Thân Trng Sơn

 

XUÂN VỀ TRÊN THỰC ĐƠN

(Springtime a la Carte)

O’HENRY
Nhà văn Mỹ
( 1862-1910 )

 

 

Write what you like; there is no other rule.
( Viết những ǵ bạn thích; không có quy tắc nào khác.)
 


          O’Henry, bút danh của William Sydney Porter, nhà văn Mỹ, tác giả của 273 truyện ngắn đăng trong các nhật báo và tạp chí, sau được in trong mười tám tập truyện. Cuộc đời của Ông rất phong phú: làm nhiều nghề khác nhau ( dược sĩ, vẽ kỹ thuật và kiến trúc, thư kư, đầu bếp nhà hàng, nhân viên công ty địa ốc, nhân viên xưởng in… ), từng tham gia ca hát, diễn kịch, vẽ hí họa, có lúc bệnh nặng, có lúc ở tù. Có lẽ v́ thế mà bối cảnh các truyện ngắn của Ông cũng rất phong phú, khắc họa xă hội nước Mỹ thời kỳ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Phần lớn truyện ngắn của Ông có cốt truyện đơn giản, với nhiều t́nh tiết oái oăm, khắc nghiệt, có khi khôi hài để kết thúc bất ngờ.

Về bút danh của ông, có một tờ báo đă hỏi ông chữ O có ẩn ư ǵ, và ông nói: " O là của Olivier, cái tên Pháp của Oliver". Và thực sự là đă có một vài truyện ông kư tên Olivier Henry.

Những truyện ngắn nổi tiếng nhất của ông là: After 20 years ( Hai mươi năm sau ), The Ǵft of the Magi ( Món quà của các nhà thông thái ; “Chiếc lá cuối cùng” ( The last leaf ) là một truyện ngắn nổi tiếng, được nhiều nước chọn đưa vào sách giáo khoa, tại Việt Nam truyện này được đưa vào giảng dạy trong chương tŕnh Ngữ văn lớp 8.

Sau những năm tháng cùng quẫn, mặc dù đến lúc đă nổi danh và có tiền nhuận bút khá, O’ Henry vẫn không được hưởng hạnh phúc vào những năm cuối đời: khó khăn về tài chính v́ chi tiêu quá cao, lại thêm chứng lao phổi lây từ người mẹ và tật nghiện rượu nhiễm từ người cha. Ông qua đời một cách khổ sở tại thành phố New York do bệnh lao cộng thêm chứng xơ gan khi mới 47 tuổi.

O’ Henry được xem như một trong những bậc thầy về truyện ngắn trên văn đàn thế giới, bên cạnh Tchekhov của Nga, Saki của Anh, Guy de Maupassant của Pháp.

Năm 1919, Hội Nghệ thuật và Khoa học ( Society of Arts and Sciences ) thiết lập
“ Giải thưởng Tưởng niệm O’ Henry” ( O’ Henry Memorial Awards ), hàng năm trao cho những truyện ngắn đặc sắc.

Có lẽ nhờ cuộc đời phong phú của tác giả nên các truyện ngắn của O. Henry (tổng cộng gần 400 truyện ), cũng thể hiện các nét đa dạng của xă hội Mỹ đương thời. Người ta có thể t́m thấy những nhân vật làm các nghề mà chính tác giả đă trải qua, và c̣n nữa: chủ cửa hiệu, nhân viên bán hàng, kư giả, họa sĩ, bác sĩ, diễn viên sân khấu, thợ cắt tóc, cảnh sát, thanh tra, dân đi t́m vàng, cũng có những người vô nghề nghiệp vô gia cư, và kể cả kẻ tội phạm và tù nhân.

Những bối cảnh trong các truyện ngắn cũng phong phú, với nhiều truyện lấy Thành phố New York - nơi O. Henry sống tám năm cuối đời ông - làm bối cảnh, cộng thêm những mẩu chuyện phiêu lưu trong vùng Trung và Tây - Nam nước Mỹ. Tất cả đều biểu hiện khung cảnh xă hội kinh tế nước Mỹ vào thời khoảng cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, lúc đường Thành phố New York c̣n được thắp sáng bằng đèn ga, người c̣n dùng xe ngựa để di chuyển, nhiều dân chăn ḅ (cowboy, hay "cao bồi") vẫn c̣n sống bờ sống bụi và xem pháp luật bằng nửa con mắt, dân đi t́m vàng tự lập nên những thị trấn mới rồi "tự cai tự quản", v.v.

Người đọc truyện của Ông không bao giờ đoán trước được đoạn kết. Chính v́ lẽ đó, tác phẩm của Ông vẫn c̣n được t́m đọc. Để suy ngẫm. Để nhớ măi…
Truyện Springtime A La Carte được in lần đầu năm 1906.

 

 


          Mùa Xuân đang dần đến thành phố và không có lá thư nào từ vị hôn phu trong nhiều tuần, Sarah khá héo ṃn.

 

Trong ánh sáng vàng mờ nhạt từ giấc mơ bồ công anh của ḿnh, cô lơ đăng gơ phím máy chữ một lúc, với tâm trí và trái tim của ḿnh trên con đường đồng cỏ với người nông dân trẻ của ḿnh.

Đấy là một ngày trong tháng Ba.

 

Đừng bao giờ, đừng bao giờ, nên nhớ là không bao giờ bắt đầu một câu chuyện theo cách này. Không có câu mở đầu nào tệ hại hơn nữa. Như thế là thiếu sáng tạo, đơn điệu, khô khan, và có thể rồi chỉ có gió… Nhưng trong hoàn cảnh này, câu trên lại có thể được người đọc chấp nhận. V́ lẽ, câu văn sau đây, đáng lẽ có thể được dùng để mở màn cho câu chuyện, lại quá cường điệu và phi lư trước mắt người đọc mà thiếu sự chuẩn bị trước.

Sara đang khóc trên bản thực đơn của cô.

 

Cứ nghĩ đến một cô gái New York rơi nước mắt trên tấm thực đơn!

 

Để lư giải việc này, bạn được phép đoán là có thể do tôm hùm đă hết sạch, hoặc là cô đă thề là sẽ không đụng đến món kem lạnh trong Mùa Chay, hoặc là cô đă lỡ gọi món hành, hoặc là cô vừa mới đến từ một buổi chiếu phim ở Hackett. Rồi khi mọi giả thuyết này đều sai, xin bạn vui ḷng để câu chuyện được tiếp tục.

 

Người đàn ông đă tuyên bố rằng thế giới chỉ là một con hàu mà ông có thể dùng thanh gươm để tách ra, th́ có thể đă tạo được một cái danh lớn hơn là do ông ta xứng đáng nhận được. Tách vỏ của con hàu bằng gươm th́ chẳng khó ǵ cả. Nhưng có khi nào bạn thử tách con hàu trên cạn với máy đánh chữ không? Khác ǵ chờ cả tá con c̣n sống mở kiểu đó.

 

Sarah đă cố tách vỏ hàu bằng thứ vũ khí không tiện dụng của cô đủ xa để gặm nhắm một chút thế giới lạnh lẽo ẩm ướt bên trong. Cô không biết tốc kư nhiều hơn nếu cô tốt nghiệp ngành tốc kư vừa được một trường đại học kinh doanh để lọt ra ngoài thế giới. Bởi vậy cô không thể tham gia vào nhóm những tài năng văn pḥng. Cô chỉ là thư kư đánh máy tự do và đă làm công việc sao chép lặt vặt.

 

Thành tựu sáng chói và danh giá nhất trong việc Sarah đấu giá với đời là sự dàn xếp với nhà hàng Schulenberg’s. Nhà hàng này nằm kế cận toà nhà cổ xây bằng gạch đỏ mà cô thuê trọ. Một buổi tối nọ, sau một bữa ăn đáng giá 40 cent ở nhà hàng Schulenberg’s gồm năm món (được dọn ra cho khách nhanh như khi bạn ném năm quả bóng vào đầu ông da đen), Sarah mang theo bản thực đơn đi. Nó được viết bằng nét viết thảo, hầu như không ai đọc ra đấy là chữ Anh hay chữ Đức, mà cách viết lại lộn xộn đến nỗi nếu bạn không cẩn thận th́ bạn có thể bắt đầu bữa ăn bằng cây tăm xỉa răng, rồi đến bánh ngọt, rồi đến món súp và ngày trong tuần.

 

Ngày hôm sau, Sarah cho Schulenberg xem một tờ thực đơn hoàn chỉnh, chữ đánh máy đẹp, với tên các món ăn được sắp xếp đầy hấp dẫn đúng theo nghĩa vụ của chúng và đặt dưới kiểu tựa thích hợp, từ các món ăn nhẹ đến việc "không chịu trách nhiệm về áo khoác và dù của khách".

 

Schulenberg xem như được thực sự là công dân Mỹ ngay tại chỗ. Trước khi Sarah rời ông, cô đă yêu cầu ông sẵn sàng cam kết một thoả thuận. Cô sẽ đánh máy thực đơn cho hai mươi mốt bàn trong nhà hàng - một bộ thực đơn mới cho mỗi bữa ăn tối, thực đơn mới cho các bữa ăn sáng và trưa khi món ăn có nhiều thay đổi hoặc khi cần sự gọn gàng. Để bù lại, mỗi ngày Schulenberg cung cấp cho Sarah ba bữa ăn do một anh người phục vụ – một bữa ăn đầy đủ nếu có thể - mang đến tận pḥng trọ. Mỗi buổi chiều, Sarah sẽ nhận một bản nháp thực đơn viết bằng bút ch́ về những ǵ Fate dành cho thực khách của Schulenberg vào ngày hôm sau.

 

Hai bên đều hài ḷng với thoả thuận này. Bây giờ thực khách của Schulenberg biết món ḿnh ăn có tên gọi là ǵ, tuy đôi lúc vẫn c̣n hoang mang do chính bản chất của nó khiến họ bối rối. C̣n Sarah th́ được ngày ba bữa trong mùa đông lạnh lẽo, và buồn tẻ, chính yếu đấy là điều cô cần.

 

Một ngày, cuốn niên lịch thời tiết dối trá cho là mùa xuân đă đến. Mùa xuân sẽ đến khi nó phải đến. Những bông tuyết đóng băng của Tháng Giêng vẫn cứng như đá trên đường phố. Các đàn óc-gan vẫn c̣n chơi bài “ In the Good Old Summertime" với bao âm điệu rộn ră của Tháng Mười Hai. Mọi người bắt đầu ghi chú ba mươi ngày trước để nhớ mua trang phục mùa Phục Sinh. Người lao công đă đóng ṿi hơi nước. Và khi những việc như thế xảy ra, ta có thể biết rằng thành phố vẫn c̣n đang trong mùa đông.

 

Một buổi chiều, Sarah run rẩy trong pḥng ngủ lịch sự của cô; "nhà có hệ thống sưởi, sạch sẽ, mọi tiện nghi đều có; phải nh́n tận mắt mới đánh giá cao được." Cô không có việc ǵ làm trừ việc xem mấy bản thực đơn của Schulenberg. Sarah ngồi trên chiếc ghế đu h́nh cây liễu kêu cót két, và nh́n ra ngoài cửa sổ. Tấm lịch trên tường kêu gọi cô không ngớt: “Mùa xuân đă đến, Sarah, mùa xuân đă đến. Hăy nh́n con số của tôi đây, Sarah, số liệu của tôi chỉ về mùa xuân. Cô cũng một thân h́nh cân đối - h́nh dáng của mùa xuân đẹp đẽ - nhưng tại sao cô lại nh́n ra cửa sổ buồn bă thế kia?”

 

Pḥng của Sarah nằm ở mặt sau của ngôi nhà. Khi nh́n qua cửa sổ, cô có thể thấy bức tường gạch đỏ không cửa sổ của một nhà máy sản xuất bao b́ trên con đường kế bên. Nhưng bức tường trong suốt như pha lê, và Sarah đang nh́n xuống một con đường ṃn dài, rợp bóng cây anh đào và cây du, với hai bên lề lót những bụi mâm xôi và dây hoa hồng dại Cherokee.

 

Những điểm báo thực sự của mùa xuân th́ quá tinh tế, tai và mắt ta khó nhận ra. Người khác phải thấy có hoa huệ tây đang nở, cây dương đào có ngôi sao gỗ, tiếng hót của chim xanh – ngay cả lời nhắc nhở thô thiển kiểu như cái bắt tay vĩnh biệt của kiều mạch và hoa oyster đang nghỉ hưu trước khi họ có thể dang rộng tay chào đón hoa cẩm chướng Lady in green vào bộ ngực buồn tẻ của ḿnh. Nhưng đối với những người thân yêu nhất của trái đất cũ, sẽ có những tin nhắn thẳng thắn, ngọt ngào từ cô dâu mới nhất của trái đất, nói rằng họ không phải là con riêng trừ khi họ chọn như vậy.


Vào mùa hè năm trước, Sarah đă đi về miền quê và yêu một người nông dân.


( Khi bạn viết truyện, không bao giờ bạn nên viết trở về quá khứ theo cách như thế. Đấy là thứ nghệ thuật tồi, nó làm tê liệt sự hứng thú. Phải để nó tiến tới, tiến tới ).

Sarah lưu lại ở trang trại Sunnybrook trong hai tuần. Ở đấy, cô đă yêu Walter, con trai của nông dân Franklin. Mấy nông dân đă từng yêu và thành hôn rồi trở thành đồng cỏ trong thời gian ngắn hơn. Nhưng anh trai trẻ Walter Franklin là một nhà nông học tiến bộ. Anh có cả điện thoại trong chuồng ḅ của ḿnh và anh có thể tiên đoán chính xác vụ mùa sắp tới ở Canada có thể ảnh hưởng đến lượng khoai tây trồng trong bóng tối của mặt trăng. Walter đă tán tỉnh và chiếm được con tim của Sarah trên con đường ṃn đầy bóng mát và các bụi mâm xôi. Họ đă ngồi bên nhau và hái các nụ hoa bồ công anh để bện thành vương miện cho mái tóc của cô. Anh đă phóng đại ca ngợi vẻ đẹp của các nụ hoa vàng trên mái tóc nâu của cô, và cô đă bỏ lại sợi dây chuỗi của ḿnh ở đấy, bước đi về nhà vung vẩy chiếc mũ rơm trên tay. Họ hẹn sẽ cưới nhau vào mùa xuân - Walter bảo vào lúc có những dấu hiệu đầu tiên của mùa xuân. Và rồi Sarah đă trở lại thành phố để gơ máy đánh chữ.

Một tiếng gơ trên cánh cửa làm tan vỡ những mơ mộng của Sarah về những ngày hạnh phúc ấy. Một người phục vụ mang bản thảo bằng bút ch́ thô về món ăn cho ngày hôm sau.

Sarah ngồi xuống bên cái máy đánh chữ, luồn một tờ giấy cứng giữa hai trục lăn. B́nh thường cô làm khá nhanh, chỉ trong ṿng một tiếng rưỡi đồng hồ là cô đánh xong hai mươi mốt bản thực đơn.

Hôm nay thức ăn có nhiều thay đổi hơn b́nh thường. Các món súp lỏng hơn, không c̣n có thịt heo trong các món ăn khai vị, mà lại có rau diếp Nga trong số các món thịt nướng. Tinh thần sang trọng của mùa xuân lan tràn trên khắp bản thực đơn. Thịt cừu, vốn ngay trước đấy c̣n nhảy nhót trên các sườn đồi xanh, đă được khai thác với nước sốt để kỷ niệm các vũ điệu. Bài hát của ṣ biển, tuy không bị ngậm miệng im tiếng, đă trở nên một khúc th́ thầm của mùa xuân. Cái chảo chiên được xếp xó, đằng sau những thanh chắn hữu ích của ḷ nướng. Danh sách các món bánh trái cây dài ngoằng ra; các loại bánh pudding đậm đà đă biến mất; xúc xích, với tấm áo dày cộm cuốn quanh, không đọng lại trong cảm giác dễ chịu với kiều mạch và cây phong ngọt ngào nhưng cam chịu.

Các ngón tay của Sarah nhảy múa như đàn chuồn chuồn lượn trên mặt nước ao mùa xuân. Trong các khoá học, cô đă làm việc, sắp xếp từng món ăn theo thứ tự từ trên xuống dưới, lấy mắt để điều chỉnh chính xác mỗi tên tuỳ dài ngắn.

 

Ngay trên các món tráng miệng là danh sách các loại rau. Cà rốt và đậu Hà lan, măng tây ở trên bánh ḿ nướng, các loại cà chua lâu năm và bắp phục vụ quanh năm, đậu ngự, bắp cải - và sau đó -…

Sarah đang khóc trên bản thực đơn của cô. Những giọt lệ từ sâu thẳm của mối thất vọng nào đấy dâng lên trong tim cô và trào ra khoé mắt. Cô gục đầu trên cái giá đỡ máy đánh chữ nhỏ và các phím chữ canh cách tạo nên khúc đệm khô khan cho những nức nở của cô.

V́ cô đă không nhận được thư từ ǵ của Walter trong hai tuần nay, và món kế tiếp trên bản thực đơn là món rau bồ công anh, bồ công anh trộn với trứng ǵ đấy – nhưng để ư đến trứng làm ǵ! - bồ công anh với những nụ hoa vàng chói mà Walter đă dùng để phong cho cô làm nữ hoàng của t́nh anh và cô dâu tương lai của anh - bồ công anh, điềm báo của mùa xuân, vương miện của nỗi sầu thảm của cô – đă gợi lại cho cô về những ngày hạnh phúc nhất.

Thưa quư bà, tôi thách quư bà dám cười nếu quư bà trải qua cuộc trắc nghiệm này: giả dụ quư bà thấy những nụ hoa hồng Marechal Niel mà Percy đă tặng bà vào cái đêm bà trao trọn con tim ḿnh cho ông ấy, giờ được dùng làm món rau trộn với nước sốt Pháp, dọn lên trước mắt bà ở nhà hàng Schulenberg! Nếu nàng Juliet thấy những biểu tượng của t́nh yêu do chàng Romeo trao tặng bị làm nhục như thế, th́ hẳn cô ấy sẽ uống thứ thuốc độc kia sớm hơn là trong t́nh sử mà Shakespear đă viết!

Nhưng Nàng Xuân quả là ác độc! Nàng cần gửi tín hiệu của ḿnh đến thành phố bao la nhưng lạnh lẽo với toàn đá và sắt. Không có ai để nhờ gửi ngoại trừ người đưa thư nhỏ bé rắn rỏi của cánh đồng với chiếc áo xanh thô ráp và dáng vẻ khiêm tốn. Anh chỉ là một người lính may mắn thực sự, cây dent-de-lion – răng sư tử, theo như giới bồi bếp Pháp gọi. Khi nở, anh giúp đỡ cho t́nh yêu, lồng lên mái tóc nâu hạt dẻ của người phụ nữ của tôi; khi c̣n non và mọng và chưa nở hoa, anh đi vào cái nồi luộc và phát tín hiệu của cô chủ tối thượng của anh.

Dần dần, Sarah cố cầm nước mắt. Cần phải đánh máy xong các bản thực đơn, nhưng, vẫn c̣n ch́m đắm trong cơn mơ lặng lờ với hoa bồ công anh vàng chói, cô lơ đăng lướt các ngón tay trên bàn phím một lúc, với trí óc và con tim vẫn c̣n vương trên con đường ṃn giữa cánh đồng với người nông dân trẻ. Nhung chẳng bao lâu cô đă nhanh chóng trở lại với những đường ṃn lát đá của khu Manhattan, rồi cái máy đánh chữ lại lách cách vang lên như chiếc mô tô của cảnh sát đi giải tán đám đ́nh công.

Lúc 6 giờ, người phục vụ mang bữa ăn tối đến cho cô và mang đi các bản thực đơn đánh máy. Khi Sarah ăn, với một tiếng thở dài cô gạt qua một bên đĩa rau bồ công anh trộn trứng. Khi những nụ hoa vàng chói thắm đượm t́nh yêu bị chuyển thể thành mớ rau đen đủi thấp hèn ấy, những hy vọng mà cô ấp ủ từ mùa hè cũng héo úa, tàn tạ theo. T́nh yêu có thể tự nuôi dưỡng nó, như Shakespeare đă nói, nhưng Sarah không thể nuốt nổi món bồ công anh vốn khi c̣n là hoa cảnh đă tô điểm bàn tiệc tinh thần đầu đời được dọn cho t́nh cảm chân thật của con tim cô.

Lúc 7 giờ 30, đôi vợ chồng pḥng bên bắt đầu căi nhau, người đàn ông ở trên tầng trên đang thử nốt nhạc A trên cây sáo của ông, ga đốt xuống thấp hơn, ba chiếc gọng than đá bắt đầu xuống hàng – âm thanh duy nhất khiến cái máy hát ghen tức, những con mèo trên hàng rào sân sau bắt đầu rút lui về phía Mudden. Với những dấu hiệu này, Sarah biết đây là giờ cô đọc sách. Cô lấy cuốn “ The Cloister and the Hearth “ ra đọc, đó là cuốn bán chậm nhất tháng, đặt chân lên rương, bắt đầu lang thang cùng với nhân vật chính Gerard trong truyện.

Chuông cửa kêu vang. Bà chủ trả lời. Sarah bỏ mặc Gerard và Denys ngồi cạnh một con gấu và lắng nghe. Ồ, đúng thế, bạn sẽ làm y như cô!

Rồi có một tiếng nói mạnh mẽ vang lên từ hành lang bên dưới, và Sarah phóng ra cửa, để mặc quyển sách nằm trên sàn nhà và ṿng đầu tiên dễ dàng thuộc về con gấu. Bạn đă đoán đúng. Cô chạy xuống đến đầu cầu thang cùng lúc anh nông dân của cô cũng chạy đến đấy, nhảy một bước ba bậc, gặt và thu hoạch cô, không c̣n để lại ǵ cho dân đi mót lúa.


Sarah nức nở:


- Tại sao anh không viết thư cho em? Tại sao thế?


- New York quả là một thành phố lớn, Walter Franklin nói. Tuần trước anh đến t́m em tại địa chỉ cũ. Lúc đấy anh mới biết là em đă rời đi hôm thứ năm rồi. Anh cảm thấy an ủi phần nào, v́ tránh được ngày Thứ Sáu xui xẻo. Nhưng nó cũng không ngăn anh truy lùng em cùng với cảnh sát và nhiều cách khác, kể từ ngày ấy.


Sarah cả quyết:


- Em có viết thư cho anh!


- Anh không hề nhận được.


- Thế th́ làm thế nào anh t́m được em?


Anh nông dân trẻ nở một nụ cười xuân:


- Tối nay anh ghé vào nhà hàng Home kế bên. Anh chẳng quan tâm ai biết món đó, vào mùa này trong năm anh chỉ muốn ăn một món rau xanh ǵ đấy. Anh lướt mắt qua bản thực đơn đánh máy lịch sự ấy để t́m món như thế. Khi anh đọc xuống qua món bắp cải, anh đánh bật cái ghế ngă chỏng chơ, lớn tiếng gọi ông chủ. Ông ấy cho anh biết em ở đây.

Sarah thở phào vui sướng:


- Em nhớ ra rồi. Đấy là món rau bồ công anh ghi dưới bắp cải.


- Anh nhận ra nét chữ W nằm cao hơn hẳn các chữ khác do máy đánh chữ của em tạo ra. Chắc đi đâu trên quả đất này anh cũng nhận ra nó!


Sarah ngạc nhiên:


- Sao thế? Trong từ “bồ công anh” không có chữ W!

Anh trai trẻ rút từ túi áo ra bản thực đơn, chỉ vào một ḍng. Sarah nhận ra đấy là bản thứ nhất cô đánh máy ban chiều: ở góc bên phải vẫn c̣n một vết nhoè nơi một giọt nước mắt của cô rơi xuống. Nhưng trên ḍng chữ nơi người ta đáng lẽ đọc được tên loại cây trên cánh đồng cỏ, tâm tư vương vấn về các nụ hoa vàng chói đă khiến các ngón tay cô gơ những phím chữ kỳ lạ.

Chen giữa hai món bắp cải và ớt xanh nhồi thịt là món:


“ WALTER YÊU DẤU NHẤT TRỘN TRỨNG LUỘC CỨNG ”.



THÂN TRỌNG SƠN
dịch và giới thiệu
( tháng 8 / 2024 )

 


Nguồn:
https://americanliterature.com/author/o-henry/short-story/springtime-a-la-carte/

 

 

art2all.net