Vơ Hương An
THĂNG LONG
VÀ
GIA LONG
T́nh
cờ, đọc thấy những ḍng này trên Bách khoa toàn thư mở Wikipedia.
Hà Nội
Năm 1802, khi nhà Nguyễn chuyển kinh đô về
Huế, nó lại được đổi tên thành Thăng Long, nhưng lần này chữ "Long" (隆) biểu
hiện cho sự thịnh vượng, chứ không phải là rồng, với lư do rằng rồng là tượng
trưng cho nhà vua, nay vua không ở đây th́ không được dùng chữ "Long" là "rồng"
(Trần Huy Liệu (chủ biên), Lịch sử thủ đô Hà Nội, H. 1960, tr 81).
(http://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%A0_N%E1%BB%99i#T.C3.AAn_g.E1.BB.8Di)
Tôi không có trong tay tác phẩm của Gs Trần
Huy Liệu, và mặc dầu ông đă thành danh từ lâu trong ngành Sử học, nhưng tôi
không dám tin kiến giải đó.
Một chút lịch sử
Phải đi ngược cả ngàn năm trước mới gặp tổ
tiên của Hà Nội ngày nay. Mùa thu năm Canh Tuất (1010), vua Lư Thái Tổ (Lư Công
Uẩn) dời đô từ Hoa Lư ( thuộc Ninh B́nh) ra thành Đại La, v́ đất Hoa Lư chật hẹp,
khó mở mang, và “Trẫm nay mở xem địa đồ, Đại La thành, kinh đô cũ của Cao
Biền, ở trung tâm đất nước [lúc bấy giờ], có h́nh thể như rồng ḅ hổ phục,
bốn phương sum họp, người và vật đông nhiều, thực là chỗ kinh đô quí nhất của đế
vương. Trẫm muốn nhân chỗ địa lợi ấy đóng làm kinh đô…
Khi “Thuyền ngự đến bên thành, có con rồng hiện ra . Nhà vua sai đổi tên
thành Thăng Long.” (Cương mục I, tr.285)
Từ đó, trải qua các triều Lư, Trần, Lê, Lê-Trịnh, suốt mấy trăm năm, tất cả đều
chọn Thăng Long làm kinh đô. Sau khi Bắc B́nh Vương Nguyễn Huệ dứt Lê-Trịnh, ông
đă không đóng đóng đô ở Thăng Long mà chỉ chọn Phú Xuân. Thăng Long được đổi gọi
là Bắc thành.
Sau khi Nguyễn Vương tái chiếm Phú Xuân vào
tháng 6/1801, đuổi vua Cảnh Thịnh (Nguyễn Quang Toản) và triều đ́nh Tây Sơn chạy
ra Bắc, các quan dâng biểu khuyên Nguyễn Vương lên ngôi và đổi niên hiệu; Ngày 1
tháng 5 năm Nhâm Tuất (1802), vua cho lập đàn tại đồng làng An Ninh, làm lễ tế
cáo trời đất; hôm sau, mồng 2 tháng 5, làm lễ kính cáo tổ tiên và chính thức ban
bố niên hiệu Gia Long 嘉隆 (tốt đẹp hưng thịnh). Nhà Nguyễn gọi ngày 2 tháng 5 là
ngày Hưng quốc khánh niệm, ngày quốc khánh của nước Việt Nam, Đại Nam,
cho đến năm 1945.
Tháng 7 năm 1802, vua Gia Long thu phục Thăng Long, chấm dứt triều Tây Sơn. Vua
đặt chức Tổng trấn Bắc thành, lấy thành Thăng Long làm lỵ sở để trông coi việc
cai trị 11 trấn của miền Bắc.
Mùa hè năm Gia Long thứ 4 (1805) vua ra lệnh đổi tên Thăng Long 升龍 thành Thăng
Long 升隆, nghĩa là đổi nghĩa của chữ Long. Các dịch giả Khâm định
Việt sử thông giám cương mục (gọi tắt Cương mục) của Viện Sử Học, khi dịch đến
chữ Thăng Long đă cẩn thận chú thích (1) Chữ “Thăng Long” đời Lư là “Rồng lên”,
khác với nghĩa chữ “Thăng Long” thời Gia Long là “Thịnh vượng”.
Quả ư nghĩa đúng như thế. Nhưng câu hỏi đặt ra ở đây là: nhà vua thay đổi chữ
long từ 龍 ra 隆 là v́ sao?
-V́ rồng là tượng trưng cho nhà vua, nay vua không ở đây th́ không được dùng
chữ "Long" là "rồng" như Gs Trần Huy Liệu đă giải thích chăng?
-Hay là v́ kiêng húy? Hay ǵ khác?
Nhà Nguyễn và vấn đề kiêng húy
Húy, là tên người chết, phải tránh đi, không
được nhắc đến. Đó là tập tục cổ truyền của người Việt, đi đến chỗ cưỡng hành ở
cấp quốc gia đối với nhà cầm quyền.
Với Nhà Nguyễn, mỗi triều vua đều có công bố những chữ húy và chỉ thị rơ ràng về
cách tránh. Vừa lên ngôi, năm Minh Mạng nguyên niên (1820) vua đă có lệnh cấm về
các chữ huư. Qua năm Minh Mạng thứ 6 (1825) lệnh này được lặp lại và nói rơ, nếu
ai vi phạm sẽ chiếu luật vi chế, xử tội nặng nhẹ tuỳ trường hợp. Những chữ này
được xếp vào loại quốc huư, nghĩa là cả nước phải kiêng.
- Có 5 chữ húy khi đọc th́ phải tránh ra
tiếng khác, khi làm việc th́ phải dùng chữ khác. Đó là Noăn (=
nhật 日+ viên 爰) đổi thành úc 澳 ; Chủng (= ḥa 禾 + trọng 重)
đổi thành thực 植 ; Ánh (= nhật 日+ ương 央) đổi thành
chiếu 照 (ba chữ này là tên vua Gia Long) ; Hiệu (= nhật 日+giao
交) đổi thành hạo 恔 ; Đởm, Đảm 膽 (= nhục 月 + nhiêm 髯) đổi
thành chữ phủ 腑 (hai chữ sau này là tên vua Minh Mạng).
-Có 4 chữ huư khi đọc, phải tránh ra tiếng
khác, khi viết văn, phải thêm nét vào, không được dùng để đặt tên đất, tên người.
Đó là Hoàn 環 đổi thành viên 圓 ;
Luân (= nhật 日+luân侖), đổi thành diệu 曜 ;
Lan 蘭
đổi thành hương 香; và Đang 璫 đổi thành
đương.
- Có 11 chữ huư, đồng âm khi làm văn không cấm nhưng trong dân gian nếu có ai
đặt tên trùng với những chữ sau đây th́ phải đổi và không được đặt tên người:
Kim 衿 (Nguyễn Kim), Hoàng 湟 ( chúa Tiên Nguyễn Hoàng),
Nguyên 源 (chúa Săi Nguyễn
Phúc Nguyên), Lan 澜 (chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan),
Tần 瀕 ( chúa Hiền Nguyễn Phúc
Tần), Thái (Trăn) 溱 (Chúa Ngăi Nguyễn Phúc Thái),
Chu 洙 ( chúa Minh Nguyễn Phúc
Chu), Thụ (Trú) 澍 ( chúa Ninh Nguyễn Phúc Thụ), Khoát 濶 (Vơ vương Nguyễn Phúc
Khoát), Hiểu 曉 (Thế tử Hiểu), Thuần 淳 (Định vương Nguyễn Phúc Thuần).
Quốc Sử Quán khi chép sử không được phép ghi tên thật mà phài ghi theo lối chiết
tự. Ví dụ : vua Gia Long tên là Ánh 映 th́ sẽ chép
húy của ngài bên tả có chữ
nhật日bên hữu có chữ ương 央 ; người đọc tự ḿnh ghép chữ sẽ biết ngay đó là chữ
ǵ.
Càng về sau chữ huư ngày càng nhiều. Kể từ đời Thiệu Trị (1841-1847) trở đi --
sau khi vua Minh Mạng ban bành Ngự chế mạng danh thi, chọn 20 tên viết với bộ
nhật để làm tên chính thức cho người làm vua, khắc vào sách vàng -- th́ một vua
Nhà Nguyễn có năm tên :
1. Danh tự : tên tự, tục danh, tên do cha mẹ đặt khi sinh ra;
2. Ngự danh : tên chính thức khi lên làm vua, lấy trong Kim sách ;
3. Niên hiệu : tên của triều đại ;
4. Thuỵ hiệu : tên đặt sau khi chết , dùng để khấn vái khi cúng tế;
5. Miếu hiệu : danh hiệu để thờ trong miếu và gọi trong sử.
Danh tự và ngự danh đều là trọng huư, phải tránh dùng và tránh gọi. Khi có vua
mới, Bộ Lễ có nhiệm vụ rà soát tất cả các địa danh trong nước, hễ thấy nơi nào
trùng với danh tự và ngự danh phải xin đổi ngay. Ví dụ : vua Thiệu Trị có tên
khi sanh ra là Dung, vua Minh Mạng cho tên mới là Tông, và có ngự danh là
Tuyền,
làm vua lấy niên hiệu Thiệu Trị. Vậy là cửa Tư Dung ở Thừa Thiên phải đổi làm
cửa Tư Hiền, các danh xưng nào có chữ Tông đều phải đổi lại thành Tôn (Lê Thánh
Tôn, Tôn Nhơn Phủ), ngay cả cái ấn Trị Lịch Minh Thời Chi Bửu đúc bằng bạc từ
đời Gia Long, rồi đúc lại bằng vàng đời Minh Mạng, dùng để đóng trên các cuốn
lịch do Khâm Thiên Giám soạn và ban hành hàng năm, cũng phải bỏ, đúc ấn mới, đặt
tên là Đại Nam Hiệp Kỷ Lịch Chi Bửu để thay thế, v́ ấn cũ có chữ Trị, phạm húy
Thiệu Trị.
Để tránh phạm huư, nhiều chữ đă được gọi khác đi. Ví dụ
Hoa đổi thành Bông, tỉnh
Thanh Hoa được đổi làm Thanh Hoá, cầu Đông Hoa đổi làm cầu Đông Ba v́ kiêng tên
bà Hồ Thị Hoa là thân mẫu của vua Thiệu Trị. Hồng đọc là
Hường, Nhậm đọc là Nhiệm v́ vua Tự Đức có tên là
Hồng Nhậm. Ngự danh của vua Tự Đức là
Th́ nên th́
phải đọc thành thời. Do sự bắt buộc phải kiêng húy này mà từ đời Tự Đức
(1847-1883) trở về sau người Việt đă phải dùng chữ
thời gian thay v́ nói th́
gian như trước kia ; và cũng từ đó tên Ngô Th́ Nhiệm trở thành Ngô Thời Nhậm,
v.v.
Sở dĩ người viết phải dài ḍng về việc kiêng huư dưới triều Nguyễn là để bạn đọc
thấy rơ việc kiêng húy đối với triều đại này quan trọng biết chừng nào, vậy mà
vua Gia Long đă sửa chữ Long trong Thăng Long với cách viết chữ
Long y như
niên hiệu của vua. Vua đă không kiêng, không bảo người ta kiêng, lại c̣n “đồ”
cho đậm nét thêm. Là sao?
Là sao? Sẽ trả lời sau, nhưng điều tôi có thể hiểu được là: vua đă không cần
kiêng húy th́ sá ǵ việc v́ rồng là tượng trưng cho nhà vua, nay vua không ở đây
th́ không được dùng chữ "Long" là "rồng" như Gs Trần Huy Liệu đă giải thích. V́
vậy, tôi không nghĩ lời giải thích kia là hợp lư.
Tâm tư và ước vọng gởi trong cái tên
Cha mẹ nào khi đặt tên cho con cũng muốn đặt vào đấy một chút niềm tin và hy
vọng nào đó dù có khi đặt tên là Út với một quyết tâm hạn chế sinh đẻ nhưng lại
“lỡ việc” mà sinh ra Út-1, Út-2 hay Út-nữa! Các nhà Nho xưa, khi chọn tên
tự và hiệu cho ḿnh cũng trầm tư nhiều lắm. Phan Bội Châu bôn ba nơi hải ngoại mấy
chục năm, một đời lo việc nước, ḷng vẫn canh cánh nhớ về tổ quốc nên lấy hiệu
Sào Nam, bởi chim Việt đậu cành Nam (Việt điểu sào nam chi). Huống chi là vua,
người tự nhận thừa mệnh trời chăn đắt muôn dân. Biết bao là tâm tư và ước vọng
muốn gởi vào đó. Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Dục Đức, Hiệp Ḥa, Kiến
Phước, Hàm Nghi, Đồng Khánh, Thành Thái, Duy Tân, Khải Định, Bảo Đại, mỗi niên
hiệu là một tuyên ngôn, một kỳ vọng, một sự cô đọng ư nghĩa của biết bao sách vở
thánh hiền.
Trong sự hiểu biết hạn hẹp của người viết, chưa t́m thấy một tài liệu chính thức
nào của triều đại giải thích về ư nghĩa của mỗi niên hiệu. Chỉ có một lần, sau
lễ đăng quang của vua Khải Định vào ngày 18/5/1916, ông Đặng Ngọc Oánh, Tham tri
Bộ Lại, Tổng lư Viện Cơ mật, có viết một bài tường thuật tỉ mỉ lễ đăng quang này,
trong đó kể chi tiết việc vua chọn niên hiệu. Theo đó, ngay hôm Phụng Hóa Công
Bửu Đảo nhập cung (16/5/1916), các quan Nội Các đă lo t́m những chữ có ư nghĩa
tốt, liệt kê ra và tŕnh lên để tân quân lựa chọn làm niên hiệu của triều đại
mới. Một bản sao cũng được gởi đến Hội đồng Thượng thư để các vị ấy xem xét.
Ngay hôm đó Nội Các báo cho Hội đồng Thượng thư biết rằng trong danh sách dâng
lên, hai chữ Khải Trung đă được chiếu cố, nhưng tân quân dùng bút son khoanh
tṛn chữ Khải, gạch bỏ chữ Trung, và thay vào đó bằng chữ
Định . Như vậy, ư của
tân quân là muốn chọn hai chữ Khải Định 啟 定 -- có nghĩa là khởi đầu một thời
thanh b́nh và ổn định của đất nước -- để làm niên hiệu. Tác giả Đặng Ngọc Oánh
cũng dẫn hai câu trong sách xưa để cho biết hai chữ
khải định xuất xứ từ đâu.
(Đặng Ngọc Oánh, tr.7)
Thử đọc lại chiếu ban bố niên hiệu Gia Long:
“Ta nghe kinh Xuân Thu trọng nghĩa nhất thống là để chính danh nghĩa khi mở đầu.
Từ Tiên Thái Vương ta [chúa Tiên Nguyễn Hoàng] dựng nền ở miền Nam, thần truyền
thánh nối đă 200 năm. Gần đây Tây Sơn nổi loạn, vận nhà Lê đă hết, hơn vài mươi
năm trong nước không có chính thống. Ta phải xiêu dạt một nơi, rất lo nghĩ về
miếu xă và sinh dân. Nằm gai nếm mất , mong sao cho được yên vui. Năm Canh tư
[1780] ta mới ở thành Gia Định, được các tướng sĩ suy tôn, đă lên ngôi vương để
giữ ḷng người. Duy đô cũ chưa phục, nên c̣n theo niên hiệu cũ. Nay ơn trời giúp
đở, các thánh để phúc, bờ cơi cũ đă lấy lại, cơ nghiệp xưa đă trở về, các quan
văn vơ tại triều dâng sớ chương khuyên ta lên ngôi hoàng đế và đổi niên hiệu.
Nhưng ta nghĩ rằng giồng giặc chưa trừ xong, đất nước chưa thống nhất, không nên
vội lên ngôi tôn. Duy cứ theo niên hiệu đă qua [niên hiệu của nhà Lê] mà thi
hành những lệnh đổi mới th́ không phải là nêu rơ được khuôn phép. Vậy nên chuẩn
lời xin đặt niên hiệu, định lấy ngày mồng 1 tháng 5 năm nay kính cáo trời đất,
ngày hôm sau kính cáo liệt thánh [các chúa Nguyễn], chép niên hiệu là Gia Long,
để thống nhất kỷ cương, làm mới tai mắt…” (Thực lục I,2002, tr.491)
Rơ ràng tờ chiếu không có một giải thích nào về lư do chọn hai chữ Gia Long,
ngoại trừ cái nghĩa thông thường giàu đẹp hưng thịnh mà trong một đất nước lấy
chữ Hán làm văn tự chính thức th́ hầu hết ai cũng có thể hiểu được.
Vua Gia Long là một người có khí độ khác người. Không kể cái đức kiên tŕ chiến
đấu ṛng ră 25 năm, trải qua bao hiểm nguy và gian khổ để phục hồi cho được cơ
nghiệp của tổ tiên, vua c̣n có nhiều suy nghĩ và quyết định không giống thói
thường. Ví dụ không cho tổ chức sinh nhật rườm rà. Ngày xưa tuổi thọ ngắn ngủi,
v́ vậy vua nào đến tuổi 40 tuổi hay 50 cũng tổ chức
Tứ tuần đại khánh, Ngũ tuần
đại khánh với biết bao huy hoàng tốn kém để ăn mừng tuổi thọ, nhưng vua Gia Long
th́ không; các quan năn nỉ xin làm cũng từ chối, bảo làm như sinh nhật thường lệ.
Năm vua 40 tuổi (1801) th́ đang c̣n bận đánh nhau với Tây Sơn, chưa yên tâm để
hưởng thụ, điều này dễ hiểu. Nhưng khi vua được 50 tuổi (1811) th́ đất nước đă
thống nhất, Tây Sơn đă hoàn toàn tuyệt diệt, vua đă chính thức lên ngôi hoàng đế
năm 1806, vậy mà cũng không; có vẻ như không thích sự xa xỉ, nhọc sức dân. Một
ví dụ khác, khi vua mất, táng chung một chỗ với hoàng hậu, hai ngôi mộ nằm sờ sờ,
đơn giản, giữa thanh thiên bạch nhật, chẳng giấu diếm ngụy trang ǵ cả v.v.
Bên cạnh những quyết định khác người đó, ít ra vào buổi đầu của triều đại, cũng
có ba việc vua Gia Long đă hành sử theo một cung cách giống nhau cho ta thấy lối
tính toán lâu xa và ăn chắc của nhà vua mà chẳng bao giờ vua hé môi một lời giải
thích. Chẳng hạn Đông cung Cảnh mất năm 1801 nhưng măi đến năm 1816 mới lập
Hoàng tử Đởm lên làm Đông cung, dù triều thần đề nghị nhiều lần (1). Vua dư biết
triều thần đang chia làm hai phe, phe ủng hộ cháu đích tôn của vua (Hoàng tôn Mỹ
Đường, con Đông cung Cảnh) làm Thái tử, và phe ủng hộ Hoàng tử Đởm (vua Minh
Mạng). Một sự quyết định vội vàng khi chưa nắm vững t́nh h́nh có thể gây biến
loạn trong triều. Lại một ví dụ khác, vua ban bố niên hiệu từ năm 1802 mà măi
đến năm 1806 mới lên ngôi hoàng đế. Để chi lâu vậy? Hăy xem từ 1802 đến 1806, đă
có những thành tựu ǵ từ bên trong đến bên ngoài th́ biết ngay vua chuẩn bị mọi
điều kiện chu đáo như thế nào. Năm 1804, nhận sắc phong cùa Nhà Thanh, rồi đặt
quốc hiệu Việt Nam, lo xây các miếu để thờ tổ tiên, xây cung Trường Thọ cho
Hoàng Thái hậu, xây điện Cần Chánh để làm việc, xây hoàng thành, cung thành. Qua
năm 1805 xây điện Thái Ḥa, xây Công thự văn, Công thự vơ cho các quan có nơi
hội họp làm việc. Khi trong ngoài đâu vào đấy th́ lễ đăng quang diễn ra vào năm
1806 là phải.
Cũng một cung cách như thế khi vua tiến hành đổi Thăng Long 升龍 thành Thăng
Long 升隆.
Đừng nghĩ đơn giản rằng với uy quyền của vua th́ đổi một chữ nào có quan trọng
ǵ. Đàng sau chữ Thăng Long là cả một chuỗi dài lịch sử hàng mấy trăm năm cùa
bao triều đại, một dấu ấn khó phai trong ḷng người dân Bắc hà. Đổi th́ có lẽ
vua muốn đổi từ 1802 kia cho phù hợp với niên hiệu của vua nhưng chưa đến lúc
nên phải nấn ná một thời gian.
Sao lại nói rằng cho phù hợp với niên hiệu của vua? Xin hăy để ư đến chữ Gia 嘉
trong niên hiệu Gia Long. Chữ Gia này và Gia Định 嘉定 cùng một cách viết, một ư
nghĩa. Như đă nói, bao hàm trong cái tên hay danh hiệu là một tâm tư và ước vọng,
là một tuyên ngôn cô đọng. Tái chiếm được Phú Xuân vào năm 1801 tuy là một thành
công lớn trên bước đường phục hưng cơ nghiệp tổ tiên nhưng đó chỉ mới đi được
2/3 đoạn đường trên toàn bộ con đường ước vọng của Nguyễn Vương trong một đất
nước mà người chủ lâu năm là Nhà Lê đă hết thời.
Vương muốn rằng Vương phải là
người đầu tiên thống nhất nước Việt, khởi đi từ Gia Định thành tới Thăng Long
thành, nên mới cố t́nh lấy chữ đầu của Gia Định ghép với chữ cuối của Thăng Long
để thành hai chữ Gia Long làm niên hiệu.
Nhưng Gia mà đi với Long có nghĩa là rồng, bề ngoài, chỉ nghe cái thanh âm cũng
tàm tạm được, nhưng đi vô chữ nghĩa th́ chưa ổn. V́ thế, nấn ná đến năm 1805 mới
đổi Long là rồng thành Long là hưng thịnh cho thật thích hợp hoàn hảo. Vua chỉ
ra lệnh đổi chữ Long sau khi cho xây lại thành Thăng Long to rộng hơn vào năm
1803 trên địa phận huyện Thọ Xương phủ Hoài Đức, lại xây mới 5 cửa ô vào năm
1804 với tên mới, chưa kể bên trong xây kỳ đài, dựng hành cung, làm nhà tả hữu
vu,v.v , nghĩa là một Thăng Long mới từ vật chất (xây mới) đến tinh thần (đổi ư
nghĩa chữ long) nhưng vẫn không làm mất dấu ấn lịch sử.
Nói tóm lại, trong niên hiệu Gia Long 嘉隆, thông qua việc đổi ư nghĩa chữ Long
trong cái tên Thăng Long cho phù hợp với niên hiệu, vua Gia Long đă muốn đưa ra
một tuyên ngôn ngắn gọn: tôi là người đầu tiên trong lịch sử đă đi từ Gia Định
thành đến Thăng Long thành để hoàn thành cuộc thống nhất nước Việt sau bao nhiêu
năm bị chia xẻ.
VƠ HƯƠNG-AN
San Jose, 7/08
______________
Tài liệu tham khào:
-
http://vi.wikipedia.org/wiki/Hà_Nội#T.C3.AAn_g.E1.BB.8Di
- Đại Nam Thực Lục I, (gọi tắt Thực lục) bản dịch của Viện Sử Học, nxb Giáo Dục,
Hà Nội, 2002
- Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục (gọi tắt Cương mục) bản dịch của Viện Sử
Học, nxb Giáo Dục, Hà Nội, 1998
- Đặng Ngọc Oánh, L’Intronisation de l’Empereur Khải Định, Bulletin des Amis du
Vieux Hue, No1, 1916, tr.7
(1) Xem Vơ Hương-An, Vụ án Mỹ Đường, Tuyển tập Nhớ Huế, California, 2007
art2all.net |