Song Nhị

NÓI CHUYỆN VỚI THƠ

 

 

 


Song Nhị

 


Nói Chuyện Với… Nàng Thơ

 


           Nói Chuyện Với Thơ là ấn bản lần thứ II từ tác phẩm "Lời Rao Giảng Của Thơ", NXB Cội Nguồn 2017, amazon phát hành @www.CreateSpace.com, title ID 6851607 - ISBN 13: 978 - 1542467353; ISBN 10: 1542467357 .

 

Ấn bản này thay đổi về h́nh thức, sách khổ 6 x 9 thay v́ 5.5 x 8.5. B́a sách là một bản layout khác với bản cũ. Phần trang ruột được chia thành 4 chương, thêm phần

Chương Một - Nói Chuyện Với Nàng Thơ: gồm những bài tựa; và những bài giới thiệu tác phẩm của các văn thi hữu xuyên suốt quá tŕnh sinh hoạt thơ văn của Song Nhị và CSTV Cội Nguồn tại hải ngoại, kể từ năm 1995 đến nay.

Chương Hai - Vai Tṛ Và Sứ Mệnh Của Thi Sĩ

Chương Ba - Thơ Song Nhị - Gịng Sử Thi Buồn

Chương Bốn - Khúc Tâm Giao

Phần Phụ Lục - Những ca khúc phổ thơ SN trong ấn bản cũ không c̣n được giữ lại trong ấn bản mới .

 

**

 

Nội dung Chương Một

 

Nói đến Thơ là nói đến một cảm xúc rất dịu dàng, rất mềm mại, rất thắm thiết, rất quyến rũ, và rất…. Nên Thơ. Giới thưởng ngoạn nghệ thuật qua bộ môn thi ca, khi nói đến Thơ, người ta trân trọng gọi Thơ là Nàng Thơ hay Nàng Ly Tao (*). .

Đă hàng ngàn năm Nàng Thơ luôn luôn là người bạn đến với Tao Nhân Mặc khách trong mọi cảnh ngộ của con người, khi hạnh phúc an vui cũng như lúc nguy nan bất hạnh. Trong mọi hoàn cảnh, thơ đến với người như một an ủi, để vuốt trôi những uẩn ức hay những cảm xúc rạo rực của nỗi ḷng.

Thơ là một nghệ thuật riêng biệt của văn chương. Ngôn ngữ của thơ là ngôn ngữ đặc biệt, và riêng biệt đi kèm với cảm xúc của người làm thơ. Người thơ, khi đắm ch́m trong trạng huống xao xuyến, do những rung cảm của con tim; do những trầm tư về một cảnh vật, về một con người, về những đoạn đời từng trải, trong một khoảnh khắc, cái âm-ỉ kia cuồn cuộn như cơn lốc xoáy để bật thành tiếng, và thơ hiện hữu như một hóa giải, như một đáp ứng tiếng réo gọi thôi thúc của tâm tư. Thế là ngôn ngữ thơ tràn ra trang giấy.

Cụ Bùi Kỷ cho rằng Thơ là phần kết tụ của khí hạo nhiên, một thứ hạo khí thuộc về phần h́nh nhi thượng của tạo hóa, để rồi từ đó tuôn trào ra đầu ngọn bút, trước những cảnh vật thiên nhiên, cũng như trước những cảm xúc của con người, như khóc, như cười, như say, như tỉnh, như bực dọc, như hả hê, như nhớ nhung, như khuây khỏa….

Người thời nay, như Mai Thảo th́ lại nhận định: “Chỉ thơ, thơ mới là ngôn ngữ, là tiếng nói tận cùng và chung quyết của văn chương”.

 

Nhà văn Nguyễn Thùy lại cho rằng Thơ là ngôn ngữ của mọi ngôn ngữ, là nghệ thuật của mọi nghệ thuật, thông thường thi sĩ được tạo dựng vào khởi điểm hay tận cùng của một thời đại của thế giới.

Học giả Thu Giang Nguyễn Duy Cần sau một đời người miệt mài với chữ nghĩa, đọc, viết và nghiên cứu văn học cuối đời đă đưa ra kết luận: “Thi sĩ các anh là con cưng của thượng đế. Rút cục chỉ có Thơ.”

Tóm lại, Thơ là sự thăng hoa tuyệt đỉnh của cảm xúc, tư tưởng và ngôn ngữ. Ngôn ngữ của thơ là ngôn ngữ đặc biệt, và riêng biệt đi kèm với cảm xúc của người làm thơ, mà người ta thường gọi là Năng Khiếu Thiên Phú.

Trong văn học Trung Hoa, từ thời đại xa xưa, Chu Hy cho rằng “nhân chi sơ tính bản tĩnh”. Từ “bản tĩnh”, do cảm xúc của dục tính mà “tĩnh” chuyển sang “động”. Và một khi tâm đă động th́ trí sẽ vận dụng đến suy tư, khi đă suy tư th́ phải thốt lên bằng tiếng nói. Lời nói không đạt tới được cái tận cùng của cảm xúc nên sinh ra vịnh thán. Khi đă vịnh thán th́ không thể không vận dụng đến tiết tấu tự nhiên từ mối rung động xốn xang... Và từ mối rung động đó mà một thể tính cảm xúc xuất hiện. Người ta gọi đó là Nguồn Thơ.

Tất cả những người làm thơ đều có nguồn cảm xúc giống nhau, như nhau. Khác nhau là ở cái căn nguyên từ đối cảnh, đối t́nh của mối rung động. Nguồn cảm xúc ấy vượt lên trên, không chỉ là một tâm sự tách bạch. Một bài được gọi là thơ, diễn đạt để phô bày một tâm trạng chưa hẳn là một bài thơ, đó không phải là nguồn thơ. Nguồn Thơ là ḍng chảy mênh mông bất tận, dẫu cho đến khi cuộc sống có mỏi ṃn, thể xác kia có già nua th́ nguồn thơ vẫn không tàn héo.

C̣n nữa, c̣n nhiều lắm, nhận định của những danh nhân, học giả Đông Tây dành cho thơ.

Xin được mở dấu ngoặc ở đây để nói về Thơ T́nh.

T́nh đây là T́nh Yêu. Theo như định nghĩa có nhuốm mùi triết học: T́nh Yêu là sự tra vấn, kiếm t́m, săn đuổi, để chụp bắt một cái ǵ, như có, như không; như có đó mà không có đó, rất thật mà không có thật; không có bây giờ, nhưng có thể có ở ngày mai, hoặc có ở lúc này, nhưng ngày mai không chắc sẽ có. Và v́ vậy, t́nh yêu như một ngọn sóng cuốn hút con người, hết thế hệ này đến thế hệ khác, cứ thế tiếp tục một cuộc săn đuổi, kiếm t́m bất tận.

Xuân Diệu, khi viết bài thơ với câu mở đầu: “Yêu là chết trong ḷng một ít”, tuyệt nhiên không phải là một định nghĩa về t́nh yêu như nhiều người vẫn gán ghép, mà là do cảm xúc nội tại về sự xao xuyến của cơi ḷng về một mối t́nh, một đối tượng đang c̣n săn đuổi, khi chưa đạt được cứu cánh, chưa qua thời kỳ quá độ.

Nguyễn Bính, khi làm bài thơ Người Hàng Xóm với bốn câu mở đầu:

Nhà nàng ở cạnh nhà tôi
Cách nhau cái giậu mùng tơi xanh rờn
Hai người sống giữa cô đơn
Nàng như cũng có mối buồn giống tôi


là lúc thoát thần, thú nhận một cảm xúc trào dâng, để bao nhiêu ư tưởng, suy nghĩ trào ra thành một “bản tự thuật” của trái tim thi sĩ.

Bỗng dưng tôi thấy bồi hồi
Tôi buồn tự hỏi: “hay tôi yêu nàng?”


Chính cái hư hư thực thực, của cảm giác có, không, không, có của nhu cầu tâm lư ấy, mà những khoảnh khắc bất chợt của cảm xúc bùng vỡ bất ngờ, làm cho Thơ vụt hiện. Cùng với cảm xúc bùng vỡ, ngôn ngữ cũng bất thần xuất hiện, ăn khớp nhịp nhàng với rung cảm, để ư tưởng tuôn trào thành thơ. Những ngôn ngữ bộc phát lúc bấy giờ, có khi vô nghĩa với người ngoại cuộc, nhưng lại rất tâm đắc với chủ thể của mối rung động, phát ra thành Thơ.

Tất cả ngôn ngữ, cảm xúc đó chỉ thể hiện trong cái khoảnh khắc rung động ấy thôi, sau đó là hết, là mất hẳn. Sau đó nếu có cố vận dụng cách nào đi nữa, cũng không bao giờ tái tạo được cái cảm giác kỳ ảo, đi kèm với những ngôn ngữ tuyệt diệu kia.

Bài thơ làm xong, giây phút đó qua đi, từ đó không bao giờ có lại cái cảm xúc lần thứ hai như vậy nữa. Đối tượng từ từ ch́m khuất, và con tim ngủ yên. Loại thơ này khác với những bài thơ t́m ư, t́m chữ, ghép vần.

Người thơ khi đắm ch́m trong trạng huống tâm tư như thế, do những rung cảm của con tim; do những trầm tư về một cảnh vật, một con người, về những đoạn đời từng trải, trong một khoảnh khắc cái âm-ỉ kia cuồn cuộn như cơn gió xoáy để bật thành tiếng, và thơ hiện hữu như một hóa giải, như một đáp ứng tiếng réo gọi thôi thúc của tâm tư.

Sau đây là một bài thơ được viết ra trong một cung cách như thế. Tác giả cũng xin “thú nhận” bài thơ được viết trong trạng thái con tim ray rứt, khắc khoải về một đối tượng, như một cơn khát dữ dội, con tim đ̣i hỏi phải được nói ra. Thế là ngôn ngữ thơ tràn ra trang giấy. Bài thơ làm xong, giây phút đó qua đi, từ đó không bao giờ có lại cái cảm xúc lần thứ hai như vậy nữa. Đối tượng từ từ ch́m khuất và con tim ngủ yên.


Loại thơ này khác với những bài thơ t́m ư, t́m chữ, ghép vần.

Góc Phố Này Mỗi Đêm

Cảm ơn em cho tôi đề tài
để làm bài thơ dạt dào cảm xúc
bài thơ không cần người đọc
khi viết xong đem thả giữa trời

Cảm ơn em những buổi sớm mai
ra khỏi cửa để thấy ḿnh ngớ ngẩn
như chiếc xe lạc đường luẩn quẩn
chạy ḷng ṿng không tới ngơ nhà em

Tôi trở về nghe nhịp đập con tim
nh́n thấu suốt con đường lên phố núi
Tôi hối hả chạy quanh ḍng suối
kiếm t́m em ... gặp kẻ vô t́nh
Tôi trở về hỏi lại con tim
nghe thỏ thẻ toàn những lời mộng ảo!


**
Cảm ơn em đă làm nên giông băo
để tôi ngồi trần trụi ngó phong ba
cảm ơn em vườn cây trái phù sa
đă bỏ mặc kẻ cơ hàn đói khát
đă bỏ mặc - gă thâm t́nh - tệ bạc
tiếc tiếng xưng em tiếc tiếng gọi ḿnh

Bên cánh rừng em hát với b́nh minh
mà quên mất góc phố này mỗi tối

Cảm ơn em - không có ǵ để nói
mà c̣n rất nhiều không thể bỏ quên
tôi trở về ngồi suốt sáng thâu đêm
tưởng như thể chuyện long trời lở đất

Cảm ơn em ...
đành một lần lỡ mất!
 


Hiệu chính 4/2017
Song Nhị

----------------------
(*) Ly Tao - tên tác phẩm vận văn (văn vần) của Khuất Nguyên đời Chiến Quốc, là trường thiên xưa nhất của văn học Trung Hoa.

 

 

Thơ văn

 

art2all.net