|
Nguyễn Phúc Vĩnh Ba
VĂN BIA KHU TƯỞNG NIỆM NHÀ LAO AN NAM Ở GUYANE
Thương ơi! V́ nước quên ḿnh; Đày thân đất khách. Ngàn thu gương trung nghĩa, rạng rỡ non sông, Muôn thuở chí quật cường, chói loà sử sách. Ḍng Hồng giống Lạc, bốn ngàn năm c̣n nối tiếp nơi đây, Tiếng Việt người Nam, mới thế kỷ sao đoạn đành phân cách?
Nhớ tiền nhân, Sinh ra trong thời tao loạn, miền miền khói lửa, núi sông vương nạn ngoại xâm, Lớn lên giữa buổi can qua, xứ xứ đao thương, đất cát gặp hồi chia cắt. Vốn đâu phải binh cơ lính lệ, chẳng qua v́ yêu nước thương ṇi, Dẫu chỉ là thợ mỏ dân cày, không cam nỗi thờ gian theo giặc. Căm đế quốc gông xiềng dân tộc, thêm những triều đ́nh vô lực, nên vùng lên đánh đổ bạo quyền, Hận thực dân giày xéo giang sơn, mà mấy quan lại nhẫn tâm, bèn họp lại trừ tiêu nghịch tặc. Rừng Yên Thế1 sơn lam chướng khí, có ai nề gian khổ, lập chiến khu hào luỹ sát san, Đất Đông Kinh2 đô hội phồn hoa, nào kẻ tiếc công lao, mở nghĩa thục học sinh đầy đặc. Nơi đánh Pháp bằng gươm bằng súng, năm qua rồi tháng lại, Pháp cũng phải kinh, Chốn đuổi Tây với bút với nghiên, trẻ học có già bày, Tây đà phát ức. Lớp lớp tưng bừng nổi dậy, lập đoàn kết đảng, bọn Lê dương đàn áp thẳng tay, Nhà nhà hừng hực đấu tranh, băi thị đ́nh công, lũ Mật thám ŕnh ṃ méo mặt. Vừa mới vụ Hà thành đầu độc3, cai đội c̣n run, Lại xảy cuộc Thuận Hoá4 chống sưu, cẩm c̣ bạc tóc. Chủ mộ phu Bazin5 bỏ mạng, súng nổ vang tan nát giấc mơ tiền, Lăo quan thầy Merlin6 suưt tiêu, bom tung toé ngỡ xong đời thằng ác.
Đau đớn thay! Đề Thám, Đ́nh Phùng, Đội Cung, Thái Học, bao nhiêu lần khởi nghĩa không thành, Cần Vương, Dân Đảng, Nghĩa Thục, Văn Thân, mấy mươi cuộc mưu đồ đều bại. Tận tâm v́ đại nghĩa, tiếc chỉ nhờ gươm súng thô sơ, Chí nguyện quá trung trinh, hận một nỗi tay chân mềm mại. Nghĩa binh mấy vạn, dù tan thây quyết chẳng gươm buông, Chí sĩ hằng trăm, vẫn phanh ngực cho dù đạn tới. Pháp sục lùng truy bắt, phần th́ giam Côn Đảo, Hoả Ḷ, Tây tàn sát trả thù, nhóm bị giết Nghệ An, Yên Bái. Lao Bảo, Sơn La, rừng sâu nước độc, đâu lao tù chứa đủ kẻ trung can, Guyane, Tahiti, đất khách quê người, bao hoang đảo chật ních người khẳng khái. Thảm thiết bấy, phận tù nhân cách mạng, sống cực mà sống chẳng ra người, Khủng khiếp thay, cơi địa ngục trần gian, chết thảm đó chết nào ấm xác. Cơ gân teo giống bầy ngạ quỉ, cùm xích khổ sai, Xương da bọc như lũ hung ma, roi đ̣n lao tác. Khi làm đường, khi phá núi, đày đoạ cho tóc rụng răng rơi, Lúc chặt gỗ, lúc đăi vàng, hành hạ đến máu khô thịt nát. Rừng xanh là bạn, rặt muỗi ṃng mù mịt trăm nơi, Chuồng cọp ấy nhà, không mái lợp quẩn quanh mấy thước.
Ôi thôi! Xót mấy th́ vừa; Kể sao hết được. Sống tha phương gầy ṃn thân xác, nhớ quê nhà đau đáu, mơ ngày về tiếp cuộc diệt thù, Yêu Tổ quốc rắn rỏi tinh thần, thương làng xóm tiêu điều, đợi thời đến góp công dựng nước. Ông mất rồi cha mất, trái tim nào chịu trọ đất ly hương, Con c̣n lại cháu c̣n, chùm ruột vẫn măi t́m trời bản quốc.
Trộm nghĩ, Công quá trời nam; Khổ tày biển bắc. Các tiền bối quên ḿnh v́ nghĩa, chịu gian lao chẳng chút khuất thân, Phường hậu sinh uống nước nhớ nguồn, hưởng hạnh phúc dám đâu phụ bạc. Ḷng thệ nguyện noi gương hào kiệt, c̣n sống c̣n bảo vệ sơn hà, Chí kiên tŕ học đấng anh hùng, mỗi việc mỗi chấn hưng xă tắc.
Nay, Ngưỡng mộ anh linh liệt sĩ, nhang đốt trầm xông, Kư biên tiên tổ huân công, bia xây chữ tạc. Nhất nhất tâm thành, Đồng ḷng phụng lập.
Vĩnh Ba Huế - Tháng 5/2008
Chú thích:
1. Yên Thế: Một huyện rừng núi thuộc Tỉnh Bắc Giang, nơi Hoàng Hoa Thám lập chiến khu từ tháng 4.1892 2. Đông Kinh nghĩa thục: Một trường tư thục do các sĩ phu Bắc Hà thành lập tại Hà Nội từnăm 1907 đến 1908 nhằm truyền bá chữ quốc ngữ và các tư tưởng nhân quyền, dân chủ, tự do… Đứng đầu trường này là Lương Văn Can, Nguyễn Quyền, Phan Chu Trinh… 3. Vụ đầu độc lính Pháp tại Hà Nội do Hoàng Hoa Thám tổ chức ngày 27.6.1908. 4. Cuộc biểu t́nh chống sưu thuế xảy ra ở Huế năm 1908 có Hồ Chủ tịch tham dự. 5. Trùm mộ phu Bazin bị xử tử bởi các đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng tại Chợ Hôm, Hà Nội ngày 06.02.1929. 6. Toàn quyền Đông Dương Merlin bị Phạm Hồng Thái ném bom mưu sát hụt tại Quảng Châu ngày 18.6.1924.
|