|
Song Nhị
NÓI CHUYỆN VỚI THƠ
Song Nhị
VAI TR̉ VÀ SỨ MỆNH CỦA THI SĨ
VI KHUÊ
Giọt Lệ... Ta Đi...
Một Gia Tài Văn Học
Mỗi khoảnh khắc của thời gian, mỗi giai đoạn của cuộc sống,
mỗi một đời người rồi sẽ qua đi. Tất cả những rộn ră, tất
bật của hôm qua, hôm nay cứ trôi theo ḍng năm tháng, xô
giạt về cuối mỗi cuộc hành tŕnh của kiếp nhân sinh. Nhưng
ḍng chảy tháng năm kia th́ hun hút, bất tận. Từ một căn
duyên nào đó, người ta gặp nhau, thêm một mối dây liên hệ,
một tương quan trong suy nghĩ, tương đồng hay dị biệt, tâm
giao hay đối nghịch về mặt tư duy và tâm chất... th́ phương
diện sinh hoạt cấu trúc tinh thần của loài người vẫn hiện
diện và liên tục tiếp diễn như một sự đ̣i hỏi bắt buộc. Mọi
vận dụng lao động trí năo của mỗi cá thể văn nghệ sĩ chân
chính đều là sự đóng góp cho nhu cầu và tài sản tinh thần
chung của nhân loại.
Về phương diện văn học, mối liên hệ giữa tác giả với tác
giả; và giữa tác giả với tác phẩm là một tương quan phản ánh
thân thế và thời đại mà một ngày kia là tư liệu. Đối với một
tác giả đă đi vào đại chúng, mối tương quan giữa tác giả và
tác phẩm văn học là những tài liệu để soi rọi lại con người,
tác phẩm và thời đại cho công việc khảo cứu, phê b́nh về
sau. Tư liệu đó đôi khi chỉ là những chi tiết tản mạn nhưng
lại hữu dụng khi nó phản ánh một góc cạnh của quan niệm, tư
duy, t́nh cảm của tác giả, nhân vật và bóng dáng thời đại
trong tác phẩm.
Tên tuổi của nhà văn, nhà thơ Vi Khuê đă rất quen thuộc với
độc giả trong và ngoài nước, nhất là độc giả hải ngoại từ
sau 1975.
Viết về Vi Khuê, nhiều người đă làm công việc đó. Nhận diện
vóc dáng tài năng của một người cầm bút tầm cỡ là điều tôi
không có ư định. Nhưng như một thôi thúc t́nh cờ khi tôi
nhận được những tác phẩm do tác giả - từ Washington D.C gửi
tặng. Tôi đă ngồi “ôm món quà văn nghệ” lần lượt đọc từng
tác phẩm Thơ/Văn của Vi Khuê. “Giọt Lệ” là một trong
71 tập thơ dự thi giải Văn Học Nghệ Thuật VNCH năm 1971 mà
thi sĩ Vũ Hồng Chương, một trong những giám khảo, hai năm
sau đọc lại đă đưa ra kết luận: “Đây là một thi phẩm giá
trị”.
Rồi hai thi phẩm “Cát Vàng” và “Tặng Phẩm T́nh Yêu”
của thập niên 80s tại hải ngoại đă từng được các “danh gia”
cầm bút hết lời khen ngợi. Tôi e dè khi viết đôi ḍng thay
lời cảm tạ tấm thịnh t́nh của tác giả. Tôi không biết khi
đọc bài viết, bà sẽ nghĩ thế nào về một người tương đối hăy
c̣n xa lạ như tôi. Sau ba tập thơ, tôi lại đọc văn Vi Khuê.
“Vẫn Chờ Xe Thổ Mộ”, tập truyện ngắn xb năm 1993, khi
anh em H.O chúng tôi bắt đầu lục tục sang Mỹ. Hết “Vẫn
Chờ Xe Thổ Mộ”, tôi đọc tiếp “Những Ngày Ở Virginia”
và “Ngựa Hồng Trên Đồi Cỏ”. Đọc xong một loạt tác
phẩm ấy, tôi cảm nhận được nét tài hoa phong phú của Vi Khuê
và sự đóng góp lớn lao của bà cho Văn Học nước nhà nói
chung, và văn học hải ngoại nói riêng.
Sau lần bà đến Cali dự lễ “49 Ngày tưởng niệm phu quân -
Nhà báo Chử Bá Anh” tại Hội Quán Việt Nam, và rời San
Jose trở về Hoa Thịnh Đốn, các thân hữu trong Cơ sở Thi Văn
Cội Nguồn và Diễn đàn văn học nghệ thuật “Đất Đứng” quyết
định thực hiện một số đặc biệt về Vi Khuê. Nhà văn Nhật
Thịnh, Chủ biên “Đất Đứng” đề nghị tôi viết một bài về chủ
đề này. Đắn đo nhưng rồi tôi viết.
Qua nhiều lần tiếp xúc với chị qua điện thoại và những lần
gặp gỡ khác, tôi thấy ở Vi Khuê không phải chỉ có “chất
thơ đài các và thâm trầm” như nhận xét của nhà văn
Nguyễn Mộng Giác, mà nét nữ lưu đài các, vẻ thông minh trầm
mặc c̣n thể hiện rơ ở phong cách của bà.
Vi Khuê đă có ba tập truyện và bốn tập thơ xuất bản. Thơ Vi
Khuê là cả một kho tàng ngôn ngữ quư phái, sắc sảo, thâm
trầm, mới mẻ trong ư tưởng diễn đạt mà gần gũi với tâm hồn,
thiết tha với tâm sự của thế nhân.
Năm 1994, khi tôi phụ trách biên tập tuyển tập thơ “Gởi
Người Dưới Trăng”, nhận được tám bài thơ Vi Khuê góp vào
tuyển tập, tôi đă khựng lại khi đọc các bài “Mai Mốt Tôi
Về”, “Gởi Hồn Theo Sách” và “Chúng Ta Đi Ngàn
Dặm Sẽ Quay Về”. Lời thơ, ư thơ như quyện lấy tâm hồn
người đọc, nhấn ch́m cả hiện tại vào cái dĩ văng tang thương
nhức nhối của mỗi con người trong cảnh đời lưu lạc, sau cơn
hồng thủy bảy mươi lăm.
Có lẽ không phải riêng tôi mà người đọc thơ, yêu thơ đều
thấy tâm sự ḿnh ở đó, hoặc là, đều nhận thấy đă có Vi Khuê
thổ lộ tâm sự thay ḿnh. Trong “Mai Mốt Tôi Về”, thấy
ǵ trên chiếc cầu cũ ḍng sông xưa. Mơ về thuở mười tám đôi
mươi của ḿnh mà thương xót, tội nghiệp những mái đầu mười
tám đôi mươi đă chít khăn sô từ mùa ly loạn.
Tất cả những ấn tượng từ một tương lai lùi dần về dĩ văng đă
được gói gọn trong bốn câu thơ mở đầu. Để rồi từ đó biết bao
ấn tượng lan man kết thành một chuỗi dài khổ đau của cả một
dân tộc. Nỗi khổ đau kia cho đến cuối đời tóc đă bạc, “Đá
cũng c̣n cau mặt”...
Bằng một khổ thơ chuyển nhập với lối dùng điệp tự độc đáo,
tác giả kéo tiềm thức trở về với nổi trôi bất hạnh của mấy
thế hệ con người:
Th́ thế th́ thôi, th́ lận đận
Th́ long đong, th́ đă lênh đênh
Th́ như ai đó ngồi mưa lạnh
Ch́m nổi theo con sóng gập ghềnh
Tôi đọc tiếp “Chúng Ta Đi Ngàn Dặm Sẽ Quay Về”. Quay
về, sau những xa lạ, bâng khuâng, ngọt ngào khách sáo, vu
vơ, giả dối, gạt lừa, khủng bố... là một thực tại của quê
hương nghèo nàn, xiêu vẹo. Cuộc sống bần cùng xơ xác. Mượn
h́nh ảnh em bé mồ côi cúi gặm chút xương gà moi lên từ túi
rác ni-lông để nhắn nhủ với mọi người. Lời tự thú hay một
quy trách:
Chúng ta sẽ trao em lời tự thú
Là người dân Nước Mới Hai Trăm Năm
Để em hiểu: Bốn Ngàn Năm Lịch Sử
Phải thay đời. Cho bớt nỗi long đong.
có phải thơ Vi Khuê là một hiện tượng “lên đồng” như chính
tác giả đă thổ lộ khi phát biểu tại Hội quán Việt Nam chiều
ngày 4. 5. 96. hôm đó nữ nghệ sĩ Kiều Loan chọn bài “Tống
Biệt Hành” trong tập “Hoa Bướm Vườn Thơ Tôi” để
ngâm. Do cẩn thận, Kiều Loan trao tập thơ cho tôi và tỏ ư
nhờ tôi chọn một bài để cô tŕnh bày. Đọc lướt qua một lượt,
tôi dừng lại ở bài “Tống Biệt Hành”.
Tôi hỏi: “Cô đọc bài này rồi chứ?” Kiều Loan đáp: “KL đă
chọn bài này. Anh thấy thế nào? Được chứ ”.
Trong ư nghĩ trước đó tôi đă muốn cô ngâm “Tống Biệt Hành”.
Sau đó MC đă giới thiệu: “Nữ nghệ sĩ Kiều Loan ngâm bài
“Tống Biệt Hành” của Vi Khuê viết để tiễn biệt phu quân của
chị.”
Bởi có câu của MC “để tiễn biệt phu quân của chị.” tác giả
đă phải đăng đàn cải chính. Trong khi phát biểu với cử tọa,
Vi Khuê nói rằng: “Làm thơ, có khi người ta như lên đồng;
viết theo tiếng vọng từ tiềm thức, từ vô thức, từ một cơi xa
xăm nào đó, mà chính ḿnh không hiểu rơ!”.
Như vậy ngôn ngữ của Vi Khuê trong “Tống Biệt Hành”
là ngôn ngữ lên đồng. Đó là hiện tượng xuất thần. Mà ư tứ,
ngôn ngữ xuất thần th́ hẳn nhiên bài thơ đă đạt đến tuyệt
đích của cảm xúc và rung động.
Xuân Diệu cũng đă từng nói rằng: “Thơ là ngôn ngữ đặc
biệt của thi nhân. Chỉ có người thơ mới có được thứ ngôn ngữ
riêng biệt ấy”.
Tác giả Vi Khuê cũng cho biết bà viết “Tống Biệt Hành”
theo gợi ư của nhà văn Vơ Phiến. Theo đó, Vơ Phiến đề nghị
mỗi người làm thơ nên viết một bài theo ư “Tống Biệt Hành”
của Thâm Tâm. Nhưng theo như phát biểu hôm đó, Vi Khuê đă
viết “Tống Biệt Hành” theo cảm xúc và ngôn ngữ riêng của
ḿnh. “Như thế để bài thơ không là những... bản dịch”.
Tống Biệt Hành
Của Thâm Tâm Và Vi Khuê
Cách đây hơn nửa thế kỷ Thâm Tâm đă tiễn một người đi trong
“Tống Biệt Hành” của ông. Tiễn người đi mà tác giả nghe ḷng
dậy sóng. Người đi trong tâm sự mênh mang, trong hoàng hôn
đáy mắt. Con đường đời nhỏ hẹp. Sự nghiệp c̣n ngoài tầm tay.
Chí lớn đă quyết đành. Công chưa thành, danh chưa toại, “ba
năm, mẹ già cũng đừng mong”. Và:
Người đi, ừ nhỉ, người đi thực
Mẹ thà như chiếc lá bay
Chị thà như là hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu cay
“Tống Biệt Hành” của Thâm Tâm đă là nguồn cảm hứng cho nhiều
thế hệ thi nhân. Tôi đă được đọc một số ít bài “âm vọng” từ
“Tống Biệt Hành”. Và tôi cũng đă viết bài “Di Tản Hành”
tháng Tư 1975. Nhưng phải chờ đến “Tống Biệt Hành” của Vi
Khuê, tôi mới t́m được ở tác giả này, một nhân vật thứ hai
đầy tính chất triết lư nhập thế, dấn thân của một tráng sĩ
Đông phương hay của một lăng nhân Phù Tang thời phong kiến,
tay không đi t́m nghiệp lớn.
Vi Khuê đă dựng lên một đối tượng ngang bằng vai vế để nhắn
nhủ, để khích lệ người ly khách. Dù Người đi về phương nào
chưa chắc được, nhưng Người cứ đi. Cuộc tiễn đưa nào mà
không mang ư ngậm ngùi, cảm xúc. Người ly khách trong “Tống
Biệt Hành” của Vi Khuê có rượu, có trăng, có lệ tràn và một
thoáng môi cười của người đưa tiễn. Rượu sẽ nói lời vĩnh
biệt. Rừng không gió, trời không mây, vườn ngự không hoa và
có cái ǵ đó không dằn được những cảm xúc trắc ẩn từ cơi
ḷng để kẻ ở phải thảng thốt nói với người đi:
Ta tiễn Ngươi mà,
Ta tiễn Ngươi!
Ta Về Và Ta Đi
“TA VỀ” của Tô Thùy Yên để vĩnh biệt mười lần ba trăm sáu
mươi lăm thiên thu, hóa thân làm vượn cổ của thời đại văn
minh rừng rú. “Ta Về” để nh́n thấy những đổi thay bạo ngược.
“Ta Về” với ảo giác một thoáng mừng vui xôn xao tưởng tượng.
“Ta Về” như chiếc lá rơi về cội. Rưới một chút rượu hồng
mong giải oan cho cuộc biển dâu nhưng oan nghiệt ấy không
những không giải được mà c̣n chất chồng thắt buộc.
“Ta Về” để ngao ngán trước cảnh đời hoang phế, để vỗ về nhen
nhúm gầy dựng lại những thứ thân quen, cửa ngơ, giàn hoa,
bức tường... mà cũng là để nhen nhúm niềm hy vọng, niềm tin
cho cuộc hồi sinh.
“TA ĐI” của Vi Khuê để từ biệt nước non, từ biệt mẹ
già, từ biệt dĩ văng thân yêu, từ biệt nhưng lại cố níu kéo
mọi thứ để mang theo, từ bông cỏ may đến ḍng sông ửng nắng,
hàng dây kẽm gai của giai cấp “tố khổ tố giàu trăm thứ tố”.
“Ta Đi” của Vi Khuê, bài thơ tác giả ghi là “Vọng âm bài “Ta
Về” của Tô Thùy Yên":
* Ta về như sợi tơ trời trắng
Chấp chới trôi buồn với nắng hanh
Ai gọi ai đi ngoàii cơi vắng
Dừng chân nghe quặn thắt tâm can.
(Tô Thùy Yên)
* Ta đi, như thể chim ĺa tổ
Như lá ĺa cành tự tối nay
Một tiếng tiễn đưa là tiếng sét
Oan khiên là cuộc chiến tranh này.
(Vi Khuê)
“Ta Về”, về để nh́n thấy một cảnh đời đổi thay, phế hoang,
ngao ngán. “Ta Đi”, đi để bỏ cảnh đời thay ngựa giữa ḍng,
để bỏ cảnh đời phế hoang, ngao ngán ấy. Hai hành tŕnh ngược
chiều nhưng lại đồng quy, đọng lại ở một đáy sâu t́nh tự. Đó
là t́nh cảm thiêng liêng ràng buộc của con người Việt Nam
với đất nước quê hương: “Ta Về”, về để cởi lốt con vượn cổ,
trở lại chốn cũ nơi xưa, nơi đă nửa đời thân yêu gắn bó.
“Ta Đi”, người đi “vẫy chào non nước mộng”, vẫy chào “ngày
xuân chưa kịp ước”. Vẫy chào một dĩ văng chinh chiến, hận
thù. Vẫy chào “năm mươi năm quyện câu ḥ Huế”.
“Ta Đi” và ta đă đến. Đến bến bờ lộng lẫy hoa đăng như trong
thần thoại ngh́n đêm lẻ. Thế mà “Đến nơi... chưa phải là nơi
đến”. Hy vọng ao ước không phải chốn này. Cả một dĩ văng và
t́nh cảm trĩu nặng sau lưng. Nơi đến, giờ đây lại là hành
tŕnh ngược lại. Ở đó mới thực sự là chỗ yên lành ao ước:
Ta đi. Ta đến. Ta về chứ
Đi. Đến. Về! Ơi! đất nước ḿnh!
Những dấu chấm và chấm than kia là những ấn tượng xoáy vào
tâm can người đọc, cũng như h́nh ảnh người đi “bước ngập
ngừng theo gió”, “Thả ống quần cho dính cỏ may”
đă gieo một ấn tượng thật mănh liệt. Đó là cách sử dụng ngôn
ngữ để diễn đạt tâm cảm một cách rất tài t́nh của tác giả Vi
Khuê.
Các tác phẩm Văn của Vi Khuê đă xuất bản nhiều người đă viết
giới thiệu, phẩm b́nh. Tôi chú ư bài điểm sách – “Nữ sĩ
Vi Khuê” của tác giả Tống Diên Tô Dương Hà trong “Hoa
Bướm Vườn Thơ Tôi”. Một phần, tôi muốn biết anh viết
những ǵ khi đọc Vi Khuê. Phần khác v́ anh là bạn thân, cùng
làm việc ở một cơ quan với tôi trước 1975. Sau 75 cùng ở tù
chung trại, chung pḥng từ Nam ra Bắc. Tôi ít được đọc bài
viết của anh, mặc dù biết anh là thứ nam của nhà văn B́nh
Nguyên Lộc. V́ thế khi gặp bài này tôi đọc… hơi kỹ.
Theo tôi, nếu độc giả muốn biết “Vẫn Chờ Xe Thổ Mộ”
là tập truyện có nội dung thế nào, muốn t́m hiểu giá trị văn
chương của tác phẩm th́ xin để người điểm sách đọc cho nghe
t́nh tiết mỗi cốt truyện, dẫn đi từ một quán Tàu ở Los
Angeles về tới Sài G̣n thăm Dịch vụ khóc mướn quốc doanh.
Và cuối cùng nghe anh kết luận: “Tất cả truyện của bà đều
như thế cả: hấp dẫn, sống động, tuyệt vời”. Theo tôi bài
viết của Tống Diên Tô Dương Hà cũng tinh tế, sắc bén và lôi
cuốn như chính tác phẩm mà anh giới thiệu. (20. 8. 96)
2.
Đă gần 14 năm kể từ ngày hạnh ngộ giữa chúng tôi - những
người trót đeo đẳng nghiệp thơ văn. Dần dà sau đó Vi Khuê
tham gia các sinh họat Cội Nguồn, rồi là thành viên và trong
Ban Biên tập tạp chí Nguồn. Thời gian sau này do tuổi tác và
sức khỏe bà ít đến San Jose, nhưng Vi Khuê vẫn thường gọi
điện thoại và thư từ thăm hỏi anh em trong sinh họat Cội
Nguồn. Hiện bà vẫn viết cho tờ Kỷ Nguyên Mới tại vùng
Hoa Thịnh Đốn. Bà thường nhắc lại kỷ niệm mà “Rất nhớ
tiếc những ngày sơ kiến giữa chúng ta. Thật đậm đà, trân
trọng”. Và “Xin anh chuyển lời thăm và cảm tạ những
ai thường nhắc đến ‘người đi không trở lại này’ (Thư 22
July 09).
Chúng tôi c̣n hẹn nhau một lần hội ngộ tại Cali.
Năm 1994, một năm sau ngày tới Mỹ, Thi Đàn Lạc Việt tổ chức
Giải Thi Thơ, Vi Khuê là một trong các giám khảo được mời.
Nhà thơ Dương Huệ Anh, Chủ tịch thi đàn này kêu gọi tôi, gần
như là nài nỉ tôi góp thơ dự thi, nên tôi gửi mấy bài đáp
lễ. Sau đó Vi Khuê điện thoại nói với tôi: “Đáng ra anh
không nên gửi bài dự thi v́ thơ anh c̣n hay hơn thơ những
người chủ trương treo giải…” Từ đó bà thường xuyên đăng
thơ tôi trên Phụ Nữ Diễn Đàn.
Ngày 13 tháng 11 năm 2010, tôi từ California sang vùng thủ
đô Washington D.C. ra mắt quyển “Nửa Thế Kỷ Việt Nam”,
chị (*) và cháu Nhất Anh có đến tham dự. Tiếc là tôi không
có nhiều ngày ở lại để đến nhà thăm chị. Từ sau đó khi có
những việc vui buồn tôi vẫn gọi thăm, nhưng dần dà sức khỏe
chị yếu, chúng tôi vắng tin nhau, nhưng “cách mặt mà không
xa ḷng”. Các thân hữu nhóm Cội Nguồn vẫn luôn nhắc nhở Vi
Khuê với t́nh cảm trân trọng.
(Hiệu chính, 12 – 2013).
Song Nhị
(*) Nhiều lần Vi Khuê nhắc tôi gọi “Chị” cho thân mật.
Thơ
văn
art2all.net
|