Nguyễn Phúc Vĩnh Ba

Văn tế Âm hồn Thất thủ kinh đô (23.5. Ất dậu)

 

Than ôi!

Tim óc bùi ngùi,

Ruột gan tê tái.

 

Hơn thế kỷ trôi qua trước mắt, anh linh thiên cổ còn đây,

Mấy bi thương chất kín trong lòng, hương hoả tứ thời ngát mãi.

Nhớ Ất Dậu Kinh thành thất thủ, đám sanh linh phải bao nỗi thương vong,

Nay Mậu Tý Thuận Hoá thanh bình, phường tử đệ vẫn một niềm ái ngại.

Dẫu biết lẽ tử qui sinh ký, đời ngắn tấc gang,

Nhưng xét hồi quốc phá thân vong, nghĩa dài sông núi.

Phận cháu chắt tháng ngày nhớ tưởng, lòng kính yêu dễ mấy nguôi khuây,

Tình bà con hôm sớm quẩn quanh, bụng nuối tiếc khó mà bỏ trái.

Trước thưa sau gởi, đỉnh kỳ trầm hương khói vọng tiền nhân,

Xưa bày nay làm, lễ truy điệu cỗ bàn hầu trưởng bối.

 

Nhớ linh xưa:

Năng nỗ tháng ngày; Dịu dàng sớm tối

Ham việc ham công, ham đồng ham ruộng, trai cuốc cày gắng sức chăm lo,

Vui vườn vui tược, vui cửa vui nhà, gái bếp núc hết lòng vun xới.

Có đâu biết nước nhà cơn hoạn nạn, lũ Tây dương qua lấn chiếm giang sơn,

Không may thay làng xóm trận can qua, đất Nam quốc hẹp thu dần biên giới.

Ách thực dân đè cổ, ngẩng cổ lên nào thấy trời mây,

Xiềng đô hộ tróng đầu, cúi đầu xuống chỉ là đá sỏi.

 

Thân mấy mà cam,

Lòng đâu chịu nỗi.

Từ nam chí bắc, mấy lớp nghĩa binh thua trận, quân Văn thân vẫn quyết chí chẳng lùi,

Trong phủ ngoài triều, bao viên mãnh tướng bỏ mình, lính Phấn nghĩa chẳng nề tâm xông tới.

Rựa sắt kiếm cùn, hoả mai con cúi, giết được thù cho thoả dạ hiếu trung,

Dao tu mã tấu, gậy gỗ tầm vông, phá tan giặc là mát lòng địch khái.

Vua nước mất phẫn uất đời nô lệ, họp mưu thần lập kế phản công,

Dân  nhà tan thù hận kiếp tôi đòi, kết nghịch đảng hợp đoàn quật khởi.

Đêm Hăm hai súng thần công nã Chánh toà Khâm sứ, bẽ bàng thay thuốc yếu rơi ngang,

Rạng Hai ba quân hoả dược đốt Tiểu trấn Bình Đài1, oái ăm thật lửa tàn tắt vội.

Lang sa lê dương2 tiên phong vô Thượng Tứ3, săng-đá giày4 dẫm nát mù u,

Mã tà ma ní5 hậu tập vượt Lương Y6, bụp-xoà súng7 bắn tiêu cai đội.

Hoảng hốt quá, vua xuất cung tị loạn, đa đoan thê tử quân thần,

Bàng hoàng thay, dân tẩu lộ cầu sinh, lộn xộn lão nhi phường hội.

 

Thảm ơi hỡi thảm!

Thành cửa nhỏ đâu dễ lòn,

Hào đáy sâu sao khó lội.

Dân tan tác như ong vỡ tổ, đạp lên nhau già trẻ chết chùm,

Binh tán loạn tựa rắn mất đầu, dìu với chắc thấp cao bước mỏi.

Ơi ới, mẹ hú con chồng kêu vợ, thảm thiết sao tiếng khóc bi ai,

Hù hu, em dắt chị cháu níu ông, bi thương thật lời than khắc khoải.

Sáng đã chết, mù8 càng mau chết, đâm bổ xuống ao,

Nghèo thiệt thân, giàu cũng thiệt thân, té nhào mép hói.

Tên bay đạn lạc, súng thằng Tây tìm kẻ ngây thơ,

Lê thọc kiếm đâm, thịt dân Việt làm mồi lang sói.

Thây nghĩa sĩ ngổn ngang đường Thành Nội, dồn đống xóm Âm hồn,

Máu lương dân vung vải cửa Đông Ba, xông tanh cầu Gia Hội.

 

Ngao ngán thay!

Tay cung kiếm mà đền nợ nước, đành ngàn sau công trạng lừng vang,

Phận rác rơm lại bỏ thân tàn, khổ một kiếp tử thi rửa thối.

Nào gái nào trai, nào già nào trẻ, xác chất chồng xóm vắng làng thưa,

Ấy non ấy khoẻ, ấy mẻ ấy lành, xương vất vưởng nắng phơi mưa gội.

Thôi thôi chi nhiều kể lể, chốn tuyền đài linh hãy đến mau mau,

Thảm thảm ôi mấy oán than, cuộc siêu thoát hồn trông sao hối hối.

Man mác đám mây chiều phiêu dạt, người dương gian thêm chạnh nỗi hàn ôn,

Lạnh lành cơn gió chướng hắt hiu, khách âm cảnh còn vương tình trần giới.

 

Nay kính dâng,

Bát cháo thánh hầu ấm thân cô độc, trên đường xa mù mịt bốn phương,

Tấm áo binh đỡ lạnh gót lạc loài, giữa lối thẳm âm u chín suối.

Nước chè nhạt cũng tình quyến luyến, khát vơi dần miệng kẻ thác oan,

Củ khoai cằn ấy nghĩa thân quen, no đôi chút bụng người chết mới.

Bông chuối cau trầu đủ thứ, lỡ khi cùng không thiếu vật tuỳ thân,

Giấy tiền vàng bạc sót chi, gặp lúc ngặt có thừa đồ trao đổi.

Tội sớm tha, công thưởng lớn, nguyện cầu vía yên hàn vượt thoát, đêm âm ty ám ám lưới sương giăng,

Oan thì giải, nghiệp trả dần, cầu khấn hồn thanh thản ra đi, chiều dương thế mù mù luồng khói nổi.

Đốt nén nhang ngan ngát, mặc ngậm ngùi xin chớ ngó lui,

Vẫy chén rượu thơm tho, dù ấm ức hãy mau bước tới.

Tâm thành lễ bạc, bàn phẩm vật trên dưới sơ sài,

Ngôn thiểu ý đa, câu ai điếu ngắn dài vụng dại.

 

Ai tai!

Hồn hãy hiển linh;

Niệm tình thụ bái. 

 

 

Nguyễn PhúcVĩnh Ba - Tháng 4/2008  

           

Chú thích: 1. Tiểu trấn Bình Đài: Đồn Mang Cá nhỏ, nơi lính Tây đóng quân.

2. Lang sa lê dương: Quân viễn chinh Pháp

3. Thượng Tứ: Cửa thành Đông Nam dẫn vào khu Tam toà và trường Quốc tử giám kế cận với Đại Nội Huế

4. Giày săng-đá: Giày da của lính Pháp

5.  Mã tà ma ní: Lính cảnh sát Pháp người Phi luật tân, có thể chỉ chung bọn lính đánh thuê của Pháp

6. Lương Y: Một cống nhỏ trên đường dọc bờ thành dẫn tới cửa Đông Ba (cửa Chánh Đông)

7. Súng bụp xoà: Súng bắn phát một, nghe ra “cắc bụp cắc xoà” của lính Pháp.

8. Ở Cầu Kho có một xóm thầy bói mù, khi chạy loạn rớt xuông hồ ao, chết rất nhiều.

 ____

Nối kết :

http://nguyenphucvinhba.blogspot.com/2013/06/van-te-am-hon-that-thu-kinh-o-235-at-dau.html

 

trang Vĩnh Ba

art2all.net