|
Nguyễn Phúc Vĩnh Ba Xem World Cup 2010, nghĩ về tiếng nước ta
Giải Bóng đá Thế giới 2010 (The 2010 FIFA World Cup) đang đi vào ṿng bán kết. Như bao người khác, mấy lâu nay tôi say mê theo dơi những đường bóng sắc sảo, những pha tranh bóng gay cấn, những trận đấu đầy kịch tính, vân vân… Thế nhưng vừa dán mắt lên màn h́nh TV, vừa lắng nghe lời tường thuật của b́nh luận viên, tôi vẫn không khỏi nghĩ về tiếng nước ta. Tiếng Việt ta sao ngày càng lại lép vế thế nhỉ? Không phải chúng ta luôn tự hào tiếng Việt ta giàu và đẹp sao?
Khó chịu nhất là từ World Cup. Nó xuất hiện khắp mọi nơi. Có thể nói từ này đă trở thành quá quen thuộc, quá thông dụng và đôi khi được Việt hoá là Uơ-cúp nữa ḱa. Có thể nói không c̣n cách nào không dung nhập nó. Các thông tấn xă như VOA, BBC, VTV,… các nhật báo như Nhân Dân, Thanh Niên, Tuổi Trẻ,… nhất loạt đều dùng nó. Nó trở thành tiếng Việt rồi. Thế nhưng sao lại World Cup khắp mọi nơi mà không gọi là Cúp Thế Giới? Các nước khác ở quanh ta như Thái, Căm Bốt, Lào, Singapore,… liệu có World Cup như ta không? (Các quốc gia nói tiếng Pháp dùng từ La Coupe du Monde/ Le Mondial, các quốc gia dùng tiếng Tây Ban Nha dùng từ La Copa Mundial, Trung Quốc th́ dùng từ Thế giới bôi 世 界 杯,…). Từ Cup th́ tạm cho qua v́ ta đành phải nhập từ này để chỉ một vật mà trước đây ta chưa hề quen thuộc, mặc dù ta cũng có từ để diễn đạt một cách h́nh tượng là từ “Giải” với ư nghĩa giải thưởng. C̣n từ World th́ quá xa lạ với bàn dân thiên hạ. Cứ hỏi mấy con người b́nh dân say mê bóng đá khắp nước ta, từ ‘world’ viết làm sao th́ rơ. Khối người cứ ngẩn ngơ ra mà viết lung tung đấy. C̣n cái từ “thế giới” th́ tội t́nh ǵ mà bỏ quên nó nhỉ? Hay là vào cái thời hội nhập th́ Mỹ, Anh dùng từ nào th́ ta dùng từ đó sao?
Sự thắc mắc về việc cứ ra rả nói tới World Cup mà có lẽ có thể được gọi là “Cúp thế giới” hay “Giải (bóng đá) thế giới” đă dẫn tôi nghĩ lan man tới từ Festival hiện cũng bị lạm dụng Hăy xem. nào Festival Hoa Đà Lạt, Festival Trái cây Đồng bằng sông Cửu Long, Festival Biển đảo, Festival Cồng chiêng Tây nguyên,… trong khi ta có từ “lễ hội”. Từ ‘Lễ hội’ th́ sao nhỉ? Nó cũng đầy đủ ư nghĩa đấy chứ. Lễ hội Hoa Đà Lạt, Lễ hội Trái cây, Lễ hội Biển đảo. Lễ hội Cồng chiêng,… nghe không hay hay sao?…. Đành rằng trước đây các từ điển Pháp-Việt hay Anh-Việt thế hệ trước diễn đạt từ festival là đại hội liên hoan hay liên hoan, có thể chỉ thích hợp cho các dịp như khi những người thuộc kỹ nghệ phim ảnh họp mặt trong lúc trao các giải thưởng lớn, nhưng sau này, từ lễ hội đă được sáng tạo một cách chọn lọc dùng để chỉ các h́nh thức hội hè đ́nh đám mà người Việt vẫn tổ chức từ ngàn xưa như Hội Chùa Thầy, Hội Lim,…Vậy hai chữ lễ hội hoàn toàn có thể được dùng khi nói đến những cuộc hội họp đông người dưới h́nh thức có tổ chức các hoạt động vui chơi giải trí nhằm đánh dấu hay quảng bá những điều đáng nhớ của một địa phương. Cần ǵ ta phải dùng đến tiếng Tây, tiếng u như từ festival để có vẻ hiện đại.
Tôi nhớ hồi c̣n là học sinh được thầy giáo dạy môn Sử kể chuyện về Bộ trưởng Ngoại Giao Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến Việt Nam, nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam làm Trưởng đoàn cùng Đại tướng Vơ Nguyên Giáp, Bộ trưởng bộ Nội Vụ, Phó đoàn, đi dự Hội nghị Đà Lạt với Chính phủ Pháp vào tháng 5 năm 1946. Phái đoàn Việt Nam ta đă đ̣i Toàn quyền Đông Dương D'Argenlieu, Trưởng phái đoàn Pháp, chấp nhận sử dụng tiếng Việt và tiếng Pháp làm ngôn ngữ chính thức của hội nghị. Lư do mà phái đoàn ta đưa ra là tiếng Việt ta đủ ngôn từ để diễn tả mọi ư tưởng chính trị, văn hoá, xă hội,…. Nếu phía Pháp có ǵ không hiểu th́ phái đoàn ta sẽ giải thích bằng tiếng Pháp. Câu chuyện hư thực làm sao chưa rơ ràng lắm, nhưng tôi tin các bậc tiền bối của chúng ta rất tôn trọng tiếng Việt, xem cuộc đấu trí này là một bước quan trọng trong việc đấu tranh giành độc lập chủ quyền cho người Việt Nam. Sử dụng tiếng nước ta trong hội nghị là xác định chủ quyền của ta đối với đất nước, đó là một lư đương nhiên.
Giờ đây, nh́n tiếng Việt ta ngày càng núng thế và càng rối rắm, tôi lan man t́m hiểu nguồn cơn của hiện tượng này. Theo thiển ư của tôi, có 3 lư do chính:
Một là người Việt ta sính xài hàng ngoại. Chuyện này khá nhiều nhà nghiên cứu bàn đến. Trong ngôn ngữ cũng vậy. Dùng tiếng nước ngoài trông oai hơn, trông thông thái hơn, và trông hội nhập hơn. Tiếng nước ngoài bây giờ được ngầm hiểu là tiếng Anh/ Mỹ. Xem nào, gặp nhau là Hello, chia tay là Bye bye, tự nhiên như tiếng mẹ đẻ. Các từ hot, fan, teen,... viết đúng như tiếng gốc chen vào giữa tiếng Việt một cách thoải mái lạ lùng, như thể ta không có từ tương đương. Lấy vài ví dụ cho rơ: - Lứa tuổi teen cũng có nguy cơ sa vào cá độ World Cup - Các fan của đội tuyển Bra-xin tập trung nhày múa mừng đội tuyển nhà đă vào ṿng tứ kết. - Tin hot về đội tuyển Pháp sau khi thất trận về nước.
Vâng, dùng lâu các từ đó sẽ là tiếng Việt, nhưng chúng ta lại phải thêm một lần giải thích cho con cháu, hay các cụ, các bà không rành về lănh vực đó. Ui chao, tiếng Việt lại ít trong sáng hơn rồi. Tuổi teen/ tuổi tin/ tuổi thiếu niên, tin hot/ tin hót/ tin nóng sốt, các fan/ các phan/ các người hâm mộ,... cái nào dễ hiểu hơn, và nên chính thức sử dụng là tuỳ các nhà lănh đạo văn hoá vậy.
Có một bộ phim được quảng cáo khá rầm rộ trên truyền h́nh là phim “Bước nhảy x́-tin”. Nhiều người hỏi tôi ‘nhảy x́ tin’ là sao, tôi đành chịu câm như hến. Tôi đoán ṃ rằng style, đọc theo tiếng Pháp là x́-tin, đọc theo tiếng Anh là x́-tai-(lờ) có nghĩa là phong cách, kiểu cách,.... Nhưng trong văn cảnh này th́ người già như tôi đành bó tay.
Tôi cho rằng một minh chứng hùng hồn của sự sính ngoại trong ngôn ngữ nước ta hiện nay là cái tên Giải V-League của bộ môn bóng đá Việt Nam. Người Việt ta nếu không giỏi tiếng Anh hẳn khó mà hiểu nổi cái tên này. League/Liga/ Legare… là hội/đoàn, một từ có gốc La tinh là Ligare. Nhiều quốc gia dùng từ này được chuyển qua tiếng bản ngữ, để chỉ các đội bóng đá, các câu lạc bộ bóng đá. C̣n ta th́ bê nguyên của tiếng Anh mà dùng. Kết quả là ít ai hiểu được nó. Có người bảo với tôi nó giống như một cặp vợ chồng Việt Nam lại đặt tên cho đứa con là Nguyễn Văn Clinton.
Hai là ta đă cố gắng tránh sử dụng một phần của tiếng nước ta, từ Hán Việt. Một thời nào cứ máy bay lên thẳng, nào trung tâm nghe nh́n, nào lính thuỷ đánh bộ, đại học từ xa,... Cứ như thể dùng từ Hán Việt là không yêu mến tiếng nước nhà. Thật ra, từ Hán Việt là một bộ phận hữu cơ của tiếng Việt chứ v́ chỉ có người Việt sử dụng nó. Vậy theo quan điểm mới về ngôn ngữ, chỉ chúng ta là chủ nhân ông của các từ này. Ta đọc là Thượng Hải, người Trung quốc đọc là Shanghai, người nước khác đọc nhái theo âm Trung Quốc. Vậy từ Hán Việt ‘Thượng Hải’ là của chúng ta. Hậu quả của quan điểm tránh sử dụng tiếng Hán Việt này là cho đến nay vẫn chưa có một giáo tŕnh nghiêm túc để học sinh học và hiểu các từ Hán Việt, dẫn đến là các từ này được dùng theo kiểu “hiểu tàm tạm” và tuỳ tiện. Lấy một vài ví dụ cho rơ: - ‘Du khách thập phương đến Côn Đảo để tham quan và nghỉ dưỡng ngày càng nhiều.’ Làm sao mà thập (mười) phương được? Chỉ có tứ phương bát hướng thôi. Lẽ đâu có người từ trên trời hạ xuống và dưới đất trồi lên cho đủ mười phương? - ‘Dù đă nỗ lực nhiều nhưng kết quả của việc chúng ta làm vẫn rất khiêm tốn’. Không thể khiêm tốn được mà là ít ỏi. Khiêm tốn là chỉ một kết quả đáng kể thực sự nhưng người làm nói một cách khiêm nhường v́ không muốn khoe khoang. - ‘Một khách không mời đă lẽn vào dự quốc tiệc tại Nhà Trắng.’ ‘Đêm đầu tiên Quốc Giỗ được tiến hành, thời gian chỉ cho phép trong 2 giờ đồng hồ.’ Cái kiểu ghép một từ Hán Việt với một từ Nôm (thuần Việt) không khéo làm hỏng tiếng Việt của chúng ta. Vô lẽ mai mốt lại có thêm các từ như quốc cờ, đại đường, lễ áo,... thay cho quốc kỳ, đại lộ, lễ phục,...
Trong 2 ví dụ trên, ta phải dùng quốc yến, quốc lễ thay cho quốc tiệc và quốc giỗ. Chịu khó đọc báo, chúng ta c̣n gặp nhiều nhiều trường hợp ngồ ngộ tương tự như trên.
Ba là ta chưa có một cơ quan (Viện Hàn lâm Ngôn ngữ hay một đại từ điển có từ nguyên như kiểu Từ điển Webster của Mỹ chẳng hạn) để làm trọng tài cho việc sử dụng tiếng nước ta. Như đă nói trên, phải xem tiếng Việt bao gồm cả các từ Hán Việt, các từ thuần Việt, và cả các từ mượn từ tiếng nước ngoài. Cần có giáo tŕnh nghiêm chỉnh hơn cho học sinh 3 cấp làm chủ tiếng Việt trước khi bước vào đại học. Lấy ví dụ, một vài từ nay thông dụng như kim ngạch, cổ tức, hối đoái, nhân thân, nhị nguyên, bộc trực, phong kiến,... vẫn khiến sinh viên ta lấy làm khó hiểu.
Trên tôi đă nói đến một số từ Hán Việt dùng chưa chỉnh. Sau đây lại là một số từ Hán Việt bị hiểu nhầm vẫn được thường xuyên sử dụng một cách chính thức. Ví dụ, thương hiệu Phật tử (con Phật th́ liên quan đến tu tập chứ sao lại đến mua bán mà thương với mại), ngân hàng đề thi (đề thi th́ dính líu ǵ đến kim ngân vàng bạc), nữ anh hùng (đă là con gái th́ đực – hùng sao được)...
Một vấn đề khác cũng gây tranh căi khá sôi nổi là việc phiên âm tên quốc gia hay tên danh nhân qua tếng Việt. Khi th́ Mạc Tư Khoa, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha,... nhưng có khi lại Ác-hen-ti-na, Mê-hi-cô, Bra-xin,... thay v́ Á Căn Đ́nh, Mễ Tây Cơ, Ba Tây,.. Tên danh nhân cũng vậy. Karl Marx, Mă Khắc Tư hay Các Mác đây? Rơ ràng là không có một tiêu chuẩn nào được chính thức công nhận bởi nhà nước để các cơ quan thông tấn làm cơ sở sử dụng.
Tiếng thuần Việt cũng vậy. Lấy ví dụ, ta thường đồng nhất tốt với hay và giỏi như chơi đàn tốt, học tốt, dạy tốt, hát tốt, múa tốt,.... Thật sự ra tốt nó khác với hay và giỏi. Tốt là đối nghĩa với xấu, giỏi đối nghĩa với dốt/ kém, hay đối nghĩa với dở. Một người tốt bụng th́ không thể gọi là người giỏi bụng, một khúc gỗ tốt th́ không thể gọi là một khúc gỗ hay. Suy ra, một học sinh có thể học giỏi mà tốt bụng và hát hay chứ không thể học tốt mà hay bụng với hát giỏi. Giỏi cũng khác hay. Giỏi chỉ tŕnh độ cao và thành thạo về kỹ thuật, thuộc về lư tính nhưng hay lại chỉ tŕnh độ cao về nghệ thuật, thuộc về cảm tính. Các sắc thái ngữ nghĩa được các từ biểu đạt rất thâm thuư nếu chúng ta sử dụng chính xác. Vậy nên, chúng ta thường bảo tiếng Việt ta giàu và đẹp là thế.
Thêm một ví dụ nữa, chúng ta thường sáng tạo một từ mới cho lạ tai. Nào siêu mỏng, siêu nạc,siêu nặng, ngói hoá, nạc hoá, lạ hoá... Có từ được quần chúng chấp nhận, có từ không. Cũng trong mấy ngày xem bóng đá này, tôi nghe b́nh luận viên nói nhiều câu rất mơ hồ. Ví dụ, đội tuyển Nhật đang chơi đội h́nh pḥng thủ chặt nhưng thỉnh thoảng lại tung ra nhiều đ̣n phản công rất tàn sát. Sao lại sát (giết) mà lại tàn (rất hung dữ) nữa mới lạ nhỉ? Chẳng hề có một ai, một cơ quan nào chỉ đạo, hướng dẫn ǵ trong mặt tiếng nói của dân tộc này. Thậm chí chữ cái G th́ có người đọc “rê” c̣n các cơ quan thông tin th́ đọc là “gờ”. Cứ mặc cho nó đua bơi giữa sóng gió của ngôn luận và văn đàn.
Có bạn sẽ bảo tôi là người khó tính. Cái ǵ người Việt ta nói thường xuyên là tiếng Việt cả. Bây giờ là thời hội nhập quốc tế mà, ta không hội nhập th́ tụt hậu mất. Không, tôi chỉ lan man nghĩ ngợi về cái sự kiện tiếng Việt ta đang biến đổi rất ư là không quy luật. Tôi chỉ thắc mắc rằng sao có tiếng Việt đó mà chúng ta không học và dùng cho chính xác?
Nguyễn Phúc Vĩnh Ba 2010
|