Vơ Kỳ Điền
VÀI NÉT LẠ TRONG THƠ LƯU
NGUYỄN
Kính thưa quí
quan khách và văn hữu,
Chiều nay, tôi lại được cái hân hạnh hầu chuyện thơ văn cùng quí vị và quí bạn.
Đó là giới thiệu tập thơ Tri Âm của Lưu Nguyễn vừa mới được nhà Sông Thu
bên Mỹ xuất bản. Trong niềm sung sướng có chứa nỗi lo âu. Tôi lo v́ làm việc quá
khó. Tôi nhớ vào thế kỷ thứ sáu, Lưu Hiệp tác giả quyển phê b́nh văn học đầu
tiên của Trung Hoa, quyển Văn Tâm Điêu Long, đă từng ví von - làm thơ
khó như chuyện vẽ rồng.
Tại sao khó? V́ rồng là một con vật của trí tưởng tượng, không có thiệt. Vậy làm
sao để vẽ cho đúng. Chuyện làm thơ đă khó rồi, việc phê b́nh thơ lại khó hơn nữa.
Phê b́nh thơ như cầm dao mổ bụng rồng để coi trái tim của nó. Quí vị thử tưởng
tượng coi, tôi phải làm sao đây?
Ngoài cái khó đó ra c̣n thêm một nỗi nữa, hồi nào tới giờ tôi chưa làm được một
câu thơ, nói chi tới một bài. Chưa từng làm thơ mà lại đi nhận định thơ người,
có khác nào câu tục ngữ Trung Hoa từng phen đă nói -vị tha nhân, tác giá y
thường. Có nghĩa là một cô gái già, v́ người khác mà may áo cưới. Trong đời
cổ có bận áo cưới lần nào đâu, tuy áo may vừa, may đẹp, may khéo, nhưng cái cảm
giác sung sướng, bồi hồi, rạo rực của cô dâu bận áo mới súng sính bước lên xe
hoa về nhà chồng (ở bên Tàu thời trước, chồng là một người lạ hoắc), làm sao mà
cô ta cảm nhận cho được!
Thiệt t́nh tôi đă làm chuyện tréo cẳng ngổng. Cô dâu Lưu Nguyễn thấy tôi thường
khoe dao, khoe kéo, kim chỉ vá may, cầm cái áo Tri Âm đưa cho nhờ coi khéo hay
vụng. Tôi đành nhận lời không dám từ chối v́ sợ lộ cái dốt của ḿnh. Thôi th́
biết bao nhiêu, nói bấy nhiêu để tạ ḷng bạn tri âm.
***
Điều làm tôi
ngạc nhiên đầu tiên là thơ Lưu Nguyễn phảng phất cái không khí ngày xưa. Cái
thời của kẻ sĩ, của nhà nho. Đọc hai câu nầy tôi chợt sững sờ:
Khi im lặng, người với ta là bạn
Bởi vô ngôn, tự nó đă nhiệm mầu (Cuộc Rong Chơi, trg 30)
Cái không khí đời Đường, đời Tống bàng bạc! Thế nào là mối t́nh cao quí? T́nh
vua tôi, t́nh cha con, t́nh vợ chồng, t́nh bè bạn... Giữa hai người khi thương
mến nhau, diễn tả t́nh thương bằng ngôn ngữ với thái độ ồn ào, hay ngồi im bên
nhau để nghe tiếng ḷng của nhau? Người quân tử xưa kia hằng mấy năm không gặp,
khi gặp nhau ngồi im lặng bên nhau cả giờ không nói, hoặc nói rất ít. Đức Khổng
Tử nhấn mạnh điều đó "quân tử đàm giao, đạm nhược thủy" -người quân tử nói
chuyện với nhau, lạt như nước lạnh. V́ nước êm ả nhẹ nhàng, không hương, không
vị. Ông Đào Tiềm đời Tấn yêu hoa cúc v́ hoa cúc màu vàng nhạt không le lói, sặc
sỡ và hương chỉ thoáng nhẹ, hầu như không có.
Người quân tử không ưa hoa lan v́ lan là vương giả chi hoa, không ưa mẫu đơn v́
mẫu đơn là phú quí chi hoa. Đă là bạn thâm t́nh th́ cần ǵ phải nói nhiều. Và
cái mầu nhiệm cao quí ở chỗ không nói đó. Chữ hay nhứt trong câu thơ là chữ "tự
nó"
Lưu Nguyễn cũng bộc lộ nét nghệ sĩ tài hoa trong cái nh́n chiêm ngưỡng vẻ đẹp
của cảnh vật thiên nhiên với những cảm xúc của nội tâm đơn thuần. Cảnh thiên
nhiên hiện ra với cái vẻ đẹp tự nhiên của nó mà không có một gắng sức sửa đổi
nào của thi nhân:
Ḱa thu có phải là thu
sao ta cứ ngỡ mây mù cuối đông
rằng như có, rằng như không,
cho ta một chút bềnh bồng lăng quên (Bềnh Bồng, trang 85)
Đó là đặc tánh của thơ Đường. Cái man mác của khí vị của thơ Đường lăng đăng ở
mỗi chữ mỗi câu. Thơ Đường thường nhắc đến ánh trăng. Như trong bài Thiên
Thai Tống Biệt lúc Lưu Nguyễn về trần, Tào Đường đă làm hai câu kết như sau:
Trù trướng khê đầu ṭng thử biệt,
Bích sơn minh nguyệt chiếu thương đài
(đầu suối bâng khuâng t́nh cách biệt
Núi xanh rêu biếc ánh trăng đi)
Lưu Nguyễn đời nay cũng nhắc đến ánh trăng:
thu xứ người ngập lá,
kỷ vật chiếc thuyền con,
bàng hoàng như khách lạ,
trăng sáng chiếu đầu non. (Chiếc Lá Vàng Rơi, trang 73)
Lưu Nguyễn nh́n thu quê người, cảm khái thân phận tỵ nạn, chàng đă từng lênh
đênh trên chiếc thuyền nhỏ vượt đại dương, rồi sống lưu lạc nơi xứ người. Nhưng
cái hay ở đây, không phải là cách làm thơ giống thơ Đường (v́ có rất nhiều người
cũng làm thơ Đường, mà không hay! ).
Tôi muốn nói
đến cái khí vị của thơ Đường ở câu
'bàng hoàng như khách lạ'. Cái hay ở
chữ 'khách lạ'. Người tỵ nạn ở xa quê th́ tự nhiên đă là người khách lạ
nơi ḿnh cư ngụ. Làm sao là khách quen được khi ḿnh khác màu da, màu tóc, khác
tiếng nói, kề cận không người thân thích, ruột rà... Nhưng cuộc sống mới không
vui, nên tác giả đâm quên mất không gian, quên mất thời gian, ngay cả tự bản
thân cũng quên lững không biết ḿnh là ai nữa. Bất chợt trong một đêm trăng sáng,
nh́n thấy được lá vàng rơi ngập lối đi, mới chợt tỉnh ra nhớ lại, ḿnh đă là
người khách lạ từ lâu lắm, đang sống xa quê hương nửa ṿng trái đất, đâm sảng
sốt, bàng hoàng.. Cái cảm giác trống vắng bơ vơ. Toàn cảnh thiên nhiên cũng như
trong ḷng, chỉ c̣n trơ ra ánh trăng sáng, lạnh ngắt, trên đầu núi.
Hai chữ 'khách lạ' đă khéo, nhưng chữ 'như' lại càng khéo hơn. Nếu
không đặt được chữ 'như' ở đây th́ chữ
'khách lạ' trở nên b́nh
thường, đục mờ, lu câm... Lưu Nguyễn đă t́m ra chữ
'như' đặt vào đúng chỗ,
hai chữ 'khách lạ' sáng lên, lấp lánh khiến toàn bài rực rỡ, trong suốt.
Nhưng nghệ thuật của Lưu Nguyễn c̣n nổi bật hơn trong những đọan thơ với những
tiết điệu kỳ lạ. Thơ khác hơn văn xuôi ở chỗ đặt cơ sở trên cảm giác về âm vận,
tiết điệu. Cũng thời bao nhiêu chữ, bao nhiêu câu đó, phải lựa chỗ, lựa nơi,
thêm chữ nầy, bớt chữ kia, cố sắp xếp làm sao tạo được cái cảm giác bồi hồi cho
người đọc. Mỗi chữ, mỗi lời phải xôn xao, nhảy múa, linh động... Từ cái tính
chất xao xuyến, chơi vơi đó, nhà thơ dẫn dắt độc giả vào cơi mông lung của cảm
giác, chuyện khó như nhảy xuống nước ṃ trăng.
Vậy mà Lưu Nguyễn có lần làm được. Chúng ta cùng nhau đọc thử đoạn nầy:
vẫn có chút ngập ngừng trong ánh mắt
tay run run rượu sánh đổ tràn ly
trong hạnh phúc giữa đất trời quay quắt
thẹn thùng em khép bờ mi.
muốn là gió len qua vài sợi tóc
nhè nhẹ mơn man phiến má hồng
mỗi bận vui tan em có khóc
hong khô những giọt lệ nồng (Bài Thơ Cho Em, trg 54)
Chúng ta đừng quá chú ư nhiều đến ư nghĩa của đoạn thơ, v́ chuyện hai người yêu
nhau, chuyện khóc lóc, chuyện uống rượu, thi nhân nào cũng thường nói tới. Cái
mà chúng ta để ư là tiết điệu của câu thơ.
Đoạn bốn câu trên, ba câu đầu mỗi câu tám chữ, câu cuối sáu. Đoạn dưới câu đầu
tám chữ, hai câu kế bảy chữ, và câu cuối cùng sáu chữ. Điều đó nói lên được cái
tuyệt diệu của nghệ thuật bỏ lửng. Đương nói dài ḍng, bỏ lửng nửa vời, để tạo
cái cảm giác chơi vơi của người đọc, người nghe, là một nghệ thuật rất cao.
Cần ǵ phải nói nhiều, nói thêm, nửa câu đă đủ ư... Cái phần c̣n lại để dành cho
độc giả tưởng tượng thêm. Cái tưởng tượng bao giờ cũng hay hơn cái có thật, cái
chưa có bao giờ cũng hấp dẫn hơn cái đă có. Như vậy cái chữ ḿnh tưởng thiếu đó,
tự nó đă đủ và quá hay. Nếu một người mới tham gia vào làng thơ, sẽ rán mà kiếm
thêm một chữ nào đó để thêm vô cho đủ. Các bạn thử tưởng tượng mà coi, câu thơ
đó sẽ trở thành ra cái ǵ!
***
Nhưng cái
tuyệt vời nhứt của nghệ thuật thi ca là sáng tạo. Sáng tạo ra ư, ra ngôn ngữ, ra
vần điệu... Tôi thường để ư thơ hay là thơ thường không nói thẳng vào ư chánh,
mà nói quanh co mơ hồ, người nghe vẫn cảm nhận được ư mà thi nhân muốn nói. Điều
nầy khá lạ lùng và tuyệt vời lắm. Nếu nói quá một chút th́ thơ hay thường là
những câu không nghĩa hoặc những câu không rơ nghĩa, chỉ có âm thanh trầm bổng...
Vậy mà người nghe cứ tưởng ḿnh hiểu được cái ư, cái t́nh mà thi nhân gởi gắm.
Trong đêm từ giă nhà để theo Mă Giám Sinh, Kiều đă nói:
Mai sau dù
có bao giờ
Đốt ḷ hương ấy so tơ phiếm nầy.
Câu thơ đọc lên, ai cũng đều hiểu rơ - mai nầy, chẳng may chị có mệnh hệ nào,
th́ em hăy đốt ḷ trầm, ôm lấy đàn gảy lại bản nầy là nhớ đến chị.
Thử phân tích, ta thấy là lạ ‘dầu có bao giờ’ là sao? Câu nầy không có
nghiă ǵ hết. Chữ ‘mai sau’ và ‘bao giờ’ là hai từ dùng để chỉ
thời gian, chữ ‘dầu có’ đứng ở giữa lạc lơng. Đáng lẽ phải nói - mai
sau dầu có ra sao, mới đúng. V́ chữ ‘ra sao’ được hiểu là sẽ chết
chóc, đổ vỡ, tan nát như thế nào đó. Nhưng nếu viết như vậy th́ quá kém. Nhà thơ
phải nắm bắt bất cứ chữ nào đó, uốn nắn theo ư ḿnh muốn.
Nguyễn Du thường làm điều nầy, chữ ‘bao giờ’ ở đây có nghiă là ‘ra sao’.
Cái thần t́nh của câu thơ là ở chỗ đó. Thi sĩ sử dụng âm thanh phải như phù thuỷ
sử dụng âm binh.
Ta thử đọc:
phương ấy có người lận đận
mấy năm thơ chẳng về nhà. (Phương Ấy Có Người Lận Đận trang 15)
Phương ấy là phương nào ? Chỉ đọc câu trên, ta nghĩ là ở Việt Nam. Phương ấy là
ở bên ấy, ở bên kia chớ không phải bên nầy. Nhưng đọc tới câu dưới - mấy năm thư
chẳng về nhà, th́ ta hiểu ngược lại liền. Phương ấy là khung trời Canada, một
nơi xa vắng mà tác giả hiện cư ngụ, v́ lận đận nợ áo cơm nơi quê người, nên
không viết thư.
Cái chữ ‘ấy’ khiến câu thơ tuyệt vời. Người Trung Hoa gọi những chữ như vậy là
nhăn tự. Chữ đó là con mắt, nó khiến cho toàn thể gương mặt sáng long lanh.
Cũng vậy chúng ta ngây ngất khi đọc tới câu:
mai em ở lại trường làm thầy dạy học
mai anh về như thể về không (Như Thể Về Không, trang 46)
‘Như thể về không’ là như thế nào ? Về không là ra về tay không, không có
cái ǵ hết. Công danh, sự nghiệp, tiền bạc, t́nh yêu... tất cả đều không. Nhưng
tại sao tác giả dùng chữ ‘như thể’ ? Đọc ngang đây, chúng ta hiểu ngược
lại - h́nh như chưa phải là không tất cả. Vậy th́ c̣n có một thứ mơ hồ nhè nhẹ,
thoáng mang theo. Ta phải hiểu là nhà thơ không phải ra về tay không đâu. Có một
thứ ǵ lưu luyến đẹp lắm, quấn quít, vương vấn theo măi đó... Tôi cảm thấy như
vậy và tôi tin rằng các bạn đây đều cảm thấy như vậy.
***
Người thi sĩ
như con tằm phải biết cách bắt lá dâu xanh biến thành tơ nơn. Chỉ có thi sĩ mới
làm được điều đó và chỉ có thi sĩ mà thôi. Tôi đọc hết tập Tri Âm trong
niềm cảm xúc chơi vơi, quả thật tôi đă t́m được dáng rồng, tôi cũng chụp bắt
được một vài nét lạ.
Phải bao nhiêu năm Lưu Nguyễn mới làm được tập Tri Âm ? Năm năm, mười năm?
Có người cho rằng làm thơ như vậy là quá lâu. Tôi th́ không lưu ư đến thời gian
dài hay ngắn, bao lâu cũng được, miễn là thơ phải hay. Có nhiều thi sĩ nổi tiếng
chỉ làm một bài trong đời. Huống chi Lưu Nguyễn có cả một tập thơ. Tôi xin kết
luận bằng bài thơ của Giả Đảo đời Đường:
Nhị cú tam niên đắc
Nhất ngâm song lệ lưu
Tri âm như bất thưởng
Qui ngoạ cố sơn thu.
Tạm dịch:
hai câu làm trong ba năm
khi ngâm lên hai ḍng lệ chảy
nếu bạn tri âm không khen được
th́ ta về nằm lỳ trong núi mùa thu
Thành thật cám ơn quí vị và các bạn.
Vơ Kỳ Điền
(Đàm Trường Văn Bút Québec 17-11-1990)
art2all.net
|