MỘT
BÀI THƠ CỦA PHẠM NHÃ DỰ
Sáng nay
(2/3/2018) nhà thơ, nhà biên khảo Ngô Nguyên Nghiễm hẹn đi
cà phê để anh trao cho tôi tập thơ Ở PHƯƠNG ĐÔNG CÓ MỘT VẦNG
TRĂNG của nhà thơ Phạm Nhă Dự gởi tặng.
Phạm Nhă Dự (1945 - sống ở Hoa Kỳ) hiện đang ở Việt Nam. Từ
chỗ tôi tới nhà Dự gần hơn từ nhà hai đứa tới nhà Ngô Nguyên
Nghiễm ở măi quận 8 Sài G̣n, nhưng tôi và Nghiễm gặp nhau dễ
hơn tôi gặp Dự. Phạm Nhă Dự tổ chức ra mắt tập thơ vào ngày
Mồng 2 Tết vừa rồi khi tôi đang ở Hà Nội trên đường “phượt”
xuyên Việt. Sau Tết, tôi trở về Sài G̣n, Dự c̣n đang dong
ruỗi với bạn bè ở đâu tận miền Tây sông nước.
Phạm Nhă Dự đă có tên tuổi trên văn đàn miền Nam (VNCH) từ
những năm 60 của thế kỷ trước, từng cùng cố nhà thơ Tô Đ́nh
Sự chủ trương tờ tạp chí Thế Đứng, và có tên trong Ban Biên
tập Nguyệt san Bộ Binh Thủ Đức. Là cựu sĩ quan QL VNCH, Phạm
Nhă Dự sang Hoa Kỳ định cư theo diện HO từ 1993.
Nhận được tập thơ của Dự, tôi lật t́m đọc ngay bài thơ “Buổi
Chiều Ở Nghĩa Trang Cà Đú” của anh mà tôi đă thích thú khi
được vài người bạn đọc cho nghe từ trước. Đây là một trong
nhũng bài thơ “kỳ lạ” (nếu có những bài thơ kỳ lạ khác thuộc
loại này) trong nền văn học Việt Nam: Bài thơ có nhiều tiếng
chửi thề. (Nhà thơ, nhà biên khảo kiêm dịch giả Trung văn
Trần Yên Thảo nói: “Tới những năm sau 1975, khi có dịp đọc
bài “Buổi Chiều ở Nghĩa Trang Cà Đú” tôi mới thực sự bị sét
đánh!”)
Trong cuộc sống quanh ta hẳn là có nhiều lúc, nhiều kẻ chửi
thề. Đó thường là những kẻ lỗ măng, ít học; lời chửi thề của
họ chỉ mang tính tục tỉu thô bỉ khó nghe. Nhưng không chỉ
những kẻ lỗ măng ít học mới chửi thề, chửi tục. Trong số các
nhà nho xưa có kẻ cũng nói tục viết tục không kém. Trong tập
san “Tết Cả Việt Nam & Lịch sử báo Xuân Nam Kỳ
(Vietnamese Lunar New Year Festival & A History of
Springtime Magazine in Cochinchina) của Đại học Hồng
Bàng ấn hành vào đầu năm 2000, ở đầu trang 98 có in một bức
tranh mộc bản vẽ hai ngôi nhà với cảnh người sinh hoạt. Trên
vách ngôi nhà bên phải, bên cạnh một h́nh tam giác có chấm ở
giữa, chung quang có... râu tua tủa, tượng h́nh... cái
yoni, là hai ḍng chữ Nôm viết theo hàng dọc mà phiên âm
ra là: “Đéo mẹ cha đứa nào ở trong nhà này.”(!)
Nên biết, muốn đọc và viết được chữ Nôm người ta phải rất
giỏi chữ Hán. Chỉ có các nhà nho “giỏi giang” mới viết ra
được hai ḍng chữ đó!
Những từ chửi thề, chửi tục không chỉ xuất hiện trong các
graffiti, như bức vẽ trên, từ rất lâu, chuyện chửi và chửi
thề đă t́m được “chỗ ngồi” trong văn học Việt Nam. Nhà văn
Nguyễn Công Hoan đă đưa vào tác phẩm “Bước Đường Cùng” của
ông một bài “chửi mất gà” rất... kinh điển, và nhà văn Nam
Cao cũng cho Chí Phèo chửi cả làng Vũ Đại. Nhưng đó chỉ là
hành động (?) chửi chung chung, không cụ thể, tức không có
những lời thông tục có tính taboo, tục tỉu, như chửi thề.
Trong cuộc sống hiện đại, đôi lúc người ta phát hiện ḿnh
lâm vào một t́nh huống mà phản ứng thích hợp nhất chỉ có thể
là... chửi thề. Văn nhân thi sĩ cũng chửi thề. Các nhà nho
của ta xưa thường là những người đạo mạo nghiêm túc, đọc
sách thánh hiền, nói lời thanh tao nho nhă, nhưng cũng đă có
người viết tục nói bậy như thấy ở trên. Trong “Đoạn Trường
Tân Thanh,” Nguyễn Du chỉ chửi đến... “chém cha” là
hết. “Chém cha cái số má đào...” Nhưng đôi khi trước
những t́nh huống đặc biệt nào đó trong cuộc sống các vị ấy
cũng buột miệng chửi thề... tục hơn. Thủ khoa Nguyễn Hữu
Huân kháng chiến chống Pháp bất kể lệnh giải giới của triều
đ́nh. Ông bị người Pháp bắt và hành h́nh. Ông hiên ngang
nhận cái chết một cách lẫm liệt, nhưng uất ức v́ có mấy kẻ
tiểu nhân ngu xuẩn cười ông là kẻ “phản thần” v́ ông không
tuân lệnh vua đầu hàng giặc. Trong bài thơ khẩu chiếm trước
lúc chết, ông đă buột miệng chửi thề:
“Thắng bại doanh hư trời khiến chịu
Phản thần! Đéo mẹ đứa cười ông.”
Hoặc trong một đôi câu đối của một nhà nho vô danh gán cho
Cao Bá Quát làm trước khi ông bị xử tử tại pháp trường:
“Ba hồi trống giục đù cha kiếp
Một nhát gươm đưa đéo mẹ đời!”
(Thật ra sách Đại Nam Thực lục Chính biên ghi Cao Bá Quát bị
viên suất đội Đinh thế Quang của quân triều đ́nh bắn chết
trong một trận đánh.)
Biết vậy rồi, đọc bài thơ “Buổi Chiều ở Nghĩa Trang Cà Đú”
của Phạm Nhă Dự chúng ta sẽ không những không cảm thấy sự
tục tỉu khó chịu của tiếng chửi thề, mà c̣n có thể đồng cảm
với tác giả. Tiếng chửi thề trong bài thơ truyền sang người
đọc cảm giác uất ức và chết điếng người của tác giả trước
cái chết của người bạn thân, một sự mất mát quá lớn lao và
tuyệt đối, không ǵ cứu văn được. Qua đó, người đọc cảm nhận
niềm đau của vợ con người bạn quà cố của nhà thơ, và cảm
thông với sự đau đớn trong ḷng tác giả.
Coi bài thơ độc đáo này như một “tuyên ngôn” mở ra một ḍng
thơ mới phản ánh chính xác tâm trạng đau đớn, giận dữ, uất
ức đi gần đến nổi loạn... của một lớp người trẻ sống trong
giai đoạn khốc liệt của Chiến tranh Việt Nam, có quá lời
không?
Cám ơn nhà thơ Phạm Nhă Dự, và nhà thơ Ngô Nguyên Nghiễm.
*
Phạm Nhă Dự
BUỔI CHIỀU Ở NGHĨA TRANG CÀ ĐÚ
*Gởi linh hồn mày, Tô Đ́nh Sự.
Trở lại Phan Rang lần này nữa
Thăm mày không biết ngắn hay lâu
Thăm mày, đù má mày đă chết
Hay chi nắm cỏ mọc xanh mồ
Chiều nay sao gió nhiều mày nhỉ
Gió nổi trong tao đến lạnh ḿnh
Đù má, nhang mày sao chẳng cháy
Đốt măi que diêm đến cạn cùng
Bên kia dăy núi trơ thân chó
Cỏ dưới chân tao lại sụt sùi
Mẹ kiếp vợ mày đang khóc mướt
Con mày, trời hỡi, nó cười vui.
C̣n tao, tao chẳng cười chẳng khóc
Chẳng ngậm ngùi chi lũ kiếp người
Đù má, tao chửi thề đây Sự
Chửi suốt trăm năm, chửi hết đời
Bây giờ mày đă nằm yên phận
C̣n vợ, bào thai, ba đứa con
Đù má, một đời làm thi sĩ
Chẳng đủ cho con lấy một đồng
Tụi ḿnh dăm đứa đời lang bạt
Sống chẳng ra chi, chẳng bận ḷng
Việc nước việc đời đem dẹp hết
Uống rượu quanh năm đếch ngại ngùng
Mày nhớ đêm tàn trên xa lộ
Thằng Chương đem xế lái quanh trời
Đù má, cũng c̣n cười khi sắp chết
Ngỡ rằng ḿnh hái được hoa mơ!
Thằng Chương nay đă nằm biên giới
Mày ở nơi đây biết được ǵ
Rượu chắc đă thèm, môi đă tím
Hơi nồng theo gió núi bay đi
Chẳng khóc được mày mà nước mắt tao rơi
Bạn bè dăm đứa chết dần vơi
Đụt núi mà t́m quên tri kỷ
C̣n thôi nấm mộ phủ quanh người.
Tao trở lại đây đường dịu vợi
Đốt nén hương tàn hát biệt ly
Thăm mày, đù má, ḷng buốt xót
Ngó trời chỉ biết chửi thề thôi!
Thôi hăy ngủ yên thằng chó chết
Tao về đây... Vui với cỏ cây
Nếu nhớ t́m tao nơi thôn nhỏ
Rượu với lang thang vẫn ngất trời.
Phan Rang, 1971.
(Ở Phương Đông Có Một Vầng Trăng, thơ Phạm Nhă Dự,
trang 84)
(
https://www.facebook.com/thieukhanh/posts/10208620519430516?pnref=story
)