Thân Trọng Sơn
MƯA
(
RAIN )
William Somerset Maugham
Nhà văn Anh
( 1874 - 1965 )
Truyện Rain xuất hiện trong tuyển tập
truyện ngắn của Maugham,
Chiếc lá run rẩy: Những câu chuyện
nhỏ về Quần đảo Biển Nam (1921).
"
T́nh
yêu tồn tại lâu nhất là t́nh yêu không bao giờ được đáp lại. Năm nay
chúng ta không c̣n là những người như năm ngoái nữa; những người chúng
ta yêu thương cũng vậy. Thật là một cơ hội hạnh phúc nếu chúng ta thay
đổi và tiếp tục yêu một người đă thay đổi."
( The love that lasts longest is the love that is never returned.We are
not the same persons this year as last; nor are those we love. It is a
happy chance if we, changing, continue to love a changed person. )
William Somerset Maugham
(1874-1965) nhà văn và nhà viết kịch Anh hiện đại, nổi tiếng thế giới về
truyện ngắn và tiểu thuyết; được xem là một trong những cây bút truyện
ngắn xuất sắc của văn học thế giới nửa đầu thế kỷ 20. Tác phẩm chính:
Mưa (truyện ngắn), Kiếp người (tiểu thuyết, 1915), Mặt trăng và sáu xu
(tiểu thuyết, 1919), Lưỡi dao cạo (tiểu thuyết, 1944)...
Cha của Maugham là luật sư Robert Ormond Maugham, người phụ trách các
vấn đề pháp lư của Đại sứ quán Anh tại Paris, Pháp. V́ luật của Pháp quy
định mọi trẻ em sinh trên đất Pháp đều phải đăng kư thi hành nghĩa vụ
quân sự, nên cha ông thu xếp cho ông được sinh ra trong Đại sứ quán Anh.
Ông nội của Maugham cũng là một luật sư trứ danh và là người đồng sáng
lập English Law Society (Hội luật pháp Anh) v́ thế việc anh em Maugham
nối gót theo bước chân của ông nội và cha được cho là điều tất nhiên.
Mẹ của ông là bà Edith Mary (nhũ danh Snell) bị bệnh lao, bà sinh
William nhiều năm sau khi sinh 3 người con đầu. Khi William lên 3 tuổi
th́ các người anh của ông đều đă vào học trong trường nội trú; c̣n ông
là con ít tuổi, được nuôi dạy như là cậu con một. Bà Edith chết v́ bệnh
lao vào ngày 31/01/1882 ở tuổi 41. Cái chết sớm của người mẹ khiến cho
Maugham bị chấn thương tâm thần; ông đă giữ tấm h́nh mẹ bên ḿnh suốt
cuộc đời c̣n lại. Hai năm sau cái chết của bà Edith, th́ cha của Maugham
cũng qua đời v́ bệnh ung thư.
Maugham được đưa trở về Anh cho người chú là Henry MacDonald Maugham -
một mục sư coi xứ đạo Whitstable ở Kent - trông nom. Cậu bé theo học ở
The King's School, Canterbury và bị trêu chọc v́ kém tiếng Anh (tiếng
Pháp là ngôn ngữ thứ nhất của cậu) và tầm vóc thấp mà cậu thừa hưởng từ
cha ḿnh. Maugham bắt đầu mắc tật nói lắp, kéo dài suốt đời, dù rằng chỉ
thỉnh thoảng và tùy theo tâm trạng hay hoàn cảnh. Khi lên 16 tuổi,
Maugham không chịu tiếp tục học ở trường King’s School nữa, chú của ông
cho phép ông sang Đức để học tiếng Đức, văn học và triết học tại Đại học
Heidelberg. Trong những năm ở Heidelberg, Maugham đă gặp và có mối quan
hệ với John Ellingham Brooks, một người Anh lớn hơn ông 10 tuổi. Ông
cũng viết quyển sách đầu tiên của ḿnh ở Heidelberg, quyển tiểu sử nhà
soạn nhạc opera Giacomo Meyerbeer.
Khi trở về Anh, người chú đă t́m cho Maugham một việc làm trong pḥng kế
toán, nhưng sau 1 tháng, ông đă bỏ việc và trở về Whitstable. Người chú
của ông t́m kiếm một nghề mới cho ông. Người cha và 3 người bác của
Maugham đều là luật sư danh tiếng, nhưng Maugham yêu cầu được miễn đi
theo bước chân của họ. Ông cũng từ chối việc làm trong giáo hội Anh
giáo, v́ một giáo sĩ nói lắp th́ sẽ biến gia đ́nh thành tṛ cười cho
thiên hạ. Người chú của ông th́ không chịu cho ông làm việc trong ngành
dân chính v́ ông cho rằng ngành dân chính đă không c̣n là nghề nghiệp
cho một nhà quư phái. Maugham đă viết đều đặn kể từ khi 15 tuổi và nhiệt
thành mong ước trở thành một nhà văn, nhưng v́ chưa tới tuổi thành niên,
nên ông tự kiềm chế không nói với người giám hộ của ḿnh. Trong 5 năm
sau đó, ông học ngành y học tại Bệnh viện thánh Thomas ở Lambeth,
London.
Maugham có thuê một pḥng riêng, thích trang trí trong pḥng, ghi chép
các ư tưởng văn học vào nhiều sổ tay, và tiếp tục viết hàng đêm cùng với
việc học y khoa của ḿnh. Cuộc sống của nhà văn đă cho phép Maugham đi
đây đi đó và sống ở những nơi như Tây Ban Nha và Capri trong suốt thập
kỷ sau.
Khi Chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra, ông không phải nhập ngũ v́ đă
quá tuổi quy định, ông t́nh nguyện làm tài xế lái xe cứu thương cho hội
Chữ Thập đỏ của Anh ở Pháp, cùng với 23 nhà văn nổi tiếng khác, trong đó
có các nhà văn Mỹ John Dos Passos và E. E. Cummings. Trong thời gian
này, ông gặp Frederick Gerald Haxton, một chàng trai người San
Francisco, người đă trở thành bạn và người yêu của ông cho tới khi
Haxton chết năm 1944. Maugham vẫn tiếp tục viết suốt thời gian này. Ông
đọc và sửa bản in thử quyển Of Human Bondage ở một nơi gần Dunkirk trong
thời gian ít phải lái xe cứu thương. Maugham cũng làm việc cho Cơ quan
T́nh báo Anh trên lục địa châu Âu trong thời chiến, do John Wallinger
tuyển mộ; ông là một nhân viên trong mạng gián điệp Anh hoạt động ở Thụy
Sĩ chống lại Berlin Committee (ủy ban Berlin), đặc biệt là Virendranath
Chattopadhyay. Sau này Maugham cũng được William Wiseman tuyển mộ để làm
việc ở Nga. Năm 1914 Maugham đă nổi tiếng, với 10 vở kịch được soạn và
10 quyển tiểu thuyết được xuất bản.
Năm 1916, Maugham du hành tới Thái B́nh Dương để t́m tài liệu viết quyển
tiểu thuyết The Moon and Sixpence, dựa trên cuộc đời của họa sĩ Paul
Gauguin. Đây là cuộc du hành đầu tiên trong những cuộc hành tŕnh xuyên
qua thế giới đế quốc cuối cùng của thập niên 1920 và 1930, đă tạo cho
Maugham trí tưởng tượng phổ cập như người chép sử biên niên về những
ngày cuối cùng của chủ nghĩa thực dân ở Ấn Độ, Đông Nam Á, Trung Quốc và
khu vực Thái B́nh Dương, mặc dù cuốn sách tạo ra danh tiếng này chỉ là
một phần nhỏ sản phẩm của ông. Trong chuyến đi này và tất cả hành tŕnh
tiếp theo, ông đều đi chung với Haxton, người mà ông coi là không thể
thiếu cho sự thành công.
Maugham từ đơn vị xe cứu thương ở Pháp trở lại Anh để quảng cáo bán
quyển Of Human Bondage. Khi hoàn tất việc đó, ông háo hức hỗ trợ nỗ lực
chiến tranh một lần nữa. Do ông đă không thể trở về đơn vị xe cứu thương
của ḿnh, nên vợ ông - Syrie - thu xếp giới thiệu ông với một sĩ quan
t́nh báo cấp cao, chỉ được biết tên là "R.". Tháng 9 năm 1915, Maugham
đă bắt đầu làm việc tại Thụy Sĩ, bí mật thu thập và gửi đi các tin tức
t́nh báo dưới vỏ bọc của chính ḿnh - tức một nhà văn.
Tháng 6 năm 1917, ông được Sir William Wiseman, một sĩ quan của Secret
Intelligence Service (Cơ quan t́nh báo bí mật) của Anh (sau này gọi là
MI6), yêu cầu đảm nhận một nhiệm vụ đặc biệt ở Nga.
Không bao giờ bỏ lỡ cơ hội để biến cuộc sống thực sự thành một câu
chuyện, Maugham biến kinh nghiệm làm gián điệp của ḿnh thành một tuyển
tập các truyện ngắn về một điệp viên lịch thiệp, tế nhị, lănh đạm,
Ashenden, một tập sách đă ảnh hưởng đến loạt phim James Bond của Ian
Fleming. Năm 1922, Maugham đề tặng cho Syrie quyển On A Chinese Screen,
một quyển gồm 58 bản phác thảo truyện cực ngắn thu thập được trong các
chuyến du hành năm 1920 xuyên qua Trung Quốc và Hồng Kông, với ư định
sau này chuyển những bản phác thảo đó thành một cuốn sách.
Năm 1928, Maugham mua Villa Mauresque có diện tích 12 mẫu Anh (49.000
m2) ở Cap Ferrat thuộc vùng Riviera của Pháp, để cư ngụ hầu như gần hết
quăng đời c̣n lại, và là một trong những salon văn học và xă hội lớn
nhất trong các thập niên 1920 và 1930.
Các tác phẩm của ông vẫn tiếp tục trở nên kỳ diệu, trong đó có các vở
kịch, truyện ngắn, tiểu thuyết, tiểu luận và các sách du lịch. Năm 1940,
khi sự sụp đổ của nước Pháp buộc Maugham phải rời khỏi vùng Rivier của
Pháp làm một người tỵ nạn giàu có, ông đă là một trong các nhà văn nổi
tiếng nhất và giàu có trong thế giới nói tiếng Anh.
Tài năng về kịch của Maugham đă được chứng minh trong việc kể lại huyền
thoại An Appointment in Samarra năm 1933, trong đó Thần Chết vừa là
người kể chuyện vừa là nhân vật trung tâm.
Thời Chiến tranh thế giới thứ hai, Maugham đang ở lớp tuổi 60, đă cư ngụ
phần lớn thời gian ở Hoa Kỳ, lúc đầu ở Hollywood, sau đó ở miền Nam.
Gerald Haxton qua đời năm 1944, và Maugham trở về Anh, rồi năm 1946 sang
sống ở ngôi biệt thự ở Pháp cho tới chết, ngoài trừ những chuyến du lịch
dài thường xuyên.
Maugham qua đời ngày 16/12/1965 ở Nice, Pháp. Maugham không có mộ phần.
Khi chết, tro hài cốt của ông được rải ở gần Thư viện Maugham, The
King's School, Canterbury. Khi qua đời, Maugham tặng các bản quyền tác
phẩm của ḿnh cho Royal Literary Fund (Quỹ văn học hoàng gia).
Câu chuyện lấy bối cảnh
trên một ḥn đảo Thái B́nh Dương: Quyết tâm cải tạo một cô gái điếm của
một nhà truyền giáo dẫn đến bi kịch.
Bản thân câu chuyện “Mưa” đă có một lịch sử rất thú vị. Maugham đă viết
nó trong chuyến đi tới Biển Nam. Từ những ḍng ngắn gọn ghi vào sổ tay,
sau này được đăng trên A Writer's Notebook, ông đă xây dựng nên câu
chuyện.
Chủ đề thuộc địa nổi bật trong nhiều câu chuyện và tiểu thuyết của
Maugham, người đă t́m kiếm trong chuyến du hành của ḿnh để t́m ra những
thuộc địa lập dị và thú vị để làm h́nh mẫu cho tiểu thuyết. Thông thường
những nhân vật như vậy t́m cách duy tŕ và nâng cao các tiêu chuẩn và
phong tục tiếng Anh khi sống ở những vùng đất xa quê hương của họ. Trong
“Mưa” Maugham chứng minh rằng những nỗ lực của những người định cư thuộc
địa đă mang lại những bất lợi đáng kể cho người dân sống ở Nam Thái B́nh
Dương. Bà Davidson nhấn mạnh với Bác sĩ Macphail đa nghi rằng ông
Davidson gặp khó khăn lớn trong việc mang lại cảm giác tội lỗi cho người
dân đảo Nam Hải. Một chủ đề liên quan đến việc người châu Âu không có
khả năng giữ lại các giá trị văn hóa của họ trong một khung cảnh xa lạ.
Bằng cách giới thiệu vị giáo sĩ như một kẻ cực đoan cứng nhắc về đạo đức
t́nh dục, Maugham chuẩn bị cho người đọc về sai sót của ḿnh. Đối với
độc giả, kết quả này thể hiện sự mỉa mai cao độ, không phải không có âm
hưởng hài hước. Nhưng đối với ông Davidson, cú ngă quá tàn khốc đến nỗi
việc tự sát dường như là lối thoát duy nhất của ông.
Khám phá các chủ đề về lẽ phải, sự trịch thượng, sự riêng tư và đạo đức
giả, "Mưa" có cái nh́n phê phán việc áp đặt đạo đức Cơ đốc giáo.
Mưa, với tư cách là sức mạnh nguyên thủy của thiên nhiên, một mặt có thể
mang lại sự sống và mặt khác có thể mang lại cái chết. Trong câu chuyện
này, nó đóng vai tṛ là biểu tượng của sự tức giận, ăn năn và trừng
phạt; Rain là biểu hiện của tính cách đạo đức giả và độc ác của nhà
truyền giáo Davidson. Độc giả gặp từ 'mưa' 26 lần trong truyện.
Văn xuôi của Maugham nổi tiếng v́ tính bộc trực, tính tao nhă và sự trau
chuốt của nó. Giống như phần lớn tiểu thuyết của ông, “Rain” được viết
với sự trau chuốt tối thiểu, tập trung gần như không nao núng vào mạch
truyện. Maugham chủ yếu coi ḿnh là một người kể chuyện hơn là một nghệ
sĩ văn học, nhưng “Rain” lại tin vào sự khiêm tốn như vậy. Nó không chỉ
là một vở kịch đạo đức mang tính giải trí cao về sự cám dỗ, tội lỗi và
sự cứu rỗi, mà ở mức tốt nhất, nó c̣n là một sự phê phán sắc bén và thậm
chí mang tính ngụ ngôn đối với xung lực thuộc địa của người da trắng.
Đă gần đến giờ đi ngủ và
khi họ thức dậy vào sáng hôm sau, đất liền sẽ ở trong tầm mắt. Bác sĩ
Macphail đốt thuốc hút và nghiêng người qua lan can, t́m kiếm cḥm sao
Southern Cross trên bầu trời. Sau hai năm ở mặt trận ông bị thương lâu
lành hơn b́nh thường, ông rất vui khi được ổn định cuộc sống ở Apia ít
nhất là mười hai tháng, và ông đă cảm thấy tốt hơn cho cuộc hành tŕnh.
V́ một số hành khách sẽ rời tàu vào ngày hôm sau tại Pago-Pago nên họ đă
khiêu vũ một chút vào tối hôm đó và trong tai ông vẫn c̣n vang lên những
nốt chói tai của cây đàn piano cơ. Nhưng cuối cùng boong tàu lại yên
tĩnh. Đi được một đoạn, ông nh́n thấy vợ ḿnh đang ngồi trên ghế dài nói
chuyện với gia đ́nh Davidson, ông bước tới chỗ bà. Khi ông ngồi xuống
dưới ánh đèn và bỏ mũ ra, người ta thấy ông có mái tóc rất đỏ, trên đỉnh
đầu có một mảng hói, và làn da đỏ có tàn nhang đi kèm với mái tóc đỏ;
ông là một người đàn ông bốn mươi tuổi, gầy g̣, khuôn mặt nhăn nheo, tỉ
mỉ và khá mô phạm; và ông nói giọng Scotland bằng một giọng nhỏ nhẹ và
b́nh tĩnh.
Giữa vợ chồng Macphail và vợ chồng Davidson, những người truyền giáo, đă
nảy sinh sự thân mật trên tàu, điều này là do sự gần gũi hơn là do bất
kỳ việc đồng sở thích nào. Điểm ràng buộc chính của họ là cùng không tán
thành những người đàn ông dành cả ngày lẫn đêm trong pḥng hút thuốc để
chơi bài poker hoặc bài bridge và uống rượu trong pḥng
hút thuốc. Bà Macphail không khỏi hănh diện khi nghĩ rằng bà và chồng là
những người duy nhất trên tàu mà gia đ́nh Davidson sẵn sàng kết giao, và
ngay cả bác sĩ, nhút nhát nhưng không ngây thơ, cũng hơi cảm động về
thịnh t́nh của cặp Davidson. Chỉ v́ vốn có óc dị nghị nên ban đêm trong
pḥng riêng, bác sĩ thường chỉ trích ông bà Davidson.
" Bà Davidson nói rằng bà không biết làm thế nào họ có thể vượt qua được
cuộc hành tŕnh nếu không có vợ chồng ḿnh," bà Macphail vừa nói vừa
chải kỹ mái tóc. " " Bà ấy nói chúng ta thực sự là những người duy
nhất trên con tàu mà họ muốn làm quen."
" Anh nghĩ rằng một nhà truyền giáo đâu phải là một nhân vật quan
trọng ǵ mà khó tính đến thế. "
" Không phải là khó tính. Em hoàn toàn hiểu ư bà ấy. Sẽ chẳng hay ho ǵ
nếu nhà Davidson phải tiếp xúc những người thô lỗ đó trong pḥng hút
thuốc."
Bác sĩ Macphail cười nhạo: " Người sáng lập tôn giáo của họ đâu có chấp
nhất tới như vậy."
Bà vợ trả lời: “ Em đă van anh nhiều lần đừng đùa giỡn về tôn giáo. Em
không muốn có bản chất như anh, Alec. Anh chỉ nhận thấy mặt trái của kẻ
khác thôi. "
Bác sĩ liếc nh́n vợ bằng đôi mắt xanh nhạt, nhưng không trả lời. Sau
nhiều năm chung sống, ông đă học được rằng sẽ b́nh yên hơn nếu nhịn vợ.
Ông thay quần áo xong trước bà, và leo lên giường treo trên ngồi rồi lấy
sách ra đọc để dễ ngủ.
Khi ông lên boong vào sáng hôm sau th́ tàu đă gần tới đất liền. Ông chăm
chú nh́n nó. Có một dải băi biển bạc mỏng nhô lên nhanh chóng đến những
ngọn đồi được bao phủ bởi thảm thực vật um tùm. Những cây dừa rậm rạp và
xanh tươi trải dài đến tận mép nước, và trong số đó bạn có thể nh́n thấy
những ngôi nhà cỏ của người Samoa; đây đó, trắng lấp lánh, một nhà thờ
nhỏ. Bà Davidson đến đứng cạnh ông. Bà mặc đồ đen và đeo một sợi dây
chuyền vàng quanh cổ, trên đó lủng lẳng một cây thánh giá nhỏ. Đó là một
phụ nữ nhỏ nhắn, với mái tóc nâu xỉn được chải rất công phu và có đôi
mắt xanh nổi bật đằng sau chiếc kính kẹp mũi không gọng. Khuôn mặt bà
dài, giống như mặt ngựa, nhưng không có vẻ ǵ là đần độn mà là cực kỳ
cảnh giác; bà có những chuyển động nhanh nhẹn của một con chim. Điều
đáng chú ư nhất ở bà là giọng nói cao, sắc và không có âm điệu; nó rơi
vào tai một cách đều đều, khó chịu đến thần kinh như tiếng kêu thảm
thiết của máy khoan, đến bực ḿnh.
“Đây có lẽ giống như nhà của bà rồi phải không,” bác sĩ Macphail nói,
cặp môi mỏng ráng nhoẻn miệng cười.
"Ông biết đấy, đảo của chúng tôi là những ḥn đảo san hô, không giống
những ḥn đảo này. Đây là những ḥn đảo núi lửa. Chúng ta c̣n phải đi
mười ngày nữa mới đến."
“ Ở những khu vực này, điều đó gần giống như ở nhà ở con đường bên
cạnh", bác sĩ Macphail nói một cách hài hước.
" Chà, đó có lẽ là một cách nói phóng đại, nhưng ở Biển Nam người ta
nh́n nhận khoảng cách một cách khác nhau. Cho đến giờ th́ ông đă đúng."
Bác sĩ Macphail thở dài nhẹ nhàng. Bà Davidson nói tiếp:
“ Đáng mừng v́ chúng tôi không phải truyền giáo ở đây,” bà tiếp tục.
“Người ta nói đây là một nơi làm việc cực kỳ khó khăn. Những tàu hơi
nước cặp bến làm cho dân chúng bất an, rồi lại có một quân cảng nữa,
điều đó thật tệ cho người bản xứ. Ở khu vực chúng tôi không gặp những
khó khăn như vậy. Tất nhiên, có một hoặc hai thương nhân, nhưng chúng
tôi cẩn thận làm cho họ cư xử đúng mực, và nếu họ không làm như vậy,
chúng tôi sẽ tạo t́nh trạng cực kỳ khó cho họ, và họ sẽ mừng mà đi nơi
khác.”
Chỉnh lại chiếc kính trên mũi bà nh́n quanh ḥn đảo, vẻ dửng dưng.
"Đó gần như là một nhiệm vụ vô vọng đối với những người truyền giáo ở
đây. Tôi không bao giờ có thể biết ơn Chúa đủ đă giúp tránh khỏi sự thử
thách đó."
Khu truyền đạo của ông Davidson bao gồm một nhóm đảo ở phía Bắc Samoa;
cách xa nhau rất nhiều nên ông thường xuyên phải đi một quăng đường dài
bằng ca nô. Vào thời điểm này, vợ ông vẫn ở trụ sở chính của họ và chỉ
huy giáo hội. Bác sĩ Macphail cảm thấy tim ḿnh thắt lại khi xem xét
hiệu quả mà chắc chắn bà đă đạt được.
Bà Davidson nói về sự sa đọa của người bản xứ bằng một giọng không có
sức nào át được, nhưng với một nỗi kinh hoàng tột độ. Cảm giác tinh tế
của bà ấy thật đặc biệt. Lúc mới quen nhau bà đă nói với bác sĩ :
" Ông biết đấy, phong tục hôn nhân của họ khi chúng tôi mới tới quần đảo
gây sốc đến mức tôi không thể diễn tả cho ông nghe được. Nhưng tôi sẽ kể
với bà Macphail và bà ấy sẽ kể cho ông."
Sau đó, ông nh́n thấy vợ và bà Davidson ngồi trên những chiếc ghế xếp
cạnh nhau tṛ chuyện nghiêm túc trong khoảng hai giờ. Khi ông đi tới đi
lui để tập thể dục, ông đă nghe thấy tiếng th́ thầm đầy kích động của bà
Davidson, giống như ḍng nước chảy từ xa của ḍng nước trên núi, và qua
cái miệng há hốc và khuôn mặt tái nhợt của vợ, ông thấy rằng bà đang tận
hưởng một trải nghiệm đáng lo ngại. Vào ban đêm trong pḥng riêng, bà
lặp lại cho ông với hơi thở nặng nề tất cả những ǵ đă nghe.
“ Thế nào, tôi đă nói ǵ với ông vậy ?" bà Macphail nói, với vẻ đắc ư
vào sáng hôm sau. "Có bao giờ ông được nghe những câu chuyện gớm ghiếc
như vậy không? Làm sao mà tôi có thể kể thẳng cho ông nghe được ? Mặc dù
ông là bác sĩ. "
Rồi bà ta ḍ xét nét mặt của Macphail xem câu chuyện có gây kết quả như
ḿnh muốn không.
“ Ông hiểu rằng hồi mới tới, chúng tôi lợm giọng chứ? Ông tưởng tượng
giùm tôi, trong khắp các làng xóm, không làm sao kiếm được một thiếu nữ
ngoan."
Bà ta nói tiếng “ ngoan “ bằng một giọng nghiêm khắc ngụ một ư riêng.
" Vợ chồng tôi suy nghĩ rồi quyết định rằng việc đầu tiên phải làm là
cấm ngặt khiêu vũ. Dân bản xứ mê cái đó lắm."
Bác sĩ Macphail đáp:
" Hồi trẻ tôi cũng không ghét môn khiêu vũ."
“ Tối qua nghe ông rủ bà nhảy một bản, tôi cũng đoán được rằng ông không
ghét môn đó. Trong chỗ vợ chồng cũng vui. ?? Nhưng ở một vài trường hợp
th́ ḿnh nên giữ khoảng cách riêng th́ hơn! “
“ Trong những trường hợp nào ? “
Bà Davidson lườm bác sĩ qua cặp kính kẹp mũi mà không trả lời, cứ tiếp
tục:
“ Trong giới người da trắng th́ khác, nhưng tôi đồng ư với nhà tôi là,
thật là khó coi khi ông chồng đứng bên mà nh́n người khác ôm vợ ḿnh
nhảy. Tôi th́ từ hồi cưới tới giờ, không hề nhảy một bước. Mà cái lối
khiêu vũ của dân bản xứ khác hẳn. Nó không những trái luân thường mà c̣n
đưa tới truỵ lạc nữa. Tuy nhiên, tôi cũng nhớ ơn Chúa giúp chúng tôi
tránh được nó, và tôi không nghĩ là ḿnh đă sai khi nói rằng không ai
khiêu vũ trong vùng này suốt tám năm qua.”
Tàu đă đến bờ, bà Macphail lại nhập bọn. Th́nh ĺnh tàu quẹo rồi chầm
chậm tiến vô. Hải cảng rộng đủ chứa một hạm đội, chung quanh là những
ngọn đồi xanh, cao, dựng đứng lên. Dinh của viên thống đốc ở cửa biển,
dưới ngọn gió khơi thổi vào, giữa một khu vườn. Ngọn cờ đầy ngôi sao và
sọc ngang phấp phới nhè nhẹ. Tàu chạy ngang qua ba toà dinh thự xinh
xắn, một sân quần vợt, rồi ghé bờ, bên cạnh nhiều kho hàng. Bà Davidson
lấy tay chỉ một tàu buồm đậu cách đó hai ba trăm thước, bảo sẽ đáp tàu
đó đi Apia. Thổ dân ở khắp nơi trong đảo ùa lại, ồn ào, vui vẻ, hoặc để
coi, hoặc để bán hàng cho những hành khách đi Sydney. Họ đem lại những
trái khóm, những nải chuối lớn, những thứ vải Apia, những chuỗi dây răng
cá mập, vỏ ốc, chén kava, và những kiểu xuồng chiến nhỏ xíu. Lính thủy
Mỹ ăn vận đàng hoàng, sạch sẽ, râu mới cạo, mặt sáng sủa, đi đi lại lại,
và có một vài nhóm công chức. Trong khi phu khuân đồ của họ lên bờ, ông
bà Davidson và ông bà Macphail nh́n đám đông. Ông bác sĩ nhận xét những
mụn lở loét ghê tởm không sao lành được, mà đa số trẻ em và thanh niên
bản xứ mắc phải. Cặp mắt nhà nghề của ông sáng lên trông thấy - lần ấy
là lần đầu - những con bệnh mắc chứng da sùi lên như da voi, chân tay họ
sưng vù, to lớn nặng nề dị thường. Đàn ông và đàn bà đều quấn cái lava.
( Lava-lava là một mảnh vải mà người Polynesia buộc quanh eo và mặc như
váy. Cả nam và nữ đều mặc loại trang phục này ở Samoa và được coi là
trang phục truyền thống hàng ngày được sử dụng làm đồng phục học sinh
cho đến trang phục đi làm kết hợp với áo khoác và cà vạt.)
Bà Davidson nói:
“ Thứ y phục đó thật sỗ sàng. Nhà tôi bảo phải cấm ngặt thứ đồ đó mới
phải. Những kẻ chỉ quấn mỗi một miếng khăn đỏ ở bụng thay cho quần áo
th́ c̣n có tinh thần đạo đức, luân lư ǵ nữa. “
Bác sĩ Macphail lấy khăn thấm mồ hôi ở trán đáp:
" Nó hợp với khí hậu chứ. "
Khi họ lên bờ, ánh nắng đă oi ả mặc dầu lúc đó c̣n sớm. Chung quanh là
đồi, thành thử Pago-Pago khuất gió.
Bà Davidson nói tiếp, giọng như xé tai người ta:
" Trong những cù lao của chúng tôi, chúng tôi đă cấm tuyệt cái lava-
lava. Chỉ c̣n vài người già cả bận nó thôi; c̣n đàn bà th́ bận áo choàng
mà đàn ông th́ bận quần và áo nịt. Ngay từ hồi mới tới, nhà tôi đă tuyên
bố như vầy trong một tờ thuyết tŕnh: 'Ngày nào mà con trai trên mười
tuổi vẫn không bận quần th́ ngày đó đạo Kitô vẫn chưa gọi là thắng được
trên những đảo này."
Nhưng cặp mắt xanh như cắt của bà Davidson đă ngó những đám mây đen
thường đùn lên ở cửa biển. Đă bắt đầu có vài giọt mưa.
Bà khuyên:
" Nên kiếm chỗ trú mưa thôi."
Họ theo đám đông chạy lại một cái xưởng lợp bằng tôn uốn, và mưa đổ
xuống như trút nước. Được một lúc ông Davidson lại. Khi ở dưới tàu, mặc
dù đối đăi với ông bà Macphail một cách rất lễ độ, ông ít giao du hơn
với bà vợ, chỉ đọc sách. Ông ít nói, gần như lầm lỳ, v́ đạo bác ái mà
gắng sức tỏ ra vui tính, chứ bản tính ông kín đáo, gắt gỏng là khác nữa.
Bộ dạng kỳ dị: rất cao mà gầy, chân lêu nghêu, má hóp, g̣ má nhô, môi
dày, có vẻ da đục, trái hẳn với nước da nhợt nhạt của ông. Tóc để rất
dài. Mắt đen, sâu hoắm, trông thấy mà ghê ; bàn tay tuyệt đẹp mà có vẻ
mạnh mẽ lạ. Đặc biệt nhất là nh́n ông, ta có cảm giác rằng ông cố nén
một ngọn lửa bừng bừng trong nội tâm. Cảm giác đó làm cho ta khó chịu.
Không thể nào thân mật với con người như vậy được.
Ông lại báo tin không may: bệnh sởi, một bệnh truyền nhiễm nguy hiểm
thường làm cho dân Kanaka chết, đang phát ở đảo, và một thủy thủ trên
chiếc tàu chạy Apia mà họ sẽ đáp, đă mắc bệnh đó. Người ta đă chở bệnh
nhân lên bờ, đợi hết thời gian kiểm dịch; nhưng ở Apia người ta đều đánh
điện tới cấm tàu vào bến cho tới khi biết chắc là bệnh không phát ra ở
tàu nữa mới thôi.
" Thế là chúng ta phải ở lại đây ít nhất là mười ngày. "
Bác sĩ Macphail bảo:
" Ở Apia người ta cần tôi gấp mà."
" Gấp cũng phải chịu. Nếu dưới tàu không c̣n người nào mắc bệnh nữa th́
tàu mới được phép chở những hành khách da trắng đi, c̣n những người bản
xứ th́ phải đợi ba tháng nữa."
Bà Macphail hỏi:
" Ở đây có khách sạn không? "
Ông Davidson mỉm cười:
" Tuyệt nhiên không. "
" Thế th́ làm sao bây giờ?
" Tôi mới nói với ông thống đốc. Trên băi biển, một nhà buôn có pḥng
cho mướn: tôi đề nghị hễ ngớt mưa một chút, chúng ta lại đó xem thử.
Đừng ḥng có tiện nghi đâu đấy. Miễn có được một cái giường để nằm và
một cái mái để che là quư rồi. "
Nhưng mưa vẫn chưa muốn ngớt và họ đành khoác áo mưa, che dù, đi đại.
Thực ra không phải là một thành phố, chỉ có một dăy công sở, vài cửa
hàng, rồi phía sau là ít nhà lá của thổ dân lụp xụp trong đám dừa và
chuối. Đi độ năm phút là tới căn nhà họ kiếm. Nhà bằng cây, có hai tầng,
tầng nào cũng có hiên rộng, mái lợp tôn uốn. Chủ nhà là một người lai
tên Horn, vợ là người bản xứ, chung quanh là một bầy con c̣n nhỏ da ngăm
ngăm; họ mở một cửa tiệm ở tầng dưới bán đồ hộp và vải. Pḥng cho mướn
không có đồ đạc ǵ cả. Pḥng của ông bà Macphail chỉ có mỗi một cái
giường tồi tàn, với một cái mùng rách, một cái ghế khập khiễng và một
cái bồn rửa mặt. Họ ngó quanh mà ngán ngẫm. Mưa vẫn không ngớt..
Bà Macphail nói:
" Em chỉ lấy ra những đồ cần thiết thôi nhé? "
Bà đang mở va li th́ bà Davidson nhanh nhẹn bước vô, không có vẻ ǵ buồn
bực về cảnh tồi tàn của pḥng. Bà ta khuyên:
" Trước hết, bà lấy kim chỉ vá ngay cái mùng lại đi bà ạ, không th́ đêm
không thể nào nhắm mắt được đâu. "
Bác sĩ Macphail hỏi:
" Muỗi dữ vậy kia à?"
" Mùa này là mùa muỗi mà. Tới Apia, trong những buổi tiếp tân của ông
thống đốc, ông sẽ nhận thấy rằng người ta đưa cho mỗi bà một cái áo gối
để bao chân cho khỏi bị muỗi đốt. "
Bà Macphail thở dài:
" Nếu ngớt mưa cho ḿnh được một lúc nhỉ? Trời có nắng lên. tôi mới vui
dọn dẹp lại cái pḥng này được chứ. "
"Đợi cho hết mưa th́ c̣n lâu, Pago- Pago là nơi mưa nhiều nhất trên Thái
B́nh Dương. Cái vịnh này, những đồi kia, đều giữ mưa lại. Đang giữa mùa
mà. "
Bà hết nh́n ông Macphail tới bà Macphail, cả hai đều đứng trơ trơ mỗi
người một nỗi như kẻ mất hồn, rồi cắn môi suy nghĩ. Cái cặp nhu nhược
này thấy họ mà bực ḿnh. Bẩm tính hoạt động, bà Davidson thấy tay ngứa
ngáy, phải lăng xăng dọn dẹp lại căn pḥng giúp họ.
"Đâu, đưa cho tôi kim chỉ đi. Tôi vá mùng lại cho trong khi bà mở va li
lấy đồ. Bữa cơm trưa vào lúc một giờ đấy nhé. C̣n bác sĩ th́ xuống bến
xem người ta có đặt những đồ đạc cồng kềnh của ông vào một chỗ khô ráo
không. Ông c̣n lạ ǵ dân bản xứ nữa, chúng có thể xếp đại nó ở giữa trời
lắm. "
Ông Macphail lại khoác áo mưa và đi xuống tầng dưới. Ở cửa, Horn đang
nói chuyện với một người thủy thủ trưởng và một cô hành khách đi hạng
nh́ mà bác sĩ đă gặp nhiều lần ở dưới tàu. Thủy thủ trưởng nhỏ bé, nhăn
nheo, ăn mặc cực kỳ bẩn thỉu, ngả đầu chào ông khi ông đi qua, và nói:
" Cái bệnh sởi thật là tai hại. Bác sĩ đă mướn được pḥng rồi ?"
Macphail thấy giọng đó hơi sỗ sàng, nhưng vốn rụt rè nên ông không tỏ vẻ
bực ḿnh.
" Phải, chúng tôi đă mướn được pḥng ở trên lầu. "
" Cô Thompson cũng phải tới Apia với ông. Nên tôi dắt cô ấy lại đây, "
Vừa nói vừa lấy ngón tay chỉ một phụ nữ đứng bên cạnh. Khoảng hai mươi
bảy tuổi, mập, thô, cô ta bận áo dài trắng và đội một chiếc nón lớn cũng
trắng. Bắp chân mập mạp của cô đeo vớ sợi, ḷi ra khỏi đôi giày cổ cao
bằng da dê sơn trắng bóng. Cô cười t́nh với bác sĩ, rồi nói, giọng khàn
khàn.
" Thằng tướng này đ̣i cứa cổ tôi đấy, cái pḥng khốn nạn đó mà đ̣i đồng
rưỡi một ngày. "
Người thủy thủ trưởng nói:
" Tôi đă bảo anh rằng cô ấy là bạn thân của tôi. Cô ấy không thể trả
trên một đồng, thôi th́ nhận cái giá đó đi. "
Chủ tiệm mập mạp, b́nh tĩnh mỉm cười, ngọt như mía:
" Ông Swan à, nếu vậy th́ tôi ráng làm vui ḷng ông. Để tôi bàn với nhà
tôi xem, có thể được th́ hạ giá một chút. "
Cô Thompson nói:
" Thôi đi, đừng giở tṛ khỉ ra nữa. Quyết định phắt đi. Tôi trả
anh một
đồng một ngày đấy, không thêm một xu. "
Macphail mỉm cười, thấy cô ta trả giá tách bạch như vậy, ông ta phục
quá. Ông thuộc vào hạng người không ưa trả giá, thà chịu hớ chứ không
muốn c̣ kè thêm bớt. Chủ tiệm thở dài.
" Nể lời ông Swan quá. Vâng, th́ tôi nhận. "
Cô ta đáp:
" Ừ, biết điều đấy. Thôi vô! Tôi đăi các người một chầu rượu. Có thứ
whisky chính hiệu trong cái xắc này đây. Anh Swan, đem giùm vô. Bác sĩ
nữa, vô cho vui. "
" Thôi, cảm ơn. Tôi c̣n phải đi xem hành lư của tôi ra sao. "
Nói xong, Macphail đi ra đường; mưa ở ngoài biển hất vào bờ bên kia mù
mịt.
Ông ta gặp hai ba người bản xứ bận lava- lava, che cây dù lớn. Họ uyển
chuyển, cử động khoan thai, đi đứng ngay ngắn. Khi họ ngang qua ông, họ
mỉm cười chào bằng ngôn ngữ của họ.
Tới bữa, ông về tiệm. Bàn ăn đă dọn trong pḥng khách, một pḥng để
trưng chứ không phải ở, buồn tẻ, hôi hám. Chung quanh tường bày những
hàng ghế bành ngay ngắn, rất có thứ tự, giữa trần tḥng xuống một cây
đèn treo mạ vàng, bao giấy lụa vàng để che ruồi. Ông Davidson vắng mặt.
Bà Davidson giải thích :
" Nhà tôi lại thăm ông thống đốc, chắc ăn cơm trong dinh. "
Một cô gái bản xứ bưng ra một đĩa thịt ḅ. Ít phút sau, chủ nhân vô
pḥng soát lại xem c̣n thiếu cái ǵ không.
Bác sĩ Macphail bảo:
" Anh Horn, anh mới có thêm một khách trọ phải không? "
" Cô ấy chỉ mướn pḥng thôi ạ, cơm nước tự lo lấy. "
Horn liếc nh́n hai bà khách vẻ khúm núm:
" Tôi để cô ấy ở tầng dưới, như vậy khỏi sợ phiền đến hai bà. "
Bà Macphail hỏi:
" Có phải cô ta cũng ở tàu lên không? "
" Thưa bà vâng, đi hạng nh́ ạ. Cô ấy tới Apia để làm chân thu tiền nào
đó. "
" Vậy à? "
Khi chủ nhà ra, Macphail nói:
" Ăn một ḿnh trong buồng th́ chắc buồn lắm. "
Bà Davidson hỏi:
" Nếu là một hành khách hạng nh́ th́ như vậy cũng là chuyện thường. Ai
đấy nhỉ? "
" Lúc tôi ở dưới nhà, người thủy thủ trưởng dắt cô ta lại. Tên cô ta là
Thompson."
Bà Davidson hỏi:
" Phải cái cô tối hôm qua khiêu vũ với hắn không? "
" Có lẽ. Tôi cũng không biết rơ. Coi bộ cũng hơi đúng. "
Bà Davidson nói:
" Đồ hư thân mất nết. "
Rồi họ nói qua chuyện khác. Ăn xong, mệt mỏi v́ sáng hôm đó dậy sớm, họ
chia tay nhau, về pḥng riêng nghỉ ngơi.
Khi họ thức dậy, trời vẫn xám, mây vẫn thấp, nhưng không mưa, họ dạo
chơi trên con đường lớn mà người Mỹ xây dọc bờ vịnh.
Khi về tới nhà th́ ông Davidson cũng vừa mới về, ông bảo:
" Có lẽ chúng ta phải ở lại đây đến nửa tháng. Tôi đă tŕnh bày với ông
thống đốc, ông ấy bảo không có cách nào khác.
Bà Davidson ngó chồng, vẻ ái ngại nói:
" Nhà tôi nóng ruột muốn làm việc lắm.”
Davidson đi đi lại lại trong hiên nói tiếp:
" Chúng tôi vắng mặt một năm rồi; tôi ngại rằng dưới sự chỉ huy của các
mục sư bản xứ, giáo hội không c̣n giữ được kỷ luật nữa. Phải nhận rằng
họ tốt, sùng đạo, sợ Chúa, đức tin thành thật của họ có thể làm cho
nhiều người tự cho là ngoan đạo ở xứ ḿnh phải thẹn. Nhưng họ thiếu nghị
lực một cách thảm hại. Họ chống cự được một lần, hai lần thôi, không thể
nào kiên nhẫn hơn được. Dù họ là người đáng tin tới mấy, mà giao cho họ
thay ḿnh th́ rồi thế nào cũng có chỗ hỏng. "
Ông ta nói xong, đứng lại. Thân h́nh gầy mà cao, cặp mắt sáng ngời trong
một gương mặt xanh xao, có vẻ suy nghĩ lắm. Tấm ḷng thành thực hiện rơ
trong cử chỉ hăng hái, giọng nói trầm trầm, sang sảng.
" Tôi tin rằng bổn phận tôi vạch rơ. Phải hoạt động, hoạt động gấp. Nếu
cây mà đă mục rồi th́ phải cưa liệng vô lửa.
Tối hôm ấy, họ không ăn cơm mà uống trà và ăn bánh ngọt. Trong pḥng
khách nghiêm trang, các bà làm việc, bác sĩ hút thuốc; c̣n nhà truyền
giáo th́ kể cho họ nghe hoạt động của ḿnh trên các đảo.
" Hồi chúng tôi mới tới, thổ dân không có quan niệm về tội lỗi, phạm tất
cả những giới luật của Thiên Chúa mà họ không ngờ. Nhiệm vụ khó khăn
nhất của tôi là dạy cho họ hiểu thế nào là điều ác. "
Ông bà Macphail biết rằng ông Davidson đă truyền giáo năm năm ở quần đảo
Salomons trước khi gặp bà ấy. Hồi đó bà truyền giáo ở Trung Hoa. Họ về
xứ sở nghỉ phép và gặp nhau ở Boston, trong một cuộc hội nghị các nhà
truyền giáo. Họ cưới nhau rồi được phái tới miền này luôn cho tới ngày
nay.
Trong khi chuyện tṛ với ông Davidson, ông bà Macphail có cảm giác là
con người đó bất khuất, can đảm lạ lùng. Vừa truyền giáo, vừa làm y sĩ,
ông phải đi tới đảo này, đảo khác bất kỳ lúc nào. Mùa mưa, trong những
cơn dông tố, ngồi trong một chiếc thuyền đánh cá voi c̣n nguy thay, mà
người ta thường lái chiếc ca nô lại đón ông đi. Hễ có một người bị tai
nạn hay ốm đau th́ không khi nào ông do dự. Trên mười hai lần rồi, ông
phải mất cả đêm chống cự với sóng gió, ở giữa biển, ban đêm và hơn một
lần bà Davidson đă nghĩ là ông mất tiêu rồi.
Bà kể: " Tôi thường năn nỉ ông ấy đừng đi hoặc đợi cho bớt sóng gió
rồi hăy đi, nhưng vô ích! Nghị lực sắt đá, hễ quyết định th́ không có ǵ
ngăn cản được. "
Davidson lớn tiếng:
" Làm sao mà tôi có thể bảo thổ dân họ tin Chúa được nếu chính tôi, tôi
không làm gương cho họ? Trong cơn nguy mà họ cho gọi tôi th́ họ biết
rằng thế nào tôi cũng tới, trừ phi là một việc ngoài sức của con
người.Thử nghĩ coi, Chúa có thể nào bỏ tôi trong khi tôi làm việc cho
Ngài? Ngài mà ra lệnh th́ gió sẽ dậy, sóng sẽ gầm."
Bác sĩ Macphail vốn nhút nhát. Không thể nào ông ta quen được tiếng đạn
vèo vèo trên miệng hầm; và khi ở tiền tuyến, có lần ông gắng tự chủ cho
tay khỏi run; đến nỗi mồ hôi chảy ṛng ṛng trên trán, làm mờ cả cặp
kiếng. Cho nên nh́n nhà truyền giáo, ông hơi rùng ḿnh, bảo:
" Tôi ước sao có thể nói rằng không hề biết sợ một cái ǵ. "
Davidson bẻ ngay:
" Tôi ước sao ông có thể nói rằng ông tin Chúa. "
Tới đó, ông ta nhớ lại những buổi đầu tiên hai vợ chồng sống ở quần đảo.
" Đôi khi vợ chồng tôi ngó nhau mà nước mắt ṛng ṛng trên má! Làm việc
không ngừng suốt ngày đêm mà cơ hồ không có kết quả. Không có nhà tôi
không biết tôi đă ra sao. Khi tôi mềm ḷng, chán nản, nhà tôi làm cho
tôi can đảm lại, tin tưởng lại."
Bà Davidson cúi mặt xuống, cặp má hốc hác bỗng ửng lên một chút. Tay bà
run run. Không nói năng ǵ cả.
" Không có ai giúp chúng tôi cả. Cô độc trong cảnh tối tăm, cách cả ngàn
cây số mới có người đồng hương. Mỗi lần thấy tôi tuyệt vọng, th́ nhà tôi
ngưng may vá, mở Thánh Kinh ra đọc cho tới khi nào sự b́nh tĩnh trở lại
tâm hồn của tôi như giấc ngủ trở lại cặp mi em bé th́ mới thôi, lúc đó
gấp kinh lại, nhà tôi bảo: Dù họ không muốn th́ ta cũng cứ cứu họ. Và
mạnh mẽ tin trở lại ở Chúa, tôi đáp: Phải, nhờ Chúa Pḥ hộ, anh phải
cứu họ, anh phải cứu họ. "
Ông ta đi tới đứng trước cái bàn như thể đó là cái bục giảng kinh.
" Bản chất của họ bết quá rồi, đến nỗi không thể nào giảng cho họ thấy
cái xấu của họ được. Những hành động mà họ cho là tự nhiên th́ chúng tôi
phải biến đổi thành tội lỗi; chẳng những sự gian dâm, nói dối, ăn cắp,
mà ngay như sự lơa lồ, thói khiêu vũ, không lại nhà thờ, cũng là tội
lỗi. Tôi đặt ra cái luật rằng đàn bà mà để hở ngực, đàn ông mà không mặc
quần là có tội. "
Bác sĩ Macphail ngạc nhiên hỏi:
" Làm cách nào vậy? "
" Dùng cách phạt tiền. Tất nhiên chỉ mỗi một cách làm cho người ta hiểu
rằng một hành động nào đó là có tội lỗi là phạt nếu họ làm hành động đó.
Vậy tôi phạt tiền nếu họ không tới nhà thờ, nếu họ khiêu vũ hoặc ăn bận
không đứng đắn. Tôi đặt ra một ta - ríp; tội nào cũng phải chuộc bằng
tiền hay bằng công. Rốt cuộc họ hiểu. "
" Có khi nào họ không chịu nộp phạt không? "
" Làm sao có thể như vậy được? "
Bà Davidson mím đôi môi, tiếp lời chồng:
" Dám chống cự ông Davidson th́ phải là gan cóc tía. "
Bác sĩ ngó ông ta, vẻ suy nghĩ. Tuy thấy chướng tai mà c̣n do dự chưa
dám chỉ trích.
" Ông đừng quên là tới nước cùng, tôi có thể đuổi họ ra khỏi giáo đường
nhé! "
" Họ sợ h́nh phạt đó à? "
Ông Davidson xoa tay nhè nhẹ, mỉm cười:
" Họ không thể bán dừa, và đi chài về không được chia phần. Gần chắc
chắn là chết đói. Họ sợ lắm chứ! "
Bà Davidson góp ư:
" Sao ḿnh không kể chuyện Phred Ohlson cho ông bà nghe? "
Nhà truyền giáo nh́n bác sĩ bằng cặp mắt nẩy lửa:
" Phred Ohlson là một con buôn Đan Mạch lập nghiệp ở đảo từ lâu. Nhờ
buôn bán, hắn khá giàu và thấy chúng tôi tới, hắn không vui. Hắn quen
làm mưa làm gió, mua dừa của thổ dân muốn trả sao th́ trả, có khi trả
bằng hàng hoá, có khi trả bằng rượu whisky. Vợ hắn là người bản xứ, mà
hắn công nhiên lừa vợ. Lại thêm cái tật say sưa. Tôi cho hắn cơ hội sửa
tính, nhưng hắn không nghe lại c̣n cười nhạo tôi nữa. "
Khi nói những lời cuối cùng đó, giọng Davidson trầm hẳn xuống, rồi ông
ta ngừng một hai phút. Sự im lặng thật nặng nề có vẻ đe dọa.
" Trong hai năm, hắn hoàn toàn phá sản, công lao cắp nhặt trong một phần
tư thế kỷ tiêu tan hết. Bị áp đảo, sau cùng hắn phải lại tôi, thảm hại
như một tên hành khất, năn nỉ tôi cho hắn giấy tàu về xứ ở Sydney. "
Bà Davidson nói:
" Phải thấy cái bộ mặt của hắn lúc đó! Xưa kia khỏe mạnh đẹp đẽ, bệ vệ,
dơng dạc, bây giờ nhận không ra nữa, tay chân run lẩy bẩy. Hắn đă hoá
thành một ông già mau quá! "
Davidson chăm chú ngó trong bóng tối. Mưa lại đổ. Bỗng có tiếng ở nhà
dưới đưa lên, ông ta quay lại nh́n vợ, như cố ư hỏi: "Cái ǵ vậy?". Một
chiếc máy hát phát ra một điệu ồn ào, như nghẹt mũi, chướng tai.
Ông ta hỏi:
" Cái ǵ vậy? "
Bà vợ sửa lại cặp kính kẹp mũi.
" Có một cô hành khách hạng nh́ mướn pḥng ở dưới nhà. Có lẽ tiếng hát ở
pḥng đó phát ra. "
Họ yên lặng lắng nghe. Rồi tiếng người khiêu vũ. Rồi âm nhạc ngưng bặt,
tiếng nút chai nổ lốp bốp, trong khi tiếng cười nói vang lên.
Bác sĩ Macphail bảo:
" Chắc cô ta đăi tiệc từ biệt bạn bè dưới tàu. Tàu nửa đêm nhổ neo th́
phải? "
Ông Davidson làm thinh. Rồi ngó đồng hồ hỏi vợ:
" Ḿnh sẵn sàng chưa ?"
Bà ta đứng dậy, gấp đồ đan lại, đáp:
" Vâng, xong rồi."
Bác sĩ nói :
"Giờ này mà đi ngủ, e sớm chăng? "
Bà Davidson giải thích :
"Chúng tôi c̣n phải đọc kinh. Bất kỳ ở đâu, chúng tôi cũng phải đọc một
chương Thánh Kinh trước khi đi nằm, đọc hết những lời chú giải nữa ông
ạ, rồi lại b́nh luận với nhau cho thấu nghĩa. Một cách luyện tinh thần
rất hiệu quả. "
Hai cặp vợ chồng đó chia tay nhau. Ở lại trong pḥng, vợ chồng bác sĩ
ngồi im một lát, rồi chồng bảo vợ:
" Anh muốn đi kiếm cỗ bài đánh chơi một ván. "
Bà vợ chăm chú ngó chồng, do dự. Câu chuyện của gia đ́nh nhà truyền giáo
làm cho bà không được yên ḷng; bà không dám thú với chồng rằng bà ngại
họ trở lại lắm, thấy ḿnh đánh bài sẽ coi ḿnh ra sao. Ông chồng trở về
với cỗ bài, bà nh́n ông chơi một ḿnh mà nơm nớp sợ. Ở nhà dưới, cuộc
chè chén say sưa vẫn tiếp tục.
Hôm sau nữa, trời đă sáng sủa, cặp Macphail t́m cách tiêu khiển cho qua
cái nửa tháng ngồi không ở Pago- Pago này. Họ xuống bến, mở rương lấy ít
cuốn sách ra. Ông chồng lại thăm bác sĩ giải phẫu, giám đốc bệnh viện
thủy quân và được dẫn đi coi các pḥng ở bệnh viện. Lại chào ông thống
đốc mà không gặp, để thiếp lại. Giữa đường gặp cô Thompson, Macphail gỡ
nón chào, cô ta vui vẻ, ồn ào đáp lễ "Chào bác sĩ ". Cô ta vẫn bận chiếc
áo dài trắng như hôm trước. Đôi giày cao gót, láng, để hở cặp gị mập
mạp đó, trong cái khung cảnh này mới chướng mắt làm sao!
Bà Macphail nói:
" Em thấy cô ta không biết ăn vận hợp thời. Trông cô ta xoàng xỉnh quá
."
Về đến nhà, thấy cô ta đương chơi dưới mái hiên với một đứa trẻ đen xạm.
Macphail nói nhỏ với vợ:
" Tṛ chuyện với cô ta vài câu; cô ta lẻ loi ở chốn này; mà ḿnh làm ra
vẻ như không thấy, cứ làm lơ th́ không nhă. "
Bà Macphail cũng hay e lệ, nhưng luôn luôn chiều ư chồng, nên cũng hỏi
cô Thompson một câu vớ vẩn:
"H́nh như chúng ta ở trọ một nhà với nhau. "
Cô ta đáp:
" Thật là tệ hại, há! Chui rúc trong cái chuồng ngựa này, vậy mà họ c̣n
bảo tôi may mắn lắm mới kiếm được một căn pḥng đấy. Không lẽ mà ḿnh đi
ở cái cḥi của tụi bản xứ, chứ lại đó như tụi khác c̣n hơn. Tại sao mà
họ không cất khách sạn nhỉ? "
Họ nói với nhau vài câu nữa. Cô Thompson nói bô bô, miệng quay ra chỉ
mong có người để kể lể, nhưng bà Macphail không biết nói ǵ thêm bảo:
" Thôi, tôi phải lên pḥng."
Tối hôm đó, tới bữa cơm, Davidson đưa tin:
" Có hai anh lính thủy ở trong pḥng cô đó. Cô ta làm quen họ cách nào
nhỉ? "
Bà Davidson nói:
" Chắc cô không khó tính lắm. "
Tất cả đều mệt mỏi v́ suốt ngày ở không. Macphail thở dài:
"Phải ở lại đây tới nửa tháng, không biết rồi t́nh trạng chúng ḿnh sẽ
ra sao? "
Nhà truyền giáo đề nghị:
" Phải lập chương tŕnh cho mỗi ngày. Tôi sẽ bỏ ra vài giờ để học, ít
giờ để tập thể dục, bất kỳ mưa nắng - mùa mưa th́ đợi nắng làm sao được
- th́ giờ c̣n lại th́ tiêu khiển. "
Macphail nh́n ông ta, không có vẻ tin lắm. Chương tŕnh đó nặng quá đối
với ông. Trong khi họ ăn món thịt ḅ - nhà bếp chỉ biết nấu có mỗi món
đó - th́ máy hát lại vang lên. Ông Davidson tỏ ra căng thẳng khi nghe
nhưng không nói ǵ. Những giọng nói đàn ông vọng lên.
Khách khứa của cô Thompson cùng lớn tiếng hát một bản đang được thiên hạ
hoan nghênh, nhưng rồi giọng oang oác của cô lấn át hết. Họ la hét, đùa
giỡn. Hai gia đ́nh ráng tiếp tục chuyện tṛ, nhưng rồi cũng phải chú ư
tới tiếng ly cụng nhau, tiếng ghế kéo trên sàn. Chắc có thêm khách mới
tới. Cô Thompson đang tổ chức một dạ hội ở đây.
Hai ông đang bàn căi với nhau về y khoa th́ bà Macphail bỗng chen vô:
" Không biết cô ta có chỗ đâu mà chứa bấy nhiêu người? "
Óc bà ta vơ vẩn đâu đâu. Davidson nhăn mặt lại. Mặc dầu đang nói chuyện
về y khoa mà trí năo ông cũng hướng về phía dưới. Th́nh ĺnh trong khi
bác sĩ tả vài chứng bịnh mà ông có dịp nhận xét trên mặt trận Flandre,
th́ nhà truyền giáo đứng phắt ngay dậy, thốt một tiếng lớn.
Bà Davidson hỏi:
" Cái ǵ đó, ḿnh? "
" Hiển nhiên rồi! Sao mà ḿnh không nghĩ tới chứ?
Cô ta ở Iwelei
ra mà! "
" Vô lư! "
" Nó đáp tàu ở Honolulu. Rơ ràng quá rồi. Và nó kiếm ăn ở đây. Ở đây! "
Ông ta thốt ra lời cuối cùng với vẻ
phẫn nộ.
" Iwelei là ǵ?" bà Macphail hỏi.
Ông hướng đôi mắt u ám về phía bà, giọng run lên v́ kinh hăi.
" Điểm dịch bệnh ở Honolulu. Khu đèn đỏ. Đó là vết nhơ đối với nền văn
minh của chúng ta."
Iwelei ở ŕa thành phố. Bạn đi dọc những con phố ven cảng, trong bóng
tối, băng qua một cây cầu ọp ẹp, cho đến khi bạn đến một con đường vắng,
đầy ổ gà, rồi đột nhiên tới một khu có đèn sáng trưng. Mỗi bên đường đều
có chỗ đậu xe hơi, có những quán rượu hào nhoáng và sáng sủa, mỗi quán
ồn ào với cây đàn piano cơ, có tiệm cắt tóc và tiệm bán thuốc lá. Có một
sự khuấy động trong không khí và một cảm giác vui tươi chờ đợi.
Bạn rẽ vào một con hẻm hẹp, bên phải hoặc bên trái, v́ con đường chia
Iwelei thành hai phần. Có những dăy nhà gỗ nhỏ được cắt tỉa gọn gàng và
sơn màu xanh lá cây, lối đi giữa chúng rộng răi và thẳng tắp. Nó được bố
trí giống như một thành phố vườn. Với sự đều đặn đáng nể, trật tự và
trang trọng, nó tạo ấn tượng về sự kinh dị đầy mỉa mai; bởi v́ chưa bao
giờ việc t́m kiếm t́nh yêu lại có thể được hệ thống hóa và có trật tự
như vậy. Các lối đi được chiếu sáng bằng một ngọn đèn hiếm, nhưng chúng
hẳn sẽ rất tối nếu không có ánh sáng phát ra từ cửa sổ mở của các ngôi
nhà một tầng. Đàn ông đi lang thang, nh́n những người phụ nữ ngồi bên
cửa sổ, đọc sách hoặc may vá, phần lớn không để ư đến những người qua
đường; và giống như những người phụ nữ, họ thuộc mọi quốc tịch. Có người
Mỹ, thủy thủ trên những con tàu ở cảng, những người nhập ngũ trên pháo
hạm, say khướt, và những người lính thuộc các trung đoàn, da trắng và da
đen, đóng quân trên đảo; có người Nhật đi theo đôi, ba người; Người
Hawaii, người Trung Quốc mặc áo choàng dài và người Philippines đội mũ
lố bịch. Họ im lặng và như bị áp bức. T́nh dục sao mà tẻ.
Davidson kịch liệt quát tháo: “ Đó là ổ truỵ lạc gây phẫn nộ nhất ở Thái
B́nh Dương. Các nhà truyền giáo đă vận động chống lại nó trong nhiều năm
và cuối cùng báo chí địa phương đă đưa tin về nó. Cảnh sát không chịu
diệt. Họ viện lẽ rằng thói xấu là không thể tránh khỏi và do đó điều tốt
nhất là khoanh vùng và kiểm soát nó. Sự thật là họ đă được trả tiền. Họ
được trả tiền bởi những người chủ quán rượu, bởi tụi ma cô, bởi chính
những người phụ nữ. Cuối cùng họ buộc phải dọn đi."
Bác sĩ Macphail nói: “Tôi đă đọc về nó trên các tờ báo ở Honolulu."
"Iwelei, với tội lỗi và sự xấu hổ của nó, đă không c̣n tồn tại vào đúng
ngày chúng tôi đến. Toàn bộ dân chúng bị đưa ra toà. Tôi không biết tại
sao tôi lại không hiểu ngay rằng cô ta là ai."
Bà Macphail nói: "Bây giờ ông bắt đầu nói về chuyện đó tôi mới nhớ đă
nh́n thấy cô ấy lên tàu chỉ vài phút trước khi con thuyền khởi hành. Tôi
nhớ lúc đó tôi đă nghĩ rằng cô ấy không lương thiện."
"Sao cô ta dám tới đây!" Davidson phẫn nộ kêu lên. "Tôi sẽ không cho
phép điều đó."
Ông sải bước về phía cửa.
" Ông định làm ǵ?" Macphail hỏi.
“ Ông nghĩ tôi sẽ làm cái ǵ? Tôi sẽ ngăn việc đó lại. Tôi sẽ không để chúng
biến ngôi nhà này thành—thành…”
Ông t́m kiếm một từ ngữ để mấy bà khỏi mắc cỡ. Đôi mắt ông lấp lánh và
khuôn mặt nhợt nhạt vẫn c̣n tái nhợt trong cảm xúc.
“Có vẻ như có ba hoặc bốn người đàn ông ở dưới đó”,
Bác sĩ nói, “Ông
không nghĩ việc đi vào lúc này là hơi vội vàng sao?”
Nhà truyền giáo nh́n bác sĩ một cách khinh thường và, không nói một lời,
lao ra khỏi pḥng.
Vợ ông nói: “ Ông biết rất ít về ông Davidson nếu ông cho rằng nỗi sợ
nguy hiểm cá nhân có thể ngăn cản ông ấy thực hiện nghĩa vụ của ḿnh”.
Bà ngồi chắp tay lo lắng, một vệt ửng hồng trên g̣ má cao, lắng nghe
chuyện ǵ sắp xảy ra bên dưới. Tất cả họ đều lắng nghe. Họ nghe thấy
tiếng chân ông bước xuống cầu thang gỗ và mở cửa. Tiếng hát đột ngột
dừng lại, nhưng chiếc máy hát vẫn tiếp tục phát ra giai điệu thô tục của
nó. Họ nghe thấy giọng nói của Davidson và sau đó là tiếng của một vật
nặng rơi xuống. Rồi họ lại nghe thấy giọng của Davidson, họ không thể
nghe rơ lời, rồi đến giọng của cô Thompson, to và chói tai, rồi
tiếng ồn ào nhốn nháo như thể nhiều người đang cùng nhau hét to hết sức.
Bà Davidson thở hổn hển một chút và nắm chặt tay hơn. Bác sĩ Macphail
ngập ngừng nh́n bà rồi nh́n vợ. Ông không muốn đi xuống, nhưng ông tự
hỏi liệu họ có mong đợi ông làm vậy không. Sau đó có điều ǵ đó giống
như một vụ ẩu đả. Tiếng ồn lúc này đă rơ ràng hơn. Có thể Davidson đă bị
ném ra khỏi pḥng. Cánh cửa bị đóng sầm lại. Im lặng một lúc và họ lại
nghe thấy tiếng Davidson đi lên cầu thang. Ông ta đi thẳng về pḥng của
ḿnh.
“Tôi nghĩ tôi phải đi gặp ông ấy,” bà Davidson nói.
Bà đứng dậy và đi ra.
“Nếu bà muốn tôi th́ cứ gọi,” bà Macphail nói, rồi khi người kia đi
khỏi: “ Em hy vọng ông ấy không bị thương.”
“Tại sao ông ấy lại xen vào làm ǵ ?” Bác sĩ Macphail nói.
Họ ngồi im lặng trong một hoặc hai phút, chiếc máy hát lại bắt đầu phát
một cách thách thức và những giọng nói chế giễu hét lên khàn khàn những
lời của một bài hát tục tĩu.
Ngày hôm sau bà Davidson xanh xao và mệt mỏi. Bà ấy kêu đau đầu, trông
già nua và nhăn nheo. Bà nói với bà Macphail rằng nhà truyền giáo chưa
hề ngủ chút nào; đă qua đêm trong trạng thái kích động khủng khiếp và
lúc năm giờ đă đứng dậy và đi ra ngoài. Một ly bia đă được ném vào người
ông và quần áo bị ố và bốc mùi. Nhưng một ngọn lửa u ám bừng lên trong
mắt bà Davidson khi bà nói về cô Thompson.
“Cô ấy sẽ cay đắng hối tiếc cái ngày cô ấy coi thường ông Davidson,” bà
nói. "Ông Davidson có một trái tim tuyệt vời và không ai gặp khó khăn
đến với ông mà không được an ủi, nhưng ông không thương xót tội lỗi, và
khi cơn thịnh nộ chính đáng của ông nổi lên th́ ông thật khủng khiếp."
"Tại sao, ông ấy sẽ làm ǵ?" bà Macphail hỏi.
"Tôi không biết, nhưng tôi sẽ không đứng vào vị trí của con đó."
Bà Macphail rùng ḿnh. Có điều ǵ đó thực sự đáng báo động trong thái độ
quả quyết đắc thắng của người phụ nữ nhỏ bé. Sáng hôm đó họ cùng nhau đi
chơi và họ cùng nhau đi xuống cầu thang. Cửa pḥng cô Thompson mở và họ
nh́n thấy cô mặc chiếc áo choàng nhăn nhàu đang nấu món ǵ đó trên ḷ.
“ Xin chào,” cô gọi. “Sáng nay ông Davidson có khỏe hơn không?”
Họ đi ngang qua cô trong im lặng, mũi hếch làm như không có cô. Tuy
nhiên, họ đỏ mặt khi cô bật cười chế nhạo. Bà Davidson đột ngột quay
sang cô:
“ Sao dám ăn nói với tôi như vậy,” bà hét lên. “Nếu chị xúc phạm tôi,
tôi sẽ đuổi ra khỏi đây.”
"Này, tôi đâu có mời ông Davidson tới gặp tôi?"
“ Đừng trả lời cô ấy,” bà Macphail vội th́ thầm.
Họ đi tiếp cho đến khi ra khỏi tầm nghe.
“ Con đó thật trơ trẽn. “ bà Davidson thốt lên.
Cơn giận gần như khiến bà nghẹt thở.
Và trên đường về nhà họ gặp cô ta đang đi dạo về phía bến cảng. Cô đă
mặc đồ rất bảnh bao. Chiếc mũ trắng to lớn với những bông hoa ḷe loẹt
thô tục của cô là một sự sỉ nhục. Cô vui vẻ gọi họ khi đi ngang qua, và
một vài thủy thủ Mỹ đang đứng đó cười toe toét khi các bà nh́n họ với
ánh mắt lạnh lùng. Họ bước vào nhà ngay trước khi mưa bắt đầu rơi trở
lại.
“ Tôi đoán là con đó sẽ làm hỏng bộ đồ đẹp của ḿnh, “ bà Davidson nói
với nụ cười khinh bỉ.
Ông Davidson không về cho đến khi họ đă ăn gần nửa bữa. Người ông ướt
nhèm, nhưng ông không thay đồ. Ông ngồi xuống, rầu rĩ, im lặng, không ăn
thêm một miếng nào, ngồi nh́n mưa rơi. Khi bà Davidson nhắc ông về hai
lần gặp cô Thompson, ông không trả lời. Vẻ nghiêm trang của ông chứng tỏ
ông đă nghe.
“ Ông có nghĩ là chúng ta nên bảo ông Horn đưa cô ta đi khỏi đây không?"
bà Davidson hỏi. “ Chúng ta không cho phép cô ta làm nhục được. “
“ Nhưng không có chỗ nào để cô ta đi “ ông Macphail nói.
“ Cô ta có thể sống với tụi thổ dân ấy. “
“ Khí hậu như thế này th́ một cái lều có thể là nơi không thuận tiện để
sống đâu.”
“ Tôi đă sống như thế nhiều năm, “ nhà truyền giáo nói.
Khi cô gái người bản xứ mang đến chuối khô mà mỗi ngày họ đều dùng, ông
Davidson quay sang phía cô.
“ Cô hỏi cô Thompson là khi nào chúng tôi gặp cô được. “ ông nói.
Cô gái e thẹn gật đầu rồi lui ra.
“ Sao anh phải gặp cô ta, Alfred? “ vợ ông hỏi.
“ Nhiệm vụ của anh là vậy, anh không thể làm ǵ cho đến khi cho cô ta
một cơ hội.”
“ Anh không biết nó là ai. Nó sẽ làm nhục anh đó.”
“ Cứ để nó làm nhục. Cứ để nó phỉ nhổ anh. Tâm hồn nó là vô đạo đức, và
anh phải làm mọi cách để cứu vớt nó.”
Tai bà Davidson vẫn c̣n nghe lùng bùng tiếng cười chế nhạo.
“ Nó sa đoạ quá rồi.”
“ Sa đoạ v́ ḷng tốt của Chúa?”
Mắt ông bỗng sáng lên và giọng nói ngọt ngào êm dịu. “ Không bao giờ.
Người có tội có thể lún sâu vào tội lỗi hơn độ sâu của địa ngục nữa,
nhưng t́nh thương của Chúa sẽ đến với hắn ta. “
Cô gái trở lại với câu trả lời:
“ Cô Thompson rất hoan nghênh và chừng nào ông Davidson không tới vào
giờ cô làm việc th́ cô rất vui được gặp bất kỳ lúc nào “
Mọi người đón nhận tin trong im lặng, và bác sĩ Macphail nhanh chóng tắt
đi nụ cười vừa nở trên môi. Ông biết vợ sẽ khó chịu với ông nếu ông
thấy sự xúc phạm của cô Thompson thật buồn cười.
Họ kết thúc bữa ăn trong im lặng. Khi xong việc, hai người phụ nữ đứng
dậy và bắt tay vào công việc, bà Macphail đang làm một chiếc chăn trong
vô số những chiếc chăn bông mà bà đă làm ra từ đầu cuộc chiến, và bác sĩ
th́ tự châm cho ḿnh một tẩu thuốc. Nhưng Davidson vẫn ngồi yên
trên ghế và nh́n chằm chằm vào bàn với đôi mắt lơ đễnh. Cuối cùng ông ta
đứng dậy và không nói một lời, đi ra khỏi pḥng. Họ nghe thấy ông đi
xuống và nghe thấy lời thách thức “ Mời vào “ của cô Thompson khi ông gơ
cửa. Ông ở lại với cô trong một giờ. Và bác sĩ Macphail ngắm mưa. Nó bắt
đầu khiến ông lo lắng. Nó không giống như cơn mưa ở nước Anh ta, rơi nhẹ nhàng trên trái đất, nó thật tàn nhẫn và có phần khủng khiếp,
bạn cảm thấy trong đó sự ác độc của sức mạnh nguyên thủy của thiên nhiên.
Nó không đổ, nó chảy. Nó giống như một cơn lũ từ trên trời rơi xuống, ầm
ầm trên mái tôn một cách dai dẳng đến phát điên. Dường như nó có một cơn
thịnh nộ riêng.
Và đôi khi bạn cảm thấy ḿnh phải hét lên nếu nó không ngưng, rồi đột
nhiên bạn cảm thấy bất lực, như thể xương cốt bỗng trở nên mềm nhũn, c̣n
bạn th́ đau khổ và tuyệt vọng.
Macphail quay đầu lại khi nhà truyền giáo trở vào. Hai người phụ nữ nh́n
lên.
“ Tôi đă cho cô ta mọi cơ hội. Tôi đă khuyên nhủ cô hăy ăn năn. Cô
ta là
một người phụ nữ độc ác.”
Ông ngừng lại, và bác sĩ Macphail thấy mắt ông tối sầm, khuôn mặt
nhợt nhạt trở nên cứng rắn và nghiêm nghị.
“ Giờ đây tôi sẽ sử dụng đến những ngọn roi mà Chúa đă dùng để đuổi
những kẻ cho vay nặng lăi và những kẻ đổi tiền ra khỏi Đền Thờ Đấng Tối
Cao.”
Ông đi đi lại lại trong pḥng. Miệng mím chặt và đôi lông mày đen cau
lại.
“ Nếu cô ta chạy trốn đến tận cùng trái đất, tôi cũng sẽ đuổi theo.”
Với một cử động đột ngột, ông quay người lại và sải bước ra khỏi pḥng.
Họ nghe thấy ông lại đi xuống cầu thang.
“ Ông ấy định làm ǵ? “ bà Macphail hỏi.
“ Tôi không biết.” Bà Davidson tháo chiếc kính kẹp mũi ra để lau. “ Khi
ông ấy làm công việc của Chúa, tôi không bao giờ đặt câu hỏi cho
ông
ấy.”
Bà thở dài.
“ Có chuyện ǵ thế? “
“ Ông ấy sẽ kiệt sức. Ông không biết phải tự tha cho ḿnh là ǵ.”
Bác sĩ Macphail đă biết được những kết quả đầu tiên trong việc làm của
nhà truyền giáo từ anh nhà buôn cho thuê pḥng. Anh ta chặn bác sĩ
lại khi ông đi ngang qua cửa
hàng và Horn đă bước ra nói chuyện với ông trên bậc thềm. Khuôn mặt mập mạp
của anh ta tỏ ra lo lắng.
“ Cha Davidson đă trách tôi v́ đă cho cô Thompson thuê một pḥng ở đây,”
anh ta nói, “ nhưng tôi không biết cô ấy là ai khi tôi cho cô thuê. Khi có
người đến hỏi tôi có thể cho họ thuê một pḥng không, tất cả những
ǵ tôi muốn biết là liệu họ có đủ tiền để trả tiền thuê pḥng đó không
và cô ấy đă trả trước cho tôi một tuần.”
Bác sĩ Macphail không muốn liên lụy vào việc đó.
“ Nói chung th́ anh là chủ nhà. Chúng tôi rất biết ơn
anh v́ đă cho
chúng tôi ở trọ."
Horn nh́n bác sĩ Macphail một cách nghi ngờ. Anh ta không biết chắc bác
sĩ có đứng về phe nhà truyền giáo hay không.
“ Những người truyền giáo đều đồng một ḷng. Nếu họ tấn công một
thương nhân, th́ chỉ c̣n cách đóng cửa hàng của ḿnh và bỏ xứ
mà đi thôi.”
“ Ông ấy có muốn anh đuổi cô ta đi không ?”
Horn ngập ngừng nói :
“ Không, ông ấy nói miễn là cô ấy cư xử đúng mực th́ ông không thể yêu
cầu tôi làm điều đó. Ông nói chỉ muốn xử tốt cho tôi. Tôi
đă hứa là cô ấy sẽ không tiếp khách nữa. Tôi vừa mới đến nói với cô. “
“ Cô ấy tính sao? “
“ Cô đă chửi vào mặt tôi.”
Người lái buôn lúng túng vụng về trong chiếc quần vải cũ. Anh ta nhận
thấy cô Thompson là một khách hàng khó tính.
“ Ồ, tôi dám chắc cô ấy sẽ ra ngoài. Tôi không nghĩ rằng cô muốn ở lại
đây nếu không được tiếp khách. "
“ Cô ấy không thể đi đâu cả, chỉ có một ngôi nhà của thổ dân ở đây thôi, và sẽ
không có thổ dân nào dám chứa cô ấy, nhất là bây giờ khi
những người truyền giáo đă chĩa dao vào người cô. “
Bác sĩ Macphail nh́n cơn mưa đang rơi.
“ Chà, chờ đợi mưa tạnh sẽ chẳng ích ǵ.”
Vào buổi tối, khi họ ngồi trong pḥng khách, Davidson kể cho họ nghe về
những ngày đầu học đại học. Ông ấy không có phương tiện ǵ và phải cố
gắng vượt qua bằng cách làm những công việc lặt vặt trong kỳ nghỉ. Ở
tầng dưới im lặng. Cô Thompson đang ngồi một ḿnh trong căn pḥng nhỏ.
Nhưng đột nhiên máy hát bắt đầu phát. Cô đă thách thức bật nó lên để
đánh lừa sự cô đơn của ḿnh, nhưng không có ai hát, và nó có một nốt
nhạc u sầu. Nó giống như một tiếng kêu cứu. Davidson không để ư ǵ cả.
Ông đang ở giữa một giai thoại dài và không thay đổi cách diễn đạt tiếp
tục. Cô Thompson mở hết băng nhạc này đến
băng khác. Có vẻ như sự im lặng của
màn đêm đang làm cô khó chịu. Thật khó thở và oi bức. Khi gia đ́nh
Macphail đi ngủ, họ không thể ngủ được. Họ nằm cạnh nhau, mắt mở to,
lắng nghe tiếng muỗi kêu dữ tợn ngoài mùng.
“ Cái ǵ vậy? “ cuối cùng bà Macphail th́ thầm.
Họ nghe thấy một giọng nói, giọng của Davidson, xuyên qua vách gỗ
ngăn giữa hai pḥng. Nó tiếp tục với một sự nhấn mạnh đơn điệu và tha thiết. Ông ta đang
cầu nguyện lớn tiếng, cầu nguyện cho linh hồn cô Thompson.
Hai ba ngày trôi qua. Bây giờ khi họ đi ngang qua cô Thompson trên
đường, cô không chào họ bằng sự thân mật hay nụ cười mỉa mai, mà hếch
mũi lên trời, khuôn mặt được tô vẽ có vẻ hờn dỗi, cau mày như thể không
nh́n thấy họ.
Chủ nhà nói với Macphail rằng cô ta đă cố gắng t́m chỗ ở nơi khác nhưng
không thành công. Vào buổi tối, cô ấy chơi qua nhiều cuộn băng khác nhau
của máy hát, nhưng bây giờ sự giả vờ vui vẻ đă lộ rơ. Tiếng
ragtime (
nhạc của người Mỹ da đen ) có nhịp điệu đứt quăng, đau ḷng như thể đó
là một bước tuyệt vọng. Khi cô bắt đầu
mở nhạc vào chủ nhật, Davidson sai
Horn đến xin cô dừng lại ngay v́ đó là ngày của Chúa. Cuộn băng được
tháo ra và ngôi nhà im lặng ngoại trừ tiếng mưa rơi lộp bộp đều đặn trên
mái tôn.
“ Tôi nghĩ cô ta đang hơi căng thẳng, “ chủ nhà nói với Macphail vào
ngày hôm sau. “ Cô ấy không biết ông Davidson đang làm ǵ và điều đó
khiến cô sợ hăi.”
Macphail đă thoáng nh́n thấy cô vào sáng hôm đó và ông chợt nhận ra vẻ
kiêu ngạo của cô đă thay đổi. Trên khuôn mặt cô hiện lên vẻ bị săn lùng.
Horn liếc nh́n ông ta.
“ Tôi nghĩ là ông không biết ông Davidson đang làm ǵ về
việc này đúng không?" Horn hỏi ḍ.
“ Không, tôi không biết chút ǵ hết. ”
Thật kỳ lạ khi Horn hỏi ông câu đó, v́ ông cũng có ư tưởng rằng
Davidson đang toan tính ǵ đó một cách bí ẩn. Ông có ấn tượng
rằng ông ta đang dệt một tấm lưới xung quanh người phụ nữ, một
cách cẩn thận, có hệ thống và đột nhiên, khi mọi thứ đă sẵn sàng, ông ta
sẽ căng dây thật chặt.
Horn tiếp tục:
“ Ông ấy bảo tôi nói với cô ta rằng nếu bất cứ lúc nào cô cần ông ấy th́
cứ cho hay, ông ấy sẽ đến. “
“ Cô ấy đă nói ǵ khi anh nói điều đó? “
“ Cô không nói ǵ. Tôi không nấn ná, nhắn xong tôi ra liền. Tôi nghĩ
cô ta có vẻ như muốn khóc.”
“ Tôi chắc chắn rằng sự cô đơn làm cô lo lắng, “ bác sĩ nói. “ Và cơn
mưa - thế là đủ để khiến bất cứ ai cũng
hốt hoảng, “ ông cáu kỉnh
tiếp tục. “ Mưa không bao giờ dừng lại ở cái địa ngục này sao? “
" Mùa này th́ ngày nào cũng mưa. Mưa đến ba trăm inch trong năm. Ông
thấy đấy, đó là h́nh dạng của vịnh. Nó dường như thu hút mưa từ khắp
Thái B́nh Dương.”
“ Cái vịnh chết tiệt, “ bác sĩ nói.
Ông găi vết muỗi đốt. Ông cảm thấy rất nóng nảy. Khi mưa tạnh và nắng
chiếu vào, nó giống như một nhà kính, sôi sục, ẩm ướt, oi bức, khó thở,
và bạn có một cảm giác kỳ lạ là mọi thứ đang phát triển với một bạo
lực dă man. Khi đó, những người bản xứ, có tiếng là vui vẻ và trẻ con,
dường như với h́nh xăm và mái tóc nhuộm, có vẻ ngoài có ǵ đó nham hiểm,
và khi họ lê bước theo gót chân bạn bằng đôi chân trần, theo bản năng,
bạn sẽ nh́n lại. Bạn cảm thấy bất cứ lúc nào họ cũng có thể nhanh chóng
đến phía sau bạn và đâm một con dao dài vào giữa hai bả vai bạn. Bạn
không thể biết được những suy nghĩ đen tối nào ẩn nấp sau đôi mắt mở to
của họ. Chúng có chút ǵ đó giống những bức vẽ của người Ai Cập cổ đại
trên tường của một ngôi đền, và ở chúng có sự kinh hoàng về những ǵ đă
cổ kính vô cùng.
Nhà truyền giáo đến rồi đi. Ông ta ấy bận rộn, nhưng ông bà Macphail
không biết ông ta bận làm việc ǵ. Horn nói với bác sĩ rằng ông Davidson
đi gặp ông thống đốc hàng ngày. Và có lần chính Davidson nhắc đến ông
ta:
“Trông ông thống đốc có vẻ có rất nhiều quyết tâm, mà xét cho kỹ th́ mới
thấy ông ấy nhu nhược.”
"Tôi cho rằng điều đó có nghĩa là ông ấy sẽ không làm chính xác
những ǵ ông muốn," bác sĩ gợi ư một cách hài hước.
Nhà truyền giáo không cười.
"Tôi muốn ông ấy làm điều đúng đắn. Không cần thiết phải lư luận về bổn
phận nữa. Chỉ cho người ta thấy cũng đủ rồi. "
"Nhưng có thể có sự khác biệt về quan điểm về điều ǵ là đúng."
"Nếu một người đàn ông có bàn chân bị hoại tử, liệu bạn có kiên nhẫn với
bất kỳ ai ngần ngại cắt cụt nó không?"
"Hoại thư là một vấn đề thực tế."
“ C̣n cái ác? ”
Những ǵ Davidson làm đă sớm xuất hiện. Bốn người họ vừa mới ăn trưa
xong và vẫn chưa tách nhau ra để ngủ trưa v́ cái nóng thiêu đốt các bà
và bác sĩ. Davidson không mấy kiên nhẫn với thói quen lười biếng. Cánh
cửa đột ngột mở ra và cô Thompson bước vào. Cô nh́n quanh pḥng rồi đi
lên chỗ Davidson:
" Đồ chồn hôi hèn hạ, ông đă nói ǵ về tôi với thống đốc vậy?”
Cô ấy đang nói lắp bắp v́ giận dữ. Có một khoảnh khắc tạm dừng. Sau đó
nhà truyền giáo kéo một chiếc ghế ra.
“ Cô không ngồi sao, cô Thompson? Tôi đang mong nói chuyện với cô lần
nữa.”
“ Đồ khốn nạn hạ lưu.”
Cô tuôn ra một tràng lời lăng mạ hôi hám và xấc xược. Davidson vẫn nh́n
cô với ánh mắt nghiêm túc.
" Lời chửi của cô không làm động ḷng tôi đâu, cô Thompson, nhưng cô
phải nhớ c̣n có hai bà nữa."
Nước mắt lúc này đang vật lộn với cơn giận của cô. Mặt cô đỏ bừng và
sưng tấy như đang bị nghẹn.
"Chuyện ǵ đă xảy ra vậy?" Bác sĩ Macphail hỏi.
“Có một người vừa tới đây và anh ta nói tôi phải dông khỏi đây ở chuyến
tàu sau. ”
Mắt Davidson sáng lên nhưng vẻ mặt vẫn thản nhiên.
“Cô khó có thể mong đợi Thống đốc sẽ cho phép cô ở lại đây trong hoàn
cảnh này.”
“ Là tại ông,” cô hét lên. " Ông không thể chối. Tại ông hết."
"Tôi chối làm cái ǵ. Tôi đă kêu gọi thống đốc thực hiện bước đi duy
nhất có thể phù hợp với nghĩa vụ của ḿnh."
"Tại sao ông không thể để tôi yên? Tôi không làm
ǵ hại ông mà."
“ Cô có thể chắc chắn rằng nếu có th́ tôi sẽ là người cuối cùng bực bội
về điều đó. “
"Ông có nghĩ là tôi muốn tiếp tục ở cái nơi khốn nạn, chợ không ra chợ,
quê không ra quê này ư ? Trông tôi không phải kẻ rừng rú, phải không?"
"Trong trường hợp đó, tôi không hiểu cô có lư do ǵ để phàn nàn."
Cô hét lên một tiếng giận dữ không rơ ràng và lao ra khỏi pḥng.
Có một khoảng im lặng ngắn.
“Thật nhẹ nhơm khi biết rằng rốt cuộc ông Thống đốc đă hành động,” Davidson
cuối cùng nói. "Ông ta là một người đàn ông yếu đuối và hèn nhát. Ông
nói dù sao th́ cô ấy cũng chỉ ở đây hai tuần thôi, và nếu cô ấy
tiếp tục đến Apia th́ nơi đó thuộc quyền quản lư của Anh và không liên
quan ǵ đến ông ta cả."
Nhà truyền giáo đứng dậy và sải bước qua
lại trong pḥng.
"Thật khủng khiếp khi những người đàn ông có quyền lực t́m cách trốn
tránh trách nhiệm của ḿnh. Họ nói như thể cái ác đă khuất mắt không c̣n
là cái ác. Sự tồn tại của người phụ nữ đó đă là một vụ bê bối và việc
thay đổi nó cũng chẳng ích ǵ đến một ḥn đảo khác, cuối cùng tôi phải
dùng một cách quyết liệt."
Lông mày của Davidson hạ xuống và chiếc cằm rắn chắc của ông nhô ra. Ông
ấy trông có vẻ quyết liệt và cương quyết.
" Ông nói vậy nghĩa là sao ?"
“ Hội truyền giáo của chúng tôi không phải là không có uy quyền trong
giới Washington. Tôi cho ông thống đốc hiểu rằng nếu có lời kêu nài về
sự cai trị của ông th́ không có lợi ǵ cho ông hết.
"
Yên lặng một lúc, bác sĩ hỏi:
“ Bao giờ cô ta phải đi?”
“ Thứ ba tuần tới có một chuyến tàu ở Sydney ghé qua đây rồi đi San
Francisco. Cô ta phải đi chuyến đó. “
Tính ra c̣n năm ngày nữa. Hôm sau, Macphail ở nhà thương về không biết
làm ǵ - sáng nào ông cũng đến đó - tới cầu thang th́ chủ nhà gọi giật
ông lại.
“ Xin lỗi bác sĩ, cô Thompson đau. Mời ông vô coi mạch giùm cho cô ấy."
“ Được. “
Horn dắt ông vô pḥng cô Thompson. Bận chiếc áo dài trắng, đội chiếc mũ
lớn có hoa, cô ngồi trong một chiếc ghế, uể oải, mắt đăm đăm. Macphail
nhận thấy làn da vàng úa, bèo nhèo sau lớp phấn, vẻ mặt kém tinh thần,
chán nản.
“ Tôi hay tin cô không khoẻ.”
“ Thực ra tôi không đau ǵ cả. Tôi nói vậy để gặp ông. Người ta bắt tôi
phải cuốn gói xuống chiếc tàu Frisco tuần tới."
Cô nh́n bác sĩ, mắt có vẻ sợ sệt. Bàn tay cô mở ra nắm lại như bị bệnh
thần kinh.
Chủ tiệm đứng ở cửa nghe.
Bác sĩ nói:
"
Tôi có nghe tin đó. "
Cô ta nuốt nước bọt.
" Lúc này mà phải về Frisco th́ không tiện cho tôi. Chiều hôm qua tôi
lại thăm ông Thống đốc nhưng người ta không cho tôi vô. Thư kư bảo tôi
phải theo lệnh là xuống tàu. V́ tôi cần gặp mặt ông
Thống đốc nên tôi
đứng đợi trước tư dinh của ông, rồi khi ông ở trong bước ra, tôi níu ông
lại. Thấy rơ rằng ông không muốn nói chuyện với tôi, nhưng tôi nhất định
không buông ông ra và cuối cùng ông bảo nếu cha Davidson bằng ḷng th́
ông không ngăn cản làm ǵ, sẽ để cho tôi ở lại đây, đợi chuyến tàu đi
Sydney. "
Cô ngừng rồi lo lắng nh́n bác sĩ.
Bác sĩ nói:
"
Tôi không biết có thể giúp cô việc ǵ."
" Đây! Tôi nghĩ rằng có lẽ ông sẵn ḷng nói giúp tôi với ông ấy. Nếu ông
ấy để cho tôi ở lại đây, tôi thề rằng tôi sẽ không làm ǵ bậy bạ. Tôi sẽ
không ra khỏi nhà này nếu ông ấy muốn. Chỉ nửa tháng thôi mà. "
"
Để tôi hỏi ông ấy xem. "
Horn nói:
"
Ông ấy sẽ từ chối. Ông ấy muốn cô cuốn gói vào thứ ba tuần tới. Cô nên
chịu vậy đi. "
"
Ông nói giùm với ông ấy rằng ở Sydney, tôi kiếm việc làm được, công việc
lương thiện. Tôi xin như vậy đâu phải là quá.
"
"
Tôi sẽ cố gắng. "
"
Ông trả lời ngay cho tôi nhé! Tôi phải quyết định không được cách này
th́ xoay cách khác."
Macphail không ưa cái lối vận động đó, và có lẽ do bản tính, ông dùng
một cách gián tiếp. Ông kể lại câu chuyện cho vợ, bảo bà nói với bà
Davidson. Thái độ của ông Davidson có vẻ độc tài quá, cho cô ả ở lại
Pago Pago nửa tháng th́ có hại ǵ đâu. Macphail không ngờ kết quả trái
hắn ư ḿnh. Nhà truyền giáo gặp ông, nói thẳng ngay:
"
Nhà tôi bảo rằng con Thompson đó đă kể lể ǵ với ông.
"
Bị tấn công trực tiếp như vậy, bác sĩ phản kháng lại theo lối của những
người nhút nhát bị kẻ khác dồn vào chân tường. Ông ta nổi giận, mặt đỏ
gay.
"
Cô ta đă hứa sẽ không làm ǵ bậy trong khi ở đây, th́ đi Sydney hay đi
San Francisco cũng vậy chứ khác ǵ? Sao mà ngược đăi người ta tàn nhẫn
vậy? "
Davidson nh́n bác sĩ trừng trừng.
"
Tại sao nó không muốn trở về San Francisco? "
"
Tôi không hỏi nên không biết. Theo tôi, đèn nhà ai nấy sáng.
"
Lời đáp đó có vẻ thiếu lịch sự.
“ Ông thống đốc đă ra lệnh trục xuất cô
ta bằng chiếc thuyền đầu tiên rời
đảo. Ông ấy chỉ làm nhiệm vụ của ḿnh và tôi sẽ không can
thiệp. Sự hiện diện của cô ta là một mối nguy hiểm ở đây."
“ Tôi nghĩ ông rất khắc nghiệt và chuyên chế."
Hai người phụ nữ ngước lên nh́n bác sĩ với vẻ lo lắng, nhưng họ không
cần phải sợ căi nhau, v́ nhà truyền giáo mỉm cười dịu dàng.
"Tôi vô cùng tiếc v́ ông đă nghĩ như vậy về tôi, bác sĩ Macphail. Hăy
tin tôi đi, trái tim tôi đang rỉ máu v́ người phụ nữ bất hạnh đó, nhưng
tôi chỉ cố gắng làm tṛn bổn phận của ḿnh thôi."
Bác sĩ không trả lời. Ông ủ rũ nh́n ra ngoài cửa sổ. Lần đầu tiên trời
không mưa và bên kia vịnh ông nh́n thấy những túp lều của một ngôi làng
bản địa nép ḿnh giữa hàng cây.
“ Tôi nghĩ ḿnh sẽ tranh thủ lúc trời tạnh mưa để đi chơi”, ông nói.
“ Xin đừng ác ư với tôi v́ tôi không thể đáp ứng mong muốn của ông,"
Davidson nói với nụ cười u sầu. "Tôi rất kính trọng ông, thưa bác sĩ, và
tôi sẽ xin lỗi nếu ông nghĩ xấu về tôi."
“Tôi tin chắc rằng ông có quan điểm đủ tốt về bản thân để có thể b́nh
tĩnh chấp nhận ư kiến của tôi,” ông vặn lại.
"Đó là chuyện của tôi," Davidson cười khúc khích.
Khi bác sĩ Macphail bực tức với chính ḿnh v́ đă cư xử thiếu văn minh vô
ích, đi xuống cầu thang, cô Thompson đang đợi ông với cánh cửa hé mở.
“Sao,” cô nói, “ông đă nói chuyện với ông ấy chưa?”
"Vâng, tôi xin lỗi, ông ấy sẽ không làm ǵ cả," ông trả lời, không nh́n
cô v́ xấu hổ.
Nhưng rồi ông liếc nhanh về phía cô, khiến cô bật ra tiếng nức nở. Ông
thấy mặt cô trắng bệch v́ sợ hăi. Nó làm ông choáng váng đến mất tinh
thần. Và đột nhiên ông nảy ra một ư tưởng.
" Nhưng đừng từ bỏ hy vọng. Tôi nghĩ cách họ đối xử với cô thật đáng xấu
hổ và tôi sẽ đích thân gặp thống đốc."
" Bây giờ ?"
Ông gật đầu. Khuôn mặt cô rạng rỡ.
"Nói đi, ông thật tốt bụng. Tôi chắc chắn ông ấy sẽ để tôi ở lại nếu ông
lên tiếng thay tôi. Tôi sẽ không làm điều ǵ mà tôi không nên làm trong
suốt thời gian tôi ở đây."
Bác sĩ Macphail hầu như không biết tại sao ông lại quyết định khiếu nại
lên thống đốc. Ông hoàn toàn thờ ơ với chuyện của cô Thompson, nhưng nhà
truyền giáo đă chọc tức ông, và tính khí nóng nảy của ông là một thứ âm
ỉ. Ông t́m thấy thống đốc ở nhà. Ông ấy là một người đàn ông to lớn, đẹp
trai, một thủy thủ, với bộ ria mép h́nh bàn chải đánh răng màu xám; và
ông mặc một bộ quân phục màu trắng rất đàng hoàng.
“Tôi đến gặp ông v́ có một người phụ nữ ở cùng nhà với chúng tôi,” ông
nói. “Tên cô ấy là Thompson.”
" Tôi đoán là tôi đă nghe gần đủ về cô ấy rồi, bác sĩ Macphail," Thống
đốc mỉm cười nói. “ Tôi đă ra lệnh cho cô ấy rời đi vào thứ Ba tới và đó
là tất cả những ǵ tôi có thể làm.”
“ Tôi muốn hỏi liệu ông có thể kéo dài thêm một chút để cô ấy ở lại đây
cho đến khi tàu từ San Francisco đến để cô ấy có thể đi Sydney không.
Tôi sẽ đảm bảo hành vi tốt của cô ấy."
Thống đốc tiếp tục mỉm cười, nhưng đôi mắt ông trở nên nhỏ nhắn và
nghiêm nghị.
"Tôi rất vui được giúp đỡ ông, bác sĩ Macphail, nhưng tôi đă ra lệnh và
nó phải được giữ nguyên."
Bác sĩ giải thích vụ việc một cách hợp lư nhất có thể, nhưng bây giờ
ông Thống đốc không c̣n mỉm cười nữa. Ông ủ rũ lắng nghe, với ánh mắt ngoảnh
đi. Macphail thấy rằng ông ta không gây ấn tượng ǵ cả.
“Tôi xin lỗi đă gây bất tiện cho bất kỳ quư cô nào, nhưng cô ấy sẽ phải
khởi hành vào thứ Ba và chỉ có thế thôi.”
“Nhưng nó có thể tạo ra sự khác biệt ǵ?”
"Xin thứ lỗi cho tôi, bác sĩ, nhưng tôi cảm thấy không cần thiết phải
giải thích hành động chính thức của ḿnh ngoại trừ với các cơ quan có
thẩm quyền."
Macphail nh́n ông một cách sắc sảo. Ông nhớ lại lời bóng gió của
Davidson rằng ông ta đă sử dụng những lời đe dọa, và trong thái độ của
thống đốc, ông thấy có một sự xấu hổ kỳ lạ.
“Davidson là một kẻ bận rộn chết tiệt,” ông nóng nảy nói.
"
Giữa chúng ta, bác sĩ Macphail, tôi có thể nói rằng tôi không có thiện
cảm với ông Davidson, nhưng tôi buộc phải thú nhận rằng ông ấy có quyền
chỉ ra cho tôi mối nguy hiểm rằng sự có mặt của một phụ nữ, của cô
Thompson đă đến một nơi như thế này, nơi có một số quân nhân nhập ngũ
đóng quân cùng với người dân bản địa."
Ông đứng dậy và bác sĩ Macphail cũng buộc phải đứng dậy.
"Tôi phải xin ông thứ lỗi. Tôi có hẹn. Xin hăy gửi lời chào trân trọng
của tôi tới bà Macphail."
Bác sĩ từ giă ông Thống đốc trong choáng váng. Ông biết rằng cô
Thompson sẽ đợi ông
và ông không muốn nói với cô rằng ông đă thất bại. Ông đi vào nhà bằng
cửa sau và lẻn lên cầu thang như thể có điều ǵ đó muốn giấu.
Trong bữa ăn tối, ông im lặng và khó chịu, nhưng nhà truyền giáo lại vui
vẻ và sôi nổi. Bác sĩ Macphail thỉnh thoảng nghĩ rằng đôi mắt ông ta
đang nh́n ông với vẻ hài hước đắc thắng. Ông chợt
hiểu ra rằng Davidson đă biết về chuyến thăm thống đốc của ông và kết
quả tồi tệ của nó.
Nhưng làm thế quái nào mà ông ta có thể nghe được điều đó? Có điều ǵ đó
nham hiểm về sức mạnh của người đàn ông
này. Sau bữa tối, ông nh́n thấy
Horn ở hiên nhà và như thể muốn nói chuyện b́nh thường với ông, ông đi
ra ngoài.
"
Cô ấy muốn biết liệu ông đă gặp Thống đốc chưa,"
anh nhà buôn th́
thầm.
" Gặp rồi. Ông ấy sẽ không làm ǵ cả. Tôi vô cùng xin lỗi, tôi không thể
làm ǵ hơn được."
"Tôi biết ông ấy sẽ không làm ǵ. Họ không dám chống lại những người truyền
giáo."
"Các ông đang nói về cái ǵ vậy?" Davidson nói một cách niềm nở và bước
ra tham gia cùng họ.
“Tôi chỉ nói rằng không có cơ hội để ông đến Apia trong ít nhất một tuần
nữa,” anh nhà buôn nói một cách lấp lửng.
Anh ta rời khỏi họ và hai người đàn ông quay trở lại pḥng khách. Ông
Davidson dành một giờ sau mỗi bữa ăn để giải trí. Lúc này có tiếng gơ
cửa rụt rè.
“Mời vào,” bà Davidson nói bằng giọng sắc bén.
Cánh cửa không được mở. Bà đứng dậy và mở nó ra. Họ nh́n thấy cô
Thompson đang đứng ở ngưỡng cửa. Nhưng sự thay đổi về ngoại h́nh của cô
ấy thật phi thường. Đây không c̣n là cô gái khoe khoang đă chế nhạo họ
trên đường nữa mà là một người phụ nữ suy sụp, sợ hăi. Mái tóc của cô,
như thường lệ được chải rất công phu, xơa xuống cổ
rối bời. Cô
đi dép ngủ, mặc váy và áo cánh trông nhăn nhúm, không được tinh
tươm. Cô đứng ở cửa, nước mắt chảy dài trên khuôn mặt, không dám bước vào
“ Cô muốn ǵ?” bà Davidson gay gắt nói.
“Tôi có thể nói chuyện với ông Davidson được không?” cô nói với giọng
nghẹn ngào.
Nhà truyền giáo đứng dậy và đi về phía cô.
“Mời vào ngay, cô Thompson,” ông nói với giọng thân mật. "Tôi có thể làm
ǵ cho cô ?"
Cô bước vào pḥng.
" Vâng, tôi xin lỗi v́ những ǵ tôi đă nói với ông ngày hôm nọ và v́...
v́ mọi thứ khác. Tôi đoán là tôi hơi nóng nảy. Tôi xin lỗi."
"Ồ, không có ǵ đâu. Tôi đoán lưng tôi đủ rộng để có thể chịu đựng được
vài lời khó nghe."
Cô bước về phía ông với một động tác co rúm người lại một cách khủng
khiếp.
" Ông đă đánh bại tôi. Tôi đồng ư. Ông sẽ không bắt tôi quay lại Frisco
chứ?"
Thái độ vui vẻ của ông biến mất và giọng nói đột ngột trở nên cứng rắn
và nghiêm khắc.
“Tại sao cô không muốn quay lại đó?”
Cô thu ḿnh lại trước ông.
" Gia đ́nh tôi sống ở đó. Tôi không muốn họ nh́n thấy tôi như thế này.
Tôi sẽ đi bất cứ nơi nào khác mà ông nói."
“ Vậy th́ tại sao cô không muốn quay lại San Francisco?”
"Tôi đă nói với ông rồi."
Ông nghiêng người về phía trước, nh́n chằm chằm vào cô, và đôi mắt to
sáng ngời dường như đang cố gắng đi sâu vào tâm hồn cô. Ông chợt thở
dốc.
"Nhà tù."
Cô hét lên, rồi ngă xuống dưới chân ông, ôm lấy chân.
"Đừng đưa tôi trở lại đó. Tôi thề với ông trước Chúa rằng tôi sẽ là một
người phụ nữ tốt. Tôi sẽ từ bỏ
hết."
Cô bật ra một ḍng thác cầu xin bối rối và nước mắt chảy dài trên đôi má
tô vẽ của cô. Ông nghiêng người về phía cô và nâng mặt cô lên, buộc cô
phải nh́n ông.
“Có phải vậy không, nhà tù?”
“Tôi đă trốn thoát trước khi họ kịp bắt được tôi,” cô thở hổn hển. "Nếu
tụi mă tà tóm lấy tôi th́ tôi ngồi tù ba năm."
Ông buông tay cô ra, cô ngă xuống sàn, khóc nức nở. Bác sĩ Macphail đứng
dậy.
“Điều này làm thay đổi toàn bộ sự việc,” ông nói. "Đă biết chuyện này
th́ không thể bắt cô ấy quay lại. Hăy cho cô ấy một cơ hội nữa. Cô ấy
muốn lật một trang mới."
"Tôi sẽ cho cô ấy cơ hội tốt nhất mà cô ấy từng có. Nếu cô ấy ăn năn,
hăy để cô ấy chấp nhận h́nh phạt của ḿnh."
Cô hiểu nhầm lời nói và nh́n lên. Trong đôi mắt nặng trĩu của cô hiện
lên tia hy vọng.
"Ông sẽ để tôi đi chứ?"
“Không. Thứ Ba cô sẽ đi San Francisco.”
Cô rên lên một tiếng kinh hoàng rồi bật ra những tiếng thét trầm khàn
khàn nghe không giống tiếng người, và cô ấy đập đầu xuống đất như một
con điên. Bác sĩ Macphail lao tới đỡ cô dậy.
"Nào, cô không được làm thế. Tốt nhất cô nên về pḥng và nằm đi. Tôi sẽ
lấy cái ǵ đó cho cô. "
Ông nhấc cô dậy và một phần kéo cô, một phần bế cô, đưa cô xuống cầu
thang.
Ông rất tức giận với bà Davidson và vợ v́ họ không nỗ lực giúp
đỡ. Anh nhà buôn đang đứng ở đầu cầu thang và với sự giúp đỡ
của hắn, ông đă đưa được cô lên giường. Cô rên rỉ khóc
lóc. Cô gần như vô cảm. Ông tiêm cho cô một mũi tiêm dưới da. Ông nóng
nực và kiệt sức khi lên lầu lại .
“Tôi đỡ cô ấy nằm xuống rồi.”
Hai người phụ nữ và Davidson vẫn ở nguyên tư thế như lúc ông rời xa họ.
Họ không thể cử động hay nói chuyện kể từ khi ông đi.
"Tôi đang đợi ông về, " Davidson nói bằng một giọng xa lạ. “Tôi
muốn tất cả chúng ta cùng cầu nguyện cho linh hồn người em gái lầm lỗi
của chúng ta.”
Ông ta lấy cuốn Kinh thánh ra khỏi kệ và ngồi xuống bàn nơi họ vừa ăn
tối. Nó vẫn chưa được dọn sạch, và
ông đẩy ấm trà ra cho trống chỗ.
Bằng một giọng mạnh mẽ, vang và sâu, ông đọc cho họ nghe chương kể lại
cuộc gặp gỡ của Chúa Giêsu Kitô với người phụ nữ bị bắt quả tang ngoại
t́nh.
“Bây giờ hăy quỳ xuống với tôi và chúng ta hăy cầu nguyện cho linh hồn
của cô em gái thân yêu của chúng ta, Sadie Thompson.”
Ông bật lên một lời cầu nguyện dài và tha thiết, trong đó ông cầu xin
Chúa thương xót người phụ nữ tội lỗi. Bà Macphail và bà Davidson quỳ
xuống với đôi mắt bịt kín. Vị bác sĩ ngạc nhiên, lúng túng và ngượng
ngùng cũng quỳ xuống. Lời cầu nguyện của nhà truyền giáo có tài hùng
biện man rợ. Ông ta vô cùng xúc động, và khi nói, những giọt nước mắt
chảy dài trên má. Bên ngoài, mưa rơi vô t́nh, rơi đều đặn,
với sự
ác độc dữ dội như của con người .
Cuối cùng ông dừng lại, im một lúc rồi nói:
“Bây giờ chúng ta đọc kinh Lạy Cha ”
Ông nói thế, rồi mọi người đang quỳ gối theo ông ta cùng
đứng lên. Sắc
mặt bà Davidson tái nhợt và yên tĩnh. Bà trông thoải
mái và b́nh yên, nhưng
gia đ́nh Macphail đột nhiên cảm thấy bẽn lẽn. Họ không biết phải nh́n
hướng nào.
Bác sĩ Macphail nói: “Tôi sẽ xuống xem bây giờ cô ấy thế nào”.
Khi ông gơ cửa, Horn ra mở cửa cho ông. Cô Thompson ngồi trên chiếc
ghế bập bênh, lặng lẽ nức nở.
" Cô đang làm ǵ ở đó?" Macphail kêu lên. “Tôi
đă bảo cô nằm xuống.”
"Tôi không thể nằm được. Tôi muốn gặp ông Davidson."
" Tội nghiệp, c̣n có ích lợi ǵ? Không bao giờ lay chuyển được ông ấy
đâu."
“Ông ấy nói sẽ đến nếu tôi gọi ông ấy.”
Macphail ra hiệu cho anh nhà buôn.
“Đi đón ông ấy đi.”
Ông im lặng đợi cô trong khi anh nhà buôn lên lầu. Davidson bước vào.
“Xin lỗi v́ đă mời ông đến đây,” cô nói, nh́n ông buồn bă.
"Tôi đang mong đợi cô sẽ gọi tôi. Tôi biết Chúa sẽ đáp lại lời cầu
nguyện của tôi."
Họ nh́n nhau một lúc rồi cô quay đi. Cô luôn tránh ánh mắt khi nói
chuyện.
" Tôi đă xấu xa. Bây giờ tôi muốn chuộc tội."
“ Lạy Chúa! Lạy Chúa! Chúa đă nhận lời cầu nguyện của chúng con." Rồi
quay lại nói với hai người kia. "Để cho tôi ở lại đây một ḿnh với cô ấy
và cho nhà tôi hay rằng Chúa đă nghe lời cầu nguyện của chúng ta.”
Họ đi ra, khép cửa lại.
Horn bảo:
“ Kỳ cục thật! “
Đêm đó, bác sĩ trằn trọc măi mới ngủ được. Khi nghe tiếng chân Davidson
lên cầu thang, ông nh́n đồng hồ: hai giờ khuya. Nhưng nhà truyền giáo
vẫn chưa đi ngủ ngay bởi v́ qua vách ngăn bằng
gỗ chia giữa hai pḥng, Macphail c̣n nghe tiếng cầu nguyện rất lớn của
ông ta, cho tới lúc mệt quá, thiếp đi mà không hay.
Sáng hôm sau, vẻ mặt nhà truyền giáo làm cho Macphail ngạc nhiên. Mệt
nhọc, xanh xao hơn trước, nhưng cặp mắt sáng ngời, như có ngọn lửa
thiêng nào cháy ở trong ḷng, nên mặt mày hớn hở lạ lùng.
Davidson bảo:
“ Lát nữa, ông làm ơn xuống coi mạch cho Sadie nhé! Tôi không nghĩ rằng
cô ấy b́nh phục, nhưng linh hồn cô ấy đă thay đổi hẳn.”
Bác sĩ thấy uể oải, mất b́nh tĩnh nói:
“ Đêm qua, ông ở dưới đó khuya quá.”
“ Phải, cô ấy đ̣i tôi ở lại, hễ vắng tôi th́ chịu không nổi.”
Bực ḿnh, Macphail nói giọng mỉa mai:
“ Bây giờ ông có vẻ vui như mở hội rồi”.
Mắt Davidson sáng ngời v́ khoái chí.
“ Chúa đă ban cho tôi một niềm vui lớn. Đêm qua tôi đă được cái đặc ân
dắt một con chiên lạc đường về dâng cho Chúa.”
Cô Thompson lại ngồi thu ḿnh trong cái ghế bành ở giữa căn pḥng lộn
xộn. Giường không dọn. Quần áo cũng không thay, vẫn bận chiếc áo ngủ cũ
kỹ, tóc th́ quấn vội vàng. Cô ta đă lấy khăn ướt lau mặt nhưng mắt c̣n
húp lên và c̣n giọt nước mắt. Trông thật thảm hại!
Mệt mỏi, thất vọng, sợ sệt, cô ngước mắt nh́n bác sĩ, vẻ ngây dại, hỏi:
“ Ông Davidson đâu? “
Macphail chua chát đáp:
“ Nếu cô muốn th́ lát nữa ông ấy xuống, tôi vô thăm bệnh trạng của cô."
“ Không sao, tôi b́nh thường. Ông đừng lo ǵ cả.”
“ Cô đă ăn uống ǵ chưa?”
“ Horn có mang cà phê lại cho tôi.”
Cô lo lắng nh́n ra phía cửa:
“ Ông tin rằng ông ấy sắp xuống chứ? Có ông ấy gần, tôi thấy mọi sự đỡ
ghê rợn. “
“ Thứ ba cô vẫn phải xuống tàu chứ? “
“ Vâng. Ông ấy bảo phải vậy. Xin ông lên nói giùm để ông ấy xuống ngay
đi. Ông giúp tôi được việc ǵ đâu. Từ nay chỉ ông ấy cứu giúp được thôi.
“
Bác sĩ đáp:
"Được."
Trong ba ngày, trừ những bữa cơm là Davidson lên lầu gặp ba người kia
c̣n th́ ở miết trong pḥng Sadie Thompson. Macphail nhận thấy ông ăn rất
ít.
Bà Davidson thương hại cho chồng.
“ Nhà tôi càng lúc càng kiệt sức, không giữ ǵn rồi th́ sẽ bệnh cho xem nhưng có bao giờ ông ấy biết giữ sức đâu."
Chính bà ta cũng xanh xao, mệt nhọc. Bà nói với
bà Macphail rằng ḿnh thiếu
ngủ. Ban đêm, từ pḥng cô Thompson lên, nhà truyền giáo cầu nguyện cho
tới khi mệt lả mới thôi, vậy mà cũng không ngủ được lâu. Nằm xuống được
một hai giờ rồi dậy thay quần áo, đi dạo trên bờ biển. Ngủ th́ mộng thấy
những cái kỳ dị.
Bà Davidson nói :
" Sáng nay, ông nhà tôi bảo tôi rằng ông ấy mộng thấy dăy núi Nebraska."
Bác sĩ Macphail bảo:
“ Kỳ thật! “
Ông nhớ lại có lần ngồi trên xe lửa đi ngang qua châu Mỹ, nh́n qua cửa
sổ thấy dăy núi Nebraska. Núi hiện ra giữa một cánh đồng, tṛn và nhẵn,
tựa những nấm hang chuột chũi khổng lồ. Ông ngạc nhiên, sao thấy nó
giống vú đàn bà quá.
Chính ông Davidson cũng không chịu được sự khích động đó, nhưng nhờ một
nỗi hoan hỉ lạ lùng, ông chưa đến nỗi quỵ. Ông
phải nhổ cho hết những rễ cuối
cùng của tội lỗi trong chỗ sâu kín nhất của ḷng cô gái.
Ông cùng đọc kinh và cầu nguyện với cô.
Một hôm, trong bữa cơm ông nói:
“ Thực là mầu nhiệm. Đích thực một sự phục sinh. Tâm hồn nàng trước kia
tối tăm như vậy, bây giờ trong trắng như tuyết trên trời mới rơi. Tôi
thấy tôi hèn mọn và sợ sệt. Sự cải tà đó thật đẹp đẽ. Tôi không đáng
được sờ gấu áo nàng nữa đấy.”
Bác sĩ hỏi:
“ Ông c̣n đủ can đảm để trục xuất cô
ấy về San Francisco nữa không? Ba
năm trong một nhà tù Hoa Kỳ. Tôi tưởng rằng ông có thể tránh cho cô ta
cái khổ đó chứ.”
“ Này, ông không thấy điều đó cần thiết sao? Ông tưởng rằng ḷng tôi
không chua xót sao? Tôi yêu nàng như yêu vợ, yêu em gái tôi vậy. Suốt
thời gian nàng ngồi khám, nàng chịu những đau khổ nào th́ tôi cũng chịu
tất cả những đau khổ như vậy.”
Bác sĩ bực ḿnh nói:
“ Dóc tổ ! “
“ Ông không hiểu tôi v́ ông mù. Nàng đă có tội th́ bây giờ phải
chịu khổ. Tôi biết nàng sẽ phải chịu những cảnh ra sao. Nàng sẽ bị
đói, bị ngược đăi, bị khinh bỉ. Tôi muốn nàng nhận h́nh phạt của loài
người như một sự hy sinh cho Chúa. Tôi muốn nàng vui vẻ nhận nó. Rất
ít kẻ gặp được cơ hội quư như vậy. Chúa rất tốt và rất thương người."
Giọng Davidson run lên v́ cảm động, ông chỉ c̣n lắp bắp được những lời
nồng nhiệt.
“ Suốt ngày tôi cầu nguyện với nàng, và khi tôi rời nàng, tôi cũng hết
sức cầu nguyện đức Kitô ban cho nàng ân sủng đó. Tôi muốn làm cho nàng
phát sinh ḷng khao khát chuộc tội thật nhiệt thành đến độ nếu tôi có đề
nghị cho nàng được tự do th́ nàng cũng từ chối. Tôi muốn rằng h́nh phạt
nghiêm khắc là ngồi tù sẽ là công quả mà nàng đem dâng ở chân Chúa kính
yêu của chúng ta."
Ngày giờ qua chậm chạp. Cả nhà cùng chăm lo cho cô gái khốn khổ
đó và họ sống trong một sự khích động khác thường. Cô có vẻ như một
kẻ sắp bị đem hy sinh trong một cuộc tế thần dă man. Sợ quá, cô như bị
tê liệt. Cô không chịu cho ông Davidson xa nên bám níu lấy ông như một
kẻ nô lệ. Cô khác nhiều, đọc kinh và tụng kinh. Có lúc kiệt sức, không
c̣n cảm giác nữa, cô mong sao cho h́nh phạt mau tới, để chấm dứt nỗi lo lắng hiện tại, chứ sống trong cái cảnh sợ sệt hoang mang này,
cô chịu không nổi. Từ khi thấy ḿnh tội lỗi, cô không c̣n tự trọng
nữa. Đầu tóc rối bù, lúc nào cũng bận chiếc áo ngủ dơ dáy đă bốn ngày
rồi không thay, chân không đi vớ, cô lê la trong cái pḥng bề bộn, ngổn
ngang.
Mưa vẫn tàn nhẫn cứ tiếp tục trút xuống. Mưa như vậy th́ nước trên Trời
phải cạn rồi chứ, sao vẫn c̣n? Nặng và ngay, giọt mưa đập măi trên mái
tôn một cách đều đều làm cho ta dễ nổi sung. Cái ǵ cũng ẩm thấp, nhớp
nhúa. Tường nổi mốc, giày đặt trên sàn cũng mốc. Đêm trằn trọc, nghe
tiếng muỗi vo ve mà bực ḿnh.
Bác sĩ nói:
“ Nếu trời tạnh cho được một ngày thôi th́ mọi sự hoàn hảo cả.”
Ai cũng nóng ḷng đợi ngày thứ ba, ngày mà chuyến tàu ở Sydney ghé bến
rồi đi San Francisco. Thần kinh căng thẳng quá không chịu nổi, Macphail
hết thương hại cho cô gái, cũng hết oán giận nhà truyền giáo, chỉ mong
cô đi đi cho rảnh. Ông có cảm tưởng rằng, tàu nhổ neo rồi th́ sẽ nhẹ
người đi. Một nhân viên của chính phủ sẽ tới dắt cô Sadie Thompson xuống
tàu. Tối thứ hai, ông ấy lại cho cô hay mười một giờ trưa hôm sau phải
sẵn sàng để đi. Lúc đó, Davidson ở bên cạnh cô.
“ Tôi sẽ lo việc đó cho. Tôi sẽ đích thân đưa cô ấy xuống tàu.”
Cô Thompson làm thinh.
Sau khi tắt nến, bác sĩ cẩn thận chui vô mùng, thở dài nhẹ nhàng.
“ Nhờ trời, thế là xong. Ngày mai, giờ này, cô ta không c̣n ở đây nữa.”
Bà bác sĩ cũng khoan khoái. Bà nói:
" Bà Davidson cũng mừng v́ ông Davidson trở nên yếu ốm như ma. Người đàn bà đó đă thay
đổi hẳn rồi."
“ Ai thay đổi hẳn? “
“ Cô Sadie. Trước kia em không thể tin chuyện đó có thể xảy ra như
vậy được. Hoá ra dốc ḷng thờ Chúa nó làm cho người ta trở nên khiêm
cung."
Ông chồng không đáp. Mệt quá, ông ngủ say hơn những ngày khác.
Sáng hôm sau, có ai nắm cánh tay ông bác sĩ làm ông giật ḿnh tỉnh dậy.
Horn đứng bên cạnh giường. Một ngón tay đặt trên môi,
anh ta ra hiệu cho
ông cứ yên lặng đi theo anh. Mọi khi anh ta bận một bộ quần áo vải đă sờn,
lần này anh ta đi chân không, và chỉ quấn một cái lava-lava. Bác sĩ bước
xuống sàn, thấy ḿnh anh ta nhiều vết xăm, có vẻ man rợ.
Anh ta chỉ về phía
hiên, ông theo ra đó.
Anh ta th́ thầm:
“ Phải im lặng. Có việc cần đến ông. Khoác áo xỏ giày rồi đi. Mau lên."
Bác sĩ nghĩ ngay rằng có chuyện ǵ xảy ra cho cô Thompson, hỏi:
“ Cái ǵ vậy? Phải mang theo đồ nghề của tôi không ? “
“ Mau lên, xin ông mau lên.”
Bác sĩ trở vô pḥng, khoác áo mưa ra ngoài bộ áo ngủ, xỏ chân vô giày đế
cao su, rồi trở ra hiên. Cả hai người xuống cầu thang. Cửa đă mở, năm
sáu thổ dân đứng ở đó.
Bác sĩ lại hỏi:
“ Cái ǵ vậy? “
Horn đáp:
“ Đi với tôi.“
Họ băng qua đường, tới băi biển. Nhóm thổ dân theo gót họ. Ở mí nước,
một đám người bản xứ vây chung quanh một cái ǵ đó. Khi hai người chạy
lại, Horn đẩy ông tiến tới. Và ông thấy xác Davidson, nửa dưới nước, nửa
trên cạn, ghê tởm. Vốn b́nh tĩnh trong cơn biến, ông cúi xuống lật cái
thây lên. Cuống họng bị cắt một vết dài từ tai bên này tới tai bên kia,
tay c̣n nắm chặt con dao cạo để cứa cổ.
Bác sĩ nói:
“ Lạnh ngắt rồi. Chắc chết đă được một lúc lâu. “
“ Một đứa trẻ đi làm ngang qua thấy vậy báo cho tôi hay mới tức th́ đây
thôi. Có phải vụ tự tử không? “
“ Phải, báo cho cảnh sát đi. “
Horn nói vài tiếng bản xứ với hai thanh niên.
Bác sĩ bảo:
“ Cứ để yên vậy, đợi cảnh sát tới.”
“ Đừng khiêng về nhà tôi. Tôi không muốn chứa của đó đâu. “
Bác sĩ nghiêm khắc:
“ Nhà cầm quyền bảo sao th́ làm vậy. Nhưng tôi chắc sẽ đưa vào nhà xác.
“
Họ đứng yên đợi. Moi ở trong chiếc lava-lava một gói thuốc, Horn mời bác
sĩ hút.
Vừa hút, họ vừa nh́n thây ma. Macphail không hiểu ǵ cả.
Horn hỏi:
“ Theo ông, tại sao ông ấy lại tự tử như vậy. “
Bác sĩ nhún vai. Cảnh sát khiêng một cái băng ca tới, một người lính
thuỷ binh mang súng chỉ huy họ, tiếp theo, hai sĩ quan và một y sĩ thủy
binh tới. Họ làm việc rất lanh lẹ, thực tế.
Một sĩ quan hỏi:
“ Bà ấy đâu? “
“ Có ông ở đây th́ tôi về thay quần áo và cho bà Davidson hay tin. Nên
sửa soạn lại cái thây ma một chút rồi hăy cho bà ấy thấy. “
Viên y sĩ thủy quân đáp:
“ Phải đấy ‘
Về tới pḥng, Macphail thấy vợ đă sẵn sàng rồi. Bà bảo chồng:
“ Bà Davidson rất lo lắng về t́nh cảnh ông ấy. Suốt đêm ông không
ngủ. Bà nghe tiếng ông rời pḥng cô Thompson hồi hai giờ khuya. Nếu
cứ đi lang thang suốt từ lúc đó tới giờ này th́ đă kiệt sức
mà chết rồi. "
Bác sĩ kể chuyện cho vợ nghe và nhờ vợ báo tin cho bà Davidson.
“ Nhưng tại sao ông ấy lại tự tử? “
“ Anh không biết.”
“ Em không thể báo tin đó cho bà ấy được. Không thể được. “
“ Em phải làm. “
Bà hoảng sợ, nh́n chồng rồi đi ra. Ông chồng nghe tiếng vợ vào pḥng bà
Davidson. Nghỉ ngơi một chút để b́nh tâm trở lại, ông rửa mặt, thay quần
áo, ngồi ở giường đợi vợ. Bà vợ về bảo:
“ Bà ấy muốn đi nh́n mặt ông. “
“ Người ta đă chở đi nhà xác. Chúng ta nên cùng đi với bà ấy. Bà xúc
động lắm không? “
“ Em thấy bà ấy như chết điếng. Không khóc mà run như cầy sấy. “
“ Tốt nhất chúng ta nên đi ngay.”
Khi họ gơ cửa, bà Davidson bước ra. Bà rất xanh xao nhưng mắt lại khô
khốc. Đối với bác sĩ, bà có vẻ điềm tĩnh một cách bất thường. Không có
lời nào được trao đổi, và họ lên đường trong im lặng. Khi họ đến nhà
xác, bà Davidson nói.
“Để tôi vào thăm ông ấy một ḿnh.”
Họ đứng sang một bên. Một người bản xứ mở cửa cho bà và đóng nó lại sau
lưng bà. Họ ngồi xuống và chờ đợi. Một hoặc hai người đàn ông da
trắng đến nói chuyện nhỏ với họ. Bác sĩ Macphail kể lại cho họ nghe
những ǵ ông biết về thảm kịch. Cuối cùng cánh cửa nhẹ nhàng mở ra và bà
Davidson bước ra. Sự im lặng bao trùm họ.
“Tôi đă sẵn sàng đi về bây giờ,” bà nói.
Giọng bà cứng rắn và đều đặn. Bác sĩ Macphail không thể hiểu được ánh
mắt của bà ta. Khuôn mặt nhợt nhạt rất nghiêm nghị.
Họ chậm răi
đi về, không nói một lời, và cuối cùng họ đi tới khúc quanh phía bên
kia đường nơi có ngôi nhà của họ. Bà Davidson thở hổn hển và họ dừng lại một
lúc. Một âm thanh đáng kinh ngạc tấn công vào tai họ. Chiếc máy hát đă
im lặng bấy lâu nay đang phát ra tiếng ragtime
rất lớn và chói tai.
“ Cái ǵ vậy?” Bà Macphail kêu lên kinh hăi.
“Chúng ta đi tiếp thôi,” bà Davidson nói.
Họ bước lên các bậc thang và bước vào sảnh đường. Cô Thompson đang đứng
trước cửa nói chuyện với một thủy thủ. Một sự thay đổi đột ngột diễn ra
trong cô. Cô ta không c̣n là kẻ hèn nhát đáng sợ của những ngày trước
nữa. Cô ăn mặc rất sang trọng, trong chiếc váy trắng, với đôi bốt cao
bóng loáng với đôi chân mập mạp phồng lên trong đôi tất vải; Mái tóc của
cô ấy được chải chuốt cầu kỳ; và cô đội chiếc nón mũ khổng lồ phủ đầy
những bông hoa ḷe loẹt. Khuôn mặt cô được tô vẽ, lông mày đen đậm và
đôi môi đỏ tươi. Cô giữ ḿnh đứng thẳng. Cô giờ là nữ hoàng khoe khoang
mà họ đă biết lúc đầu. Khi họ bước vào, cô phá lên cười lớn và giễu cợt;
rồi khi bà Davidson vô t́nh dừng lại, cô ta ngậm một búng nước bọt trong
miệng và nhổ ph́ ra. Bà Davidson thụt người co rúm lại, hai vết đỏ chợt
nổi lên trên má bà. Sau đó, bà lấy tay che mặt, tránh xa ra và chạy
nhanh lên cầu thang. Bác sĩ Macphail tỏ ra phẫn nộ. Ông vượt ngang qua
người phụ nữ và xông vào pḥng cô.
“Cô đang làm cái quái ǵ vậy?” Ông hét. “Tắt cái máy
chết tiệt đó lại.”
Ông tiến tới gần và gỡ giật đĩa hát ra. Cô quay sang ông:
"Này bác sĩ, ông có thể làm tṛ đó với tôi sao. Ông đang làm
cái quái ǵ trong pḥng tôi thế?"
"Ư cô là ǵ?" Ông lớn tiếng. "Ư cô là ǵ?"
Cô Thompson dồn người lại.
Không ai có thể diễn tả được sự khinh
bỉ trong vẻ mặt của cô ấy hay sự căm ghét
khinh thường mà cô ấy đưa vào
câu trả lời
của ḿnh:
"Các ông! Đồ lợn bẩn thỉu! Các ông đều giống nhau cả. Đồ lợn! Đồ lợn!"
Bác sĩ Macphail thở hổn hển. Ông đă hiểu.
THÂN TRỌNG SƠN
dịch và giới thiệu
( tháng 9 / 2024 )
Nguồn:
https://americanliterature.com/author/william-somerset-maugham/short-story/rain/
Trang Thân Trọng
Sơn
art2all.net |