|
HUỲNH KIM BỬU VÀ TIẾNG HẠC BAY TRÊN D̉NG SÔNG CÔN
Giữa khu vườn thơ văn bề bộn, hoa và lá đua chen, hai quyển sách của Huỳnh Kim Bửu xuất hiện với một phong cách đặc thù, một giọng nói riêng đă vẽ lên một tâm cảnh rất khác. Thoạt nh́n, tôi chú ư ngay đến tựa của hai tập sách: “Nơi con Sông côn chảy qua” và “Trong như tiếng hạc bay qua” - cả hai đều có một chữ qua - Có thể đó chỉ là một t́nh cờ, có lẽ không phải là dụng công của tác giả, nhưng tôi thấy thật thú vị v́ hai chữ qua đó đều nói về quá khứ, về một thời đă mất... Thật thế, nhẩn nha đọc khi c̣n ở Milano (Ư ) những trang viết của Huỳnh Kim Bửu đă đưa tôi quay về hồi ức, lội ngược thời gian… ...Gần bốn mươi năm sống ở nước ngoài, khi bước vào những trang sách của ông tôi như bất ngờ trở lại quê ḿnh. Tôi như vừa nh́n thấy một bụi chuối sau vườn, chợt bắt gặp một ánh trăng soi trên đỉnh tháp hay có khi nghe tiếng gà gáy sáng… rồi có lúc lại tưởng như ḿnh đang dạo bước giữa không gian thoang thoảng hương sen, thần trí mơ hồ, không biết từ đâu vừa vẳng lên một tiếng chuông chùa. Chuông dội lại trong ḷng, không lớn lắm, nhưng ngấm sâu và đánh thức những kỉ niệm tuổi thơ. Như ngọn đèn mờ bỗng dưng loé sáng. Những áp lực của cuộc sống trời Tây dường như không c̣n nữa. Những bon chen, phù phiếm bay đi đâu hết. Trong tôi chỉ c̣n nghe một thứ rung cảm kỳ bí. T́nh quê. Lật tiếp những trang sách, tôi thấy nhiều những đoạn văn hay, những chi tiết thật thú vị bất ngờ về cuộc sống của một thời quá văng ngay trên chính quê hương ḿmh mà tôi c̣n chưa biết... Những cô gái mài vỏ ốc cẩn xà cừ, bôi một thứ phẩm xanh để ngừa nước ăn da nên ra đường phải giấu hai tay trong nếp áo. Hay ông lăo kỳ lạ, câu cá chỉ v́ phải ăn để sống, chứ bữa nào dùng không hết th́ ông lại đem ra bến để trả cá về với sông. Huỳnh Kim Bửu cảm nhận thời tiết qua phẩm vật mùa màng, dựa vào cây trái và hoa lá để minh chứng là B́nh Định quê ông cũng có đầy đủ bốn mùa chứ không phải chỉ hai mùa mưa nắng. Mùa Xuân: chuối, bưởi cam; hoa mai, hồng, vạn thọ. Mùa Hè: xoài, mít; hoa phượng, sen đầm; MùaThu: mận, nhăn lồng; hoa cúc. Rồi Mùa Đông: lại quay về với chuối; c̣n các thứ hoa th́ vàng úa, tàn tạ, chỉ c̣n hoa giấy phất phơ trong cảnh gió mưa...
Nhẩn nhơ dạo chơi theo từng trang sách tôi không khỏi có cảm giác
như đang ngồi bên chiếc vơng nghe ông đong đưa kể chuyện, rồi khi
buông xuống, chợt thẫn thờ v́ cảnh và người trong chuyện đă vời vợi
xa, không c̣n nữa. Ḷng vời vợi buồn v́ những chuyện đổi thay h́nh
như không theo lẽ tự nhiên, kiểu làn sóng sau thay làn sóng trước...
mà cảnh cũ mất đi v́ những áp đặt của con người. Thời buổi “toàn cầu”,
ḷng tham cũng theo đó được toàn cầu hóa, ai nấy sục sôi chạy đua
làm giàu bằng mọi giá, kỹ thuật được vận dụng tối đa, tài nguyên
được khai thác tận lực…Cảnh quan tươi đẹp của đất nước, của các vùng
quê thanh b́nh ngày càng bị xé nát, thay vào đó là sự hỗn độn, khô
cứng đến vô hồn, cuộc sống trở nên vật vờ và giả tạo. Giọng điệu ấy thật khác với rừng rừng chữ nghĩa, chạy theo bút pháp này, trường phái kia, từng làm tôi hoa mắt trước nhiều quyển sách “lạ”, tin theo những lời giới thiệu có cánh, những bài phê b́nh ngoại giao, phe nhóm rồi mua về, đọc đi đọc lại mà không biết tác giả muốn nói ǵ. Ở đây, trong hai quyển sách của Huỳnh Kim Bửu, tôi gặp lại những áng văn b́nh dị, không cầu kỳ hay xun xoe chữ nghĩa… nhưng những câu chữ như có mang chút ánh sáng lấp lánh, soi chiếu những miền kư ức, gợi nhớ những kỷ niệm tưởng đă quên lâu và ch́m khuất sau lớp bụi dày của thời gian.
Rơ ràng cách tân ǵ th́ cách tân, văn học không thể chỉ chạy theo
bút pháp mới lạ, nhưng nghèo ư tưởng, duy lư đến khô cứng, rời bỏ
cảm xúc, thiếu đi nỗi ḷng của con người khi nh́n thế sự đổi thay. Ngôn ngữ của HKB giản dị, trong sáng, dùng nhiều từ địa phương mộc mạc, giàu h́nh ảnh, giàu cảm xúc, pha trộn với nhiều từ ngữ và h́nh ảnh cổ điển của Đường thi khiến văn ông vừa gần gũi dễ đọc vừa có chút chiêm nghiệm, chất triết lư nhân sinh nhẹ nhàng khiến ta phải suy nghĩ. Điều này cũng không lạ, nếu biết ông đă qua tuổi thất thập. Những vầng dương, nhật nguyệt, bóng hạc, tà dương, hưng phế... trở đi trở lại nhiều lần... tạo không khí hoài cổ của người có tuổi thường ngoái lại đằng sau hơn là nh́n về phía trước. Hăy nh́n qua mắt ông: “Không c̣n những ngọn khói lam chiều toả lên từ những mái tranh, không c̣n những ngả ba sông mênh mông bát ngát với những đ̣ chiều tấp nập v́ ḍng sông mỗi ngày mỗi cạn..” (Kỷ niệm chiều). Hay cảm theo ông giữa lúc hai màu vàng đen của bầu trời sắp hoà nhập, trộn lẫn vào nhau khi chiều muộn: “Chiều sẫm tối, có chàng trai trẻ bách bộ trên đường phố, hồn trí bâng khuâng với cảnh trời chiều, bỗng nghe một làn hương sực nức từ đâu đưa lại: mùi dạ hương sớm toả...”(Chiều) Câu chữ giản dị nhưng không kém phần bóng bẩy. Bằng những con chữ đơn giản nhưng ông diễn tả được những điều tinh tế có sức lay động ḷng người. Trong hai quyển sách có không ít những đoạn làm người đọc lâng lâng: “Người đứng trên cầu Phụ Ngọc nh́n ra xung quanh thấy mặt trời đang lặn trên ngă ba sông; những hôm có ráng chiều màu nước sông Côn nhuộm màu ráng đỏ, rồi cái màu ráng đỏ cùng sông mà trôi đi biền biệt...” “Mỗi sáng sớm, chủ nhà thức dậy, đun ấm nước rồi ra trước hiên lai, hái vài hoa hồng tường vi nở trong đêm. Cho trà búp Đài Loan, cho hoa vào b́nh, rót nước sôi vào hăm giây lát là có được một b́nh trà ngon hảo hạng. Bưng kỷ trà toả hương đặt trên chơng, ngồi ngó ra sân c̣n đặc sương mai, uống trà với tâm thế người chào đón buổi b́nh minh.”(Chơng tre) Thế nhưng những trang văn của ông không chỉ có cái nh́n hoài cổ. Có lúc ông cũng dí dỏm, đang nói về chuyện “nhập tâm mắm” rồi bỗng ví von, khen con gái có cái “duyên mặn mà.” Cái vị mặn của mắm tương hoà với nét đẹp mặn mà của cô gái quê chân chất, hiền hoà, sống rất thực, trọn đời hy sinh v́ chồng con, gắn đời ḿnh vào cuộc hôn nhân bền bĩ, thách đố thời gian. Ông quan sát tinh tế đến từng chân tơ kẽ tóc về những điều thường hằng hiện ra trước mắt mà với ta không lưu giữ chút ǵ trong trí nhớ. Hăy nghe ông tả cô gái bán bánh ḿ trên đường Tăng Bạt Hổ, Qui Nhơn: “Tay cô con gái thon búp măng, đeo nhẫn, cầm con dao Thái Lan thái chả, thái thịt thái rau, rồi cũng bàn tay ấy rạch ổ bánh ḿ, kẹp thịt chả, kẹp dưa leo, cọng hành ng̣ xanh, lát ớt cay màu đỏ tươi, xịt nước tương vào ổ bánh, rồi đặt ổ bánh vào tờ giấy, cuộn lại, trao bằng hai tay hai mắt cho người khách đang vui vẻ đợi. Tất cả các động tác của cô bán hàng đều rất thành thạo, rất lịch sự, nhịp nhàng, khiến tôi nghĩ đến điều: cô ta đang làm theo một điệu nhạc rất du dương trong ḷng ḿnh”.(Ổ bánh ḿ nóng gịn).
Chao ôi! Phải có một tấm ḷng yêu thương cuộc sống và con người biết
bao mới khiến ông có thể trải lên giấy những trang văn đẹp đẽ và
thiết tha đến thế về con người, về những công việc hết sức b́nh
thường . Người lưu giữ và qua từng ấy thời gian có thể dễ dàng truyền lại một cách tươi nguyên những mùi vị đó chắc hẳn phải là người có cảm xúc dạt dào và mang trong ḷng một t́nh yêu quê hương nồng thắm. Có lẽ v́ thế mà sau khi đọc Nơi con sông Côn chảy qua, một bạn văn của tôi đă không đắn đo gọi HKB là một Sơn Nam của B́nh Định? Cũng như bạn, đọc HKB, tôi có cảm giác là t́nh yêu quê hương B́nh Định của ông, vác trên vai 70 năm qua, như một phần xương thịt của chính ḿnh. Những vùng đất, những con người, tập tục, những màu sắc và mùi vị của những đồ vật sắp sửa biến đi... ông câm lặng nh́n, câm lặng nghe rồi đêm đêm, câm lặng chong đèn viết lên tiếng kêu luyến tiếc cho chính ḿnh nghe. Tiếng kêu ấy bây giờ vọng lại, từ trang giấy chuyển tải đến chúng ta, đi t́m người đồng cảm.
Tôi tin có rất nhiều người đồng cảm với ông dù họ ở đâu trên thế
giới này, miễn họ là người Việt. Và tôi hẳn nhiên là một trong số ấy.
Theo ḍng sông Côn, những trang viết lặng lẽ của HKB đưa người đọc
trở về chốn yên b́nh của một thời. “Mấy mươi năm rồi, tôi c̣n nhớ
như in h́nh bóng lăo Thận ngồi câu quẹt ở gần bến sông… Bữa nào cá
nhiều, ăn không hết, chiều xẩm ông đem ra bến sông thả xuống gọi là
“phóng sanh”, để rồi sáng hôm sau lại ra bến sông câu lại từng con
một trong cảnh chim trời cá nước. Tôi nhớ ông như nhớ một con người
kỳ lạ, có ḷng từ tâm, c̣n chuyện đi câu chẳng qua là v́ miếng ăn
của ông bị thiếu…” (Những con sông quê ơi!)
V́ vậy, tôi thích gọi HKB là nhà văn Việt Nam, không chỉ viết riêng
cho B́nh Định; dù cả đời ḿnh HKB ít có dịp đi xa, “nhích” đến những
vùng đất lạ. Cả đời ḿnh hầu như ông chỉ quanh quẩn “Nơi con sông
Côn chảy qua”, hoàn cảnh cá nhân buộc ông phải thuỷ chung sống chết
với vùng đất ấy; mà vùng đất ấy cũng chính là đất thiêng, đất của
nghĩa khí Tây Sơn “áo vải cờ đào”… Ông yêu người dân “thàng hậu” quê
ông tha thiết, t́nh yêu đó tan chảy vào máu thịt đến độ khả kiến mà
bất kỳ ai, là con dân “Xứ Nẫu” hay không, đọc ông viết về những ǵ
đă qua hơn nửa thế kỷ cũng đều dễ dàng nhận thấy phong cách và ḷng
yêu đó. Xă hội hôm nay có quá nhiều sản phẩm, kể cả văn chương, để người tiêu dùng ăn ngấu nghiến, ăn vô tội vạ và rồi nhanh chóng vứt bỏ như xóa “1 file” trong bộ nhớ. Những kẻ háo danh chỉ muốn làm điều lập dị, cố gây đ́nh đám... để mau nổi tiếng, mấy ai bỏ thời gian để viết những điều chẳng mấy “thời thượng” này. V́ thế tôi nghĩ sự xuất hiện của những quyển sách quư, giúp ta lưu giữ những kỷ niệm và giá trị truyền thống, rất đáng nghiêng ḿnh kính trọng.
V́ không ai h́nh dung được một xă hội sắp đến sẽ quái gỡ ra sao nếu
chỉ toàn những người làm kinh tế lừa đảo, chộp giật, mánh mung hay
những người cầm bút viết lên những trang văn vô cảm, nhạt nhẽo,
không hề quan tâm đến người đọc. Hay chỉ quan tâm đến những tin lộ
hoàng, khoe thân xác... để kích động ḷng tham muốn thấp hèn. Khơi
dậy bản năng xấu nhất. Để đánh thức phần CON, bóp chết phần người...
[1] (Nhà xuất bản trẻ - 2009) [2] (Nhà xuất bản Hội Nhà văn - 2011) [3]Thế kỷ X là thành Đồ Bàn, kinh đô Chiêm Thành, sau đổi tên là thành Hoàng Đế, đế kinh của vua Thái Đức, Nguyễn Nhạc, triều Tây Sơn.
_____
Mời đọc thêm : Thầy Giáo, Bạn Văn ( Trương Văn Dân) Blog Sông Côn ( Huỳnh Kim Bửu)
|