống như một căn bịnh vô phương cứu chữa. Chính t́nh cảm nhẫn nhục, cũng đành đó, đă nuôi dưỡng phần “hồn lại nh́n hồn” xót xa của Istanbul.  

 

Muốn tóm được cái linh hồn đen trắng của thành phố, muốn ngắm nh́n thềm sương mù ngồi xổm lên trên nó, muốn thở ở trong nỗi buồn mà những cư dân của nó ôm khư khư như số mệnh chung của họ, bạn chỉ cần bay từ một thành phố Tây phương giầu có, và cứ nhắm những con phố đông đúc mà hướng tới; nếu là mùa đông, bạn chỉ cần đi lên cầu Galata Bridge, và sẽ thấy một lũ người cùng mặc một thứ quần áo nhợt nhạt, buồn bă, giống như những bóng ma. Những người của Istanbul cùng thời với tôi, họ rất ít khi xỏ vào người thứ quần áo sặc sỡ, mầu đỏ, mầu vàng tươi, hay mầu xanh, mà những tổ tiên ngạo nghễ, tự hào của họ đă từng mặc; với những du khách ngoại quốc, nếu mới tới, vừa nh́n thấy họ lần đầu tiên, là sẽ nghĩ rằng, cái kiểu ăn mặc như thế, là để tỏ ra cố gắng không muốn làm phiền ai, cố gắng tỏ ra họ là những con người khiêm tốn giản dị, để được điểm đạo đức! Họ như muốn nói với du khách người nước ngoài, vâng chúng tôi ăn mặc đen trắng như thế là để cùng u sầu buồn bă với thành phố của chúng tôi, trong nỗi buồn đi xuống của nó, ở cái thời điểm tận cùng của một đế chế kéo dài một trăm năm mươi năm.  

 

Và những du khách Tây Phương thế kỷ 19, từ Lamartine tới Gérard de Nerval tới Mark Twain, tất cả đều phụ họa thêm vào nỗi bi hài, ấy là v́ họ miêu tả mấy chú chó lang thang trên những đường phố Istanbul, với cùng một nỗi say mê và hào hứng như nhau, và như thế, lại càng nuôi dưỡng thêm cho cái t́nh cảm đen trắng của tôi về thành phố của ḿnh. Khi quân đội làm một cú đảo chính, chẳng chóng th́ chầy, một ông tướng sẽ nhắc tới sự đe dọa của chó; nhà nước, nhà trường thực thi không biết bao nhiêu là chiến dịch nhằm xoá sạch h́nh ảnh chó trên đường phố, nhưng cứ như bắt cóc bỏ dĩa. Đáng sợ như là đáng sợ, với những hàm răng nhe nhơn nhởn hướng về bạn, đoàn kết như là đoàn kết, để chứng tỏ chúng coi thường, thách thức nhà nước. Làm sao mà tôi không thương hại những con vật mất mát, điên khùng cố bám lấy linh hồn chó Thổ từ thuở xa xưa của chúng?

 

 

2

 

Mỗi lần đọc Trăng trên vịnh Bosphorus là mỗi lần tôi buồn lạ lùng, tiếc hùi hụi, giá như ḿnh có mặt tại đó, nhập vào những đam mê, nhập vào niềm im lặng ”thuyền mấy lá đông tây lặng ngắt”, thay v́ phải đọc qua một tác giả, rồi tôi sướng mê tơi khi nghĩ đến chuyện, làm sao, bằng cách nào, nhà văn, bị nỗi hoài nhớ thúc bách đến trở thành mù loà và cứ thế ch́m xuống những ḍng nước ngầm đen thui, quỉ ma của cái thiên đàng đă mất của ông. Vào những đêm trăng, khi những lá thuyền tụ lại ở một khoanh biển yên tĩnh, tiếng nhạc tắt ngấm, vào lúc đó, ngay A.S. Hisar cũng cảm nhận ra điều này: “Những lúc không một hơi gió, làn nước, đôi khi, như một cơn chuyển ḿnh từ bên trong, lao xao, khiến mặt nước óng ánh như mặt lụa.”

 

Ngồi trên thuyền cùng với bà mẹ, h́nh như đối với tôi, những màu sắc trên những ngọn đồi Bosphorus không phản chiếu thứ ánh sáng bên ngoài. Những cây judas và vạn niên thanh, những cánh chim hải âu vỗ vùn vụt khi bay qua chúng tôi, những bờ tường kho chứa ghe thuyền, lở chỉ c̣n chừng một nửa, tất cả như phản chiếu một thứ ánh sáng mờ nhạt từ bên trong. Ngay cả vào những ngày nóng nực nhất, khi những đứa trẻ con nhà nghèo nhẩy từ con đường nơi bến tầu xuống mặt biển, mặt trời ở đây có vẻ như cũng không hoàn toàn làm chủ khí hậu và phong cảnh. Và tôi thật mê, trong khi cố cắt nghĩa, cảnh tượng, vào lúc ráng chiều mùa hè rớt xuống, cũng là lúc Bosphorus trộn bầu trời đỏ rực vào với sự bí ẩn của riêng nó về bóng tối. Tôi mê mầu nước thay đổi khi nó chuyển ḿnh, như được bứt ra khỏi sự cầm giữ, và sủi bọt sùng sục, càng trở nên hung hăn khi những con thuyền cắt ngang nó. Nhưng ngay ở bên dưới mớ bọt biển kia, là phần biển mềm mại hơn, mầu sắc của nó không thay đổi ǵ nhiều, nhấp nha nhấp nhô, giống như bể hoa súng trong tranh Monet.

 

Vào giữa thập niên 1950, trong khi học tại Robert Academy, tôi dành khá nhiều th́ giờ, đứng giữa đám người đợi xe buưt buổi sáng tại Besiktas-Sariyer, nh́n lên những ngọn đồi phía bờ biển Á Châu, trong lúc Bophorus chập chờn như một biển cả bí mật, thay đổi mầu sắc cùng với mặt trời lên. Vào những buổi chiều xuân sương mù, khi không một cọng lá nào ở trong thành phố ŕ rào lao xao, vào những đêm hè không một cánh gió, không một tiếng động, một người đàn ông lặng lẽ bước một ḿnh sau nửa đêm dọc theo bờ biển Bophorus, anh ta chỉ nghe tiếng bước chân của chính ḿnh, và khi anh ta ṿng ṿng ở khu Akinti Burnu, rồi đi quá Arnavukoy, hay khi anh ta đi tới ngọn hải đăng ở chân nghĩa trang Asiyan Cemetery, đúng lúc đó, anh sẽ nghe thấy tiếng gầm thật hạnh phúc, thật đáng sợ và thật sung măn của con nước, và gật gà gật gù, những đợt khói sóng, mớ bọt biển kia, chẳng biết đến từ nơi nao, và tự hỏi, như Hisar đă từng, và tôi cũng đă từng tự hỏi, liệu chăng Bosphorus có một linh hồn.

 

Tôi nói về mầu của những cây bách, của những khu rừng âm u ở những nếp gấp của những thung lũng, của những yah hoang phế, trống rỗng, bị con người bỏ bê, tôi nói về thơ ca của những con tầu và những yali của Bophorus mà chỉ những ai đă từng tiêu hết, đốt hết cuộc đời của họ ở hai bên bờ th́ mới hiểu được, tôi nói về sự khám phá ra niềm vui của cuộc sống trong những điêu tàn đổ nát của một nền văn minh khi nó đă đạt tới một cung cách rất ư là đặc thù, của riêng nó, tôi nói về sự ngần ngại, không làm sao quyết định, những đau khổ, những niềm vui và những kinh nghiệm của điều mà người ta gọi là cuộc đời, ở một nhà văn năm chục tuổi, và sự khát khao được sung sướng hạnh phúc, và được vui thích như là một đứa trẻ con mà với nó, Lịch sử và những văn hóa chẳng là cái thá ǵ, với niềm khao khát hiểu biết cuộc đời bằng sự chân thành. Tuy nhiên, ngay khi tôi bắt đâu gợi ra vẻ đẹp và thi ca Bosphorus, của những con phố âm u Istanbul, một giọng nói ở trong tôi dè chừng, này, đừng có cường điệu những vẻ đẹp của thành phố mà tôi sống ở đó, như thể, nó muốn tôi giấu diếm ngay cả với chính tôi cái bất toàn không viên măn của cuộc đời mà tôi sống, có lẽ sự thiếu vắng cái đẹp ở trong chính cuộc đời của chính tôi là nông nỗi này: Nếu tôi nh́n thành phố và thấy nó đẹp, nó hớp hồn, nó mê hoặc, th́ cuộc đời của tôi bắt buộc cũng phải như vậy. Rất nhiều nhà văn những thế hệ trước tôi rớt vào thói hư tật xấu này, khi viết về Istanbul: ngay cả khi họ suưt xoa, hít hà vẻ đẹp của thành phố, khiến tôi mê mẩn với những câu chuyện của họ, rốt cuộc th́ tôi cũng hiểu ra rằng th́ là họ đâu có c̣n sống ở nơi chốn mà họ miêu tả, và họ thèm đến rỏ nước miếng những tiện nghi hiện đại của những đô thị Tây phương. Từ những đấng đàn anh này, tôi hiểu ra rằng, một khi có kẻ ngợi ca vẻ đẹp của Istanbul, điều đó có nghĩa, kẻ này đă tếch mẹ nó khỏi thành phố từ đời nảo đời nào rồi, và không phải là không có tí mặc cảm tội lỗi: Với một nhà văn suốt ngày lảm nhảm về những điêu tàn, về nỗi buồn của thành phố, của Bosphorus, kẻ này chẳng hề có khi nào thắc mắc, về thứ ánh sáng ma quỉ giáng xuống cuộc đời của chính anh ta, ui chao, ta đă làm chi nửa sau đời ta? Để mà bắt kịp, với tới, hay xứng đáng, với những vẻ đẹp của Bosphorus, là phải luôn luôn nhớ điều này: có một sự khác biệt rất lớn lao, giữa cuộc đời dơ dáng, thảm hại, nhếch nhác, sa đọa của chính cá nhân một con người, một cựu cư dân của thành phố, với những thành quả, chiến thắng, những vẻ đẹp huy hoàng của quá khứ .

 

 

3.

 

Gautier, nhà văn, kư giả, nhà thơ, nhà dịch thuật, và tiểu thuyết gia, là bạn trung học của Nerval. Hai người trải qua thời trai trẻ cùng với nhau, cả hai đều mê chủ nghĩa lăng mạn của Victor Hugo, và có một dạo, họ ở rất cận kề với nhau, ở Paris, và chẳng bao giờ có chuyện sứt mẻ. Một vài ngày trước khi tự tử, Nerval đi thăm bạn, và khi Nerval tự treo ḿnh lên một cái cột đèn đường, Gautier viết một bài tưởng niệm cảm động, theo ḍng “đi t́m một linh hồn”, về người bạn đă mất của ḿnh.

 

Hai năm trước, năm 1852, (chín năm sau chuyến đi và đúng một trăm năm trước khi tôi ra đời), những biến động -  sau này khiến Nga xô đối nghịch với Anh, đem nước Pháp đến gần với Đế quốc Ottoman, và mở ra Cuộc Chiến Crimean - lại một lần nữa khiến cho những cuộc du hành về phương Đông trở nên thích thú đối với những độc giả Pháp. Khi Nerval mơ tưởng một chuyến đi thứ nh́ về phiá Đông, th́ chính là Gautier đă tới Istanbul. Nhờ tầu thuyền chạy bằng máy hơi nước ở Địa Trung Hải khiến chuyến đi của ông xuất phát từ Paris chỉ c̣n mười một ngày.

 

Gautier ở Istanbul bẩy mươi ngày. Ông viết về chuyến đi, lúc đầu, là cho nhật báo, ông là tay chuyên viết fơi ơ tông, [viết từng kỳ, liên tiếp cho một nhật báo], và sau đó, cho in thành sách mà ông đặt tên là Constantinople. Cuốn sách quá phổ thông và được dịch ra nhiều ngôn ngữ, và được coi là chuẩn mức cho những cuốn sách viết về Istanbul vào thế kỷ 19 (cùng với cuốn Constantinopoli, của  Edmondo de Amici, được xuất bản tại Milan, ba chục năm sau).

 

So với Nerval, Gautier tay nghề cao, sắp xếp bảnh, và thông thoáng hơn. Chẳng có ǵ là lạ: Là một nhà chuyên môn viết fơi ơ tông, một nhà phê b́nh, và một kư giả chuyên về nghệ thuật, ông c̣n viết loại tiểu thuyết từng kỳ cho nhật báo (có lần ông ví ḿnh như nàng Scheherezade bắt buộc mỗi đêm phải bịa ra một chuyện). Do phải viết hàng ngày như thế, Gautier tạo cho ḿnh được tốc độ, và sự sống động, (và đây là điều Flaubert chê ông). Nhưng nếu chúng ta bỏ qua những điều đă trở thành bản kẽm, được lập đi lập lại đến trơ ra, về những ông vua Hồi giáo, những hậu cung của họ, những nghĩa địa, cuốn sách của ông thật tuyệt về mặt phóng sự. Nếu cuốn sách lúc nào cũng ngân nga ở trong đầu Yahya Kemal và Tanpinar, giúp họ tạo ra đuợc một h́nh ảnh của thành phố, ấy là v́ Gautier, ngoài tài năng là một kư giả nhà nghề, c̣n là một người biết nghe lời khuyên của Nerval, để tâm tới đều mà bạn ông gọi là “những cánh gà”, lặn lội vào những khu phố tối tăm, nghèo khổ, thám hiểm, khai phá những điêu tàn đổ nát, những tối tăm, dơ dáy, để chỉ cho những độc giả Tây phương hiểu ra rằng, những khu vục nghèo khổ đó quan trọng chẳng thua ǵ những khung cảnh nguy nga, hoành tráng.

 

Khi đi qua đảo Cythera, Gautier nhớ Nerval nói với ông về một xác chết ông ta nh́n thấy, được bọc trong bộ quần áo dính dầu, treo lủng lẳng trên một cây cột (h́nh ảnh này, cả hai đều yêu thích, và một trong hai người sau đó đă bắt chước làm theo, và sau này, c̣n được Baudelaire ứng tác, đưa vô một bài thơ của ông nhan đề “Cuộc hành tŕnh tới Cythera”).

 

Khi tới Istanbul, Gautier, giống như Nerval, vận chiếc “áo dài Hồi giáo”, và tàn tàn tản bộ một cách thật thoải mái. Như Nerval, ông tới Istanbul vào mùa lễ Ramadan, và theo như bạn ḿnh, thả ḿnh vào đêm hội của nó. Ông cũng ṃ tới Uskudar ngắm những ông thầy tu Rufai cử hành những nghi lễ bí ẩn, dạo chơi nghĩa địa, nh́n những đứa trẻ chơi đùa bên những bia mộ, đi coi hát bóng Karagoz, viếng những cửa hàng, lặn lội trong những khu chợ đông đúc của thành phố, chăm chú theo dơi những khách bộ hành qua lại. Vẫn bắt chước Nerval, ông cố gắng diện kiến từ xa, ít ra một lần, nhà vua Sultan Abdulmecit, trên đường đi cầu nguyện vào những ngày Thứ Sáu. Như hầu hết những nhà du lịch Tây phương, ông cũng đưa ra những công thức của ḿnh về đàn bà Hồi giáo - cuộc sống khép kín, nỗi khốn khó, không làm sao lân la, tới gần được, và sự bí ẩn của họ (ông khuyên độc giả của ḿnh: chớ, chớ bao giờ hỏi thăm sức khoẻ của bà xă của bất cứ một ông đàn ông Hồi giáo nào!). Nhưng ông thành thực bảo chúng ta, phố xá th́ đầy đàn bà, ngay cả đàn bà đi một ḿnh. Ông bàn dài dài về Cung điện Tokapi Palace, những thánh đường, Nhà Ca Múa Hát, và tất cả những nơi chốn mà Nerval gọi là những cái bẫy dành cho khách du lịch. Tuy nhiên, những nơi chốn, phong cảnh, và đề tài như vậy, là đều dành cho khách du lịch Tây Phương, họ đến Istanbul là để tham quan những nơi chốn đó, cho nên, chúng ta cũng đừng nên quá coi trọng nhận xét của Nerval. Mặc dù đôi khi tỏ ra thô lỗ, nhưng nói chung, Gautier, do say mê khái quát hoá sự kiện, quan tâm đến chi tiết quái dị, khác thường, thật thích thú khi đọc ông, đấy là chưa kể con mắt hội họa của ông, khi nh́n ngắm, mô tả sự vật.

 

Cho đến khi ông đọc những bài thơ in trong Đông phương của Hugo, vào lúc mười chín tuổi, Theophile Gautier vẫn mơ uớc ḿnh sẽ là một họa sĩ. Ông rất được thời của ông ngưỡng mộ, như một nhà phê b́nh nghệ thuật. Để miêu tả những cái nh́n và những phong cảnh Istanbul, ông dựa vào một cuốn tự vựng phê b́nh hội họa, chưa từng được ai áp dụng cho Istanbul.  Miêu tả bóng dáng của Istanbul, và Mũi Vàng, nh́n từ ngọn đồi, nơi có tu viện Galata Mevlevi Lodge (cũng từ chỗ này, Nerval đă từng mô tả thành phố, trước đó chín năm, đây cũng là trạm cuối của đường xe điện Macka-Tunel, mà khi c̣n là một đứa bé tôi được mẹ dẫn đi tới Beyoglu mua sắm đồ, và bây giờ là Quảng trường Tunel): “Cảnh đẹp đến nỗi có cảm giác cảnh không thực”, và rồi ông tiếp tục mô tả những ngọn tháp, những ṿm cung ở Hagia Sophia, Beyazit, Suleymaniye, Sultanahmet, những đám mây, những đợt nước của Mũi Vàng, những vườn bách ở Sarayburnu, và, đằng sau chúng, là một nền trời “xanh nhạt, dịu dàng đến nỗi không thể nào chịu đựng được”, và những tṛ chơi của ánh sáng giữa chúng – ông miêu tả tất cả những nét đó bằng niềm hân hoan thích thú của một nghệ sĩ ngắm nghía nét tinh sảo của bức tranh do chính ḿnh tạo ra, và bằng sự tự tin của một nhà văn kinh nghiệm đầy ḿnh. Ngay cả độc giả chưa bao giờ nh́n thấy cảnh này cũng cảm thấy thích thú. Tanpinar, nhà văn Istanbul, cực kỳ mẫn cảm trước phong cảnh Istanbul, được coi như là một “màn tŕnh diễn rộng lớn của ánh sáng”, người đă tạo ra cho ḿnh cả một bộ tự vựng, một con mắt chuyên về chi tiết, được vậy, là nhờ đọc Gautier. Trong một bài viết, trong thời kỳ Đệ Nhị Thế Chiến, Tanpinar chỉ trích những tiểu thuyết gia khác cùng đàn đúm với ông, về điều, họ không thèm để ư đến “nh́n” và “mô tả” sự vật chung quanh và, trong khi vinh danh những nhà văn viết bằng con mắt của một họa sĩ như Stendhal, Balzac, và Zola, ông nói thêm, Gautier, chính ông ta, cũng là một họa sĩ.

 

Gautier hiểu làm thế nào chuyển những cái nh́n của ông thành những chữ, làm thế nào chuyên chở những cảm nghĩ, được khơi dậy bởi những đường nét, chi tiết thật đắt, và tṛ chơi ánh sáng, ở đỉnh cao của quyền năng nghệ thuật của ḿnh, khi kể lại những chuyến đi của ông vào những “cánh gà”, của nhà hát Istanbul. Trước khi khởi sự những chuyến đi dọc theo những bờ tường của thành phố để ra vùng ngoại vi của nó, Gautier, dựa vào những nhà văn đi trước ông, đưa ra nhận xét, những cái nh́n hoành tráng, tuyệt vời, về thành phố cần ánh sáng và một khung cảnh nh́n thật rơ ràng, bởi v́, cũng giống như những dàn dựng trên sàn hát, chúng sẽ mất sự quyền rũ, nếu nh́n thật gần: Khoảng cách đem đến cho phong cảnh sự hoành tráng, vẻ tuyệt vời, đồng thời làm nhạt nḥa đi, vẻ tiều tụy, u ám, chật hẹp, quá quắt, dơ dáy của những con phố, và những mớ nhà cửa, cây cối hỗn độn, khiến chúng trở thành lung linh mầu sắc, nhờ tấm“bảng mầu của mặt trời”.

 

Nhưng con mắt họa sĩ của Gautier c̣n t́m ra vẻ đẹp buồn bă, giữa dơ dáy và hỗn độn. Ông chia sẻ sự hân hoan, niềm khích động của văn chương lăng mạn trước những điêu tàn của những lâu đài thành quách Hy Lạp và La Mă, những cái c̣n lại của những nền văn minh đă biến mất, cho dù ông khinh bỉ sự rạp ḿnh kính sợ. Khi c̣n trẻ, mơ ước trở thành một họa sĩ, ông nhận ra những căn nhà trống rỗng của khu Doyenne cul-de-sac, và Saint-Thomas-du-Louvre Church (gần điện Louvre, kế bên nơi Nerval từng cư ngụ) thật quyến rũ dưới ánh trăng.

 

Rời khách sạn (ở Beyoglu bây giờ), và đi bộ xuống Galata, tới những băi biển Mũi Vàng, rồi vượt cây cầu Galata Bridge (được tái xây cất vào năm 1853, một “cây cầu của những con thuyền”, như ông viết), Gautier và nguời Pháp dẫn đường ṃ mẫm tới Unkapani, khu Tây Bắc, chẳng mấy chốc, họ “lặn vào một mê cung của những con đường nhỏ Thổ nhĩ kỳ”. Càng đi xa, họ càng cảm thấy bị cô lập, đàn chó đi theo họ mỗi lúc một thêm đông, sủa gâu gâu, nhe hàm răng nhơn nhởn của chúng ra. Mỗi lần tôi đọc về những căn nhà gỗ sập xệ, không sơn sửa, tối thui, những ṿi máy nước công cộng bị phá bể, những ngôi mộ không chăm sóc, mái đổ nát, và tất cả những ǵ họ quan sát được, trong khi đi tản bộ như thế, là tôi lại cảm thấy hoang mang, ngỡ ngàng, bởi v́ những nơi chốn mà tôi nh́n thấy, trong những lần ngồi trên xe hơi với cha tôi, một trăm năm sau, y chang như vậy, chẳng có ǵ thay đổi cả, ngoại trừ những hè đường. Ấy là v́ Gautier, cũng như tôi, đều cho rằng chẳng nghĩa địa nào đẹp, nếu thiếu chúng, chúng ở đây, là những căn nhà gỗ ám đen, điêu tàn, hoang phế, những bức tường đá, những con phố rỗng tuếch, những hàng tùng, bách… Khi tôi bắt đầu nghi lễ của chính tôi, nghĩa là, bắt đầu thực hành những chuyến tản bộ thành phố buồn như vậy, ṿng ṿng cũng như khu phố hoang tàn chưa Tây phương hóa như vậy (buồn thay, lửa và xi măng, gạch, vữa chẳng bao lâu sau đó sẽ xóa sạch], tôi nhận ra cảnh vật làm mệt nhoài người nh́n, như Gautier, tuy nhiên cũng như ông, tôi vẫn cảm thấy sự hối thúc, “từ đường này tới lối kia, từ xóm này qua xóm nọ”. Lời kêu gọi cầu nguyện có vẻ đối với ông cũng như đối với tôi sau đó, là nhắm vào những “căn nhà câm điếc, mù ḷa, nằm trong im lặng và cô đơn”. Ông chắc sẽ nghĩ đến ḍng thời gian trôi chảy, khi ngắm nh́n một vài khách bộ hành, một vài sinh vật thoáng qua: một bà già, một con thằn lằn biến mất giữa đám gạch đá, hai hay ba đứa trẻ ném sỏi xuống một bồn nước bể nát (cảnh này làm ông nhớ tới một bức tranh mầu nước của Maxime du Camp, viếng thăm thành phố hai năm trước với Flaubert). Khi cảm thấy đói, ông nhận ra khu này vắng hoe những tiệm ăn, những nhà hàng, và đành ngắt mấy trái dâu tằm từ những hàng cây hai bên đường, chúng đem mầu sắc, hương vị đời sống đến cho những con phố ở đây, làm dịu đi vẻ lầm ĺ của những khối bê tông, ngay từ thời thơ ấu của tôi, hay là năm mươi năm sau đó, khi tôi đang viết những ḍng này, th́ cũng vậy. Ông làm quen với không khí làng xă của khu vực lối xóm Hy Lạp Samatya và Do Thái Balat, nơi được gọi là Ghetto Istanbul. Mặt trước của những căn nhà ở Balat th́ đầy những vết nứt nẻ, lở lói, những con phố dơ dáy, bùn bụi, tuy nhiên, khu phố Hy Lạp Fener được chăm sóc  trông đỡ hơn. Nhưng bất cứ khi nào ông nh́n thấy một mảnh tường c̣n lại của thời kỳ Byzantine, hay một khúc cống lớn, điều mà ông ngộ ra, là gỗ, tưởng phù du, tưởng dễ tiêu trầm theo với thời gian, hoá ra là bền bỉ hơn nhiều, so với gạch đá.

 

Những khoảnh khắc cảm động nhất trong cuộc tản bộ dài, mệt mỏi, bất th́nh xẩy ra, khi Gautier bắt gặp những điêu tàn, cái c̣n lại của một thời kỳ Byzantine, chạy dài thấu suốt một cơi phố xa xa: Ôi điêu tàn ư, đâu chỉ có điêu tàn!

 

Gautier chuyển tải một cách thật là mănh liệt, cái sự dầy, cái sự chịu đựng dai dẳng với thời gian, của mấy bức tường có từ thời văn minh Byzantine: ôi chúng mới cao ngạo làm sao, ôi thời gian sói ṃn chúng mới ghê gớm thế nào!Những vết nứt chạy dài trọn chiều dài của một cái tháp (khi c̣n là một đứa bé, nh́n, là tôi thấy khiếp sợ, làm sao không?), những mẩu vụn nằm lả tả, rải rác ở dưới đáy những bức tường, trên mặt đất (giữa thời kỳ Gautier và của chúng ta, trận động đất lớn vào năm 1894 đă gây tổn hại nặng nề cho những bức tường của thành phố). Ông mô tả đám cỏ, ở trong những vết nứt, và những cây vả: những chiếc lá xanh, lớn, của chúng làm dịu đi những đỉnh tháp, [làm dịu đi] nỗi u sầu đần độn của những khu phố đ́u hiu tiếp giáp với những bức tuờng, sự im lặng của những lối xóm và những căn nhà xiêu vẹo của họ. “Thật khó mà tin rằng, có một thành phố đang c̣n sống ở đằng sau những ngổn ngang thành quách như thế này”, Gautier viết. “Tôi nghĩ, chẳng có một nơi nào trên thế gian, sỏi đá khô cằn, buồn đến cháy da cháy thịt, như là con lộ này, nó chạy dài hơn ba dậm, giữa những điêu tàn, ở một bên, và nghĩa địa, ở một bên”.

 

Hạnh phúc nào tôi lấy ra được, từ những xác quyết như thế về huzun Istanbul? Tại sao tôi h́ hà h́ hục, cố làm sao chuyển tải tới độc giả nỗi buồn mà tôi cảm thấy ở trong thành phố mà tôi trải qua trọn cuộc đời của tôi?

 

Vào những năm cuối của cơi 150 năm (1850-2000), tôi không c̣n hoài nghi, không phải chỉ về chuyện huzun đă ngự trị Istanbul, mà nó c̣n trải dài ra những khu vực chung quanh. Điều mà tôi cố gắng giải thích, là, những gốc rễ nỗi buồn Istanbul, là từ Âu Châu: Ư niệm này, thoạt đầu được khai phá, diễn tả, và thi hóa ở Pháp (bởi Gautier, dưới ảnh hưởng của bạn của ông, là Nerval).

 

Và nếu như thế, tại sao tôi loay hoay bận bịu quá nhiều với nó?

 

Tại sao bốn nhà văn của tôi lại lo lắng nhiều như thế về nó? Về cái điều mà Gautier và những nhà văn Tây phương khác nói, về Istanbul?

 

 

 

(Nguồn : Tin Van

www.tanvien.net )

 

trang nguyễn quốc trụ

art2all.net