VƯƠNG THANH

 

 

CẨM SẮT

THI PHẨM BÍ ẨN VÀ KHÓ HIỂU BẬC NHẤT CỦA TRUNG HOA

 


 

Hơn ngàn năm nay, tác phẩm Cẩm Sắt của Lư Thương Ẩn, một áng thơ t́nh bí ẩn và khó hiểu bậc nhất của Trung Hoa vẫn là một đề tài thách đố cho nhiều thi nhân và học giả muốn t́m hiểu ư nghĩa của bài thơ. Cẩm Sắt (Đàn Gấm) dùng những ẩn dụ, h́nh ảnh đẹp lung linh, huyền ảo, với ngôn từ diễm lệ, mềm mại, tinh tế nhưng lại ẩn chứa sự mơ hồ khiến cho người đọc có thể hiểu theo nhiều ư nghĩa khác nhau. Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du có vài câu thơ mượn ư và h́nh ảnh từ bài thơ Cẩm Sắt để diễn tả tiếng đàn của nàng Kiều:
 

Khúc đâu đầm ấm dương ḥa

Ấy là hồ điệp hay là Trang Sinh?

Khúc đâu êm ái xuân t́nh

Ấy hồn Thục Đế hay ḿnh đỗ quyên?

Trong sao châu rỏ duyềnh quyên

Ấm sao hạt ngọc Lam Điền mới đông
 

Cẩm Sắt là bài thơ tiếng Hán đầu tiên tôi dịch qua tiếng Việt. Hai mươi năm sau, tôi lại sửa đổi một chút ở hai câu cuối thành hai phiên bản nữa, mong là sát ư nghĩa và tinh thần của nguyên tác hơn. Trong phần dịch nghĩa, tôi ghi chú thêm những điển tích, viết vài hàng bàn luận ư nghĩa những câu thơ. Cũng xin chia sẻ với bạn đọc quá tŕnh dịch thuật thú vị của tôi cùng những bản dịch tiếng Anh của vài thi sĩ, dịch giả khác.
 

Nguyên Tác – Lư Thương Ẩn (李商隱)

 

錦瑟

錦瑟無端五十弦,

一弦一柱思華年。

莊生曉夢迷蝴蝶,

望帝春心託杜鵑。

滄海月明珠有淚,

藍田日暖玉生煙。

此情可待成追憶,

只是當時已惘然
 

Phiên âm Hán Việt:

 

Cẩm sắt

Cẩm sắt vô đoan ngũ thập huyền

Nhất huyền nhất trụ tứ hoa niên

Trang Sinh hiểu mộng mê hồ điệp

Vọng Đế xuân tâm thác đỗ quyên

Thương hải nguyệt minh châu hữu lệ

Lam Điền nhật noăn ngọc sinh yên

Thử t́nh khả đăi thành truy ức

Chỉ thị đương thời dĩ vơng nhiên.
 

Bản dịch nghĩa:

 

Tựa: Cẩm Sắt, nghĩa là Đàn Gấm. Sắt là một loại đàn cổ, có h́nh dạng giống đàn tranh nhưng lớn hơn và thường có 25 dây vào thời Hán và thời Đường. Đàn sắt chủ yếu được sử dụng trong các buổi lễ long trọng thời cổ, khác với đàn tranh được phổ biến rộng răi từ chốn cung đ́nh đến dân gian. Từ gấm ở đây không chỉ nói đến trang trí trên đàn mà c̣n biểu hiện sự yêu thích, quư trọng dành cho cây đàn như trong cụm từ “giang sơn gấm vóc.”

Câu 1: Đàn gấm v́ nguyên do ǵ có 50 dây.

 

Câu 2: Mỗi dây, mỗi trục gợi nhớ thời trẻ tuổi

 

Câu 3: Trang Chu sáng sớm nằm mộng, mơ hóa thành bướm. (Điển tích: Và khi tỉnh dậy, ngạc nhiên thấy ḿnh là Trang Chu, rồi tự hỏi không biết ḿnh là Trang Chu nằm mộng hóa thành bướm, hay là bướm nằm mộng hóa thành Trang Chu.) Cuộc đời như một giấc mộng phù du, biết đâu là mộng, đâu là thực, mộng thực khó phân; và cái tôi cũng không cố định, mà luôn thay đổi. Đó là ư nghĩa của truyện này trong pho sách Nam Hoa Kinh của Trang Tử.

 

Câu 4: Ḷng xuân của vua Thục đế gửi vào chim đỗ quyên. (Điển tích: Khi vua Thục Đế thời Xuân Thu Chiến Quốc v́ sự hổ thẹn cuộc t́nh lén lút với vợ vị tể tướng, nên nhường giang san cho vị tể tướng rồi luân lạc tha hương cho đến khi chết đi, th́ linh hồn nhập vào chim quốc, một loài chim có tiếng kêu thảm thiết, bi ai, khiến người luân lạc nơi đất khách quê người chạnh niềm sầu nhớ cố hương. Loài chim này, tiếng Trung gọi là “đỗ vũ” (cũng là tên của ông vua này) hay là “đỗ quyên”. Bà Huyện Thanh Quan có câu thơ “Nhớ nước đau ḷng con quốc quốc / Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”.
 

Câu 5: Trăng sáng chiếu trên biển cả buồn, ngọc châu lóng lánh lệ. (Huyền thoại viết rằng ở biển Nam Hải, có người cá, khi khóc th́ những giọt lệ rơi xuống hóa thành ngọc châu, lóng lánh những giọt lệ.)
 

Câu 6: Ánh nắng ấm áp chiếu trên băi ruộng xanh, ngọc tỏa khói. (Lam Điền vừa có nghĩa ruộng xanh, nhưng cũng là tên một địa danh gần vùng rừng núi chuyên sản xuất ngọc.)
 

Câu 7: Mối t́nh này có thể (chỉ) đợi thành truy ức. Truy ức khác kư ức, hoài niệm ở chỗ cần phải t́m kiếm, theo đuổi (t́m hiểu và ghép nối những mảnh kư ức). V́ sao phải t́m kiếm trong kư ức. V́ thuở ấy ḷng chàng có thể mơ hồ, hoang mang v́ không hiểu rơ t́nh cảm của ḿnh và tâm ư của nàng, hay là chàng có thể buồn rầu và chán nản, hay là bối rối, lạc lối, mất hy vọng, tùy theo dịch giả hiểu và chọn nghĩa của cụm từ “vơng nhiên” trong câu cuối như thế nào.
 

Câu 8: Chỉ là thuở ấy ḷng ta đă “vơng nhiên.”

Từ “nhiên” (然 (rán) có nghĩa là "trạng thái", thường được dùng để chỉ một t́nh trạng hoặc cảm giác nào đó.

Từ vơng (罔 (wǎng) có nhiều nghĩa, vài nghĩa chính như sau:

a. chán nản, buồn rầu

b. mơ hồ, không rơ ràng

c. cảm giác bối rối, hoang mang, lạc lối, mất phương hướng
 

Bản dịch của Vương Thanh, 2004:

 

Đàn gấm, năm mươi sợi ảo huyền

Từng dây, từng trục gọi hoa niên

Trang Sinh, mộng sớm mơ hồn bướm

Thục Đế, ḷng xuân gửi tiếng quyên

Trăng sáng, lệ châu nḥa bích hải

Nắng hanh, khói ngọc tỏa Lam Điền

T́nh này ôn lại c̣n thương cảm

Một thuở đau ḷng chữ nợ duyên
 

Phiên bản 2, Thu 2024:

…...

Một thuở mơ hồ chữ nợ duyên

 

Phiên bản 3, Thu 2024:

…....

T́nh này chỉ đợi thành truy ức

Một thuở mơ hồ chữ nợ duyên

 

Bản dịch tiếng Anh của Vương Thanh, Thu 2024:

 

The Precious Zither

The precious zither has fifty strings, I wonder why?

Each string, each fret evokes a youthful spring of life.

The sage Chuangzi becomes a butterfly when daydreaming.

Emperor Wang’s spring-heart expressed in a cuckoo’s cries.

The moonlit blue sea’s calmness, the mermaid’s pearly tears agitate.

In the blue fields on a sunny day, lies the vapor-emitting jade.

This love will remain a cherished quest of the heart and mind,

to seek, understand, and connect pieces of memory.

For at that time, my mind was like in a fog,

I failed to see her love for me.
 

Bản dịch Anh ngữ chuyển qua tiếng Việt như sau:

 

Cây Đàn Quư Báu

Cây đàn có 50 dây, tôi thắc mắc v́ sao?

Mỗi dây, mỗi trục gợi nhớ những mùa xuân tuổi trẻ

Hiền triết Trang Chu hóa bướm khi đang mơ giữa ban ngày

Ḷng xuân của Vọng Đế được diễn tả qua tiếng kêu (bi ai) của chim cu.

Trăng soi biển xanh êm ả, những giọt nước mắt nàng người cá làm nhạt nḥa.

Ngày trời ấm, trên những cánh đồng xanh, ngọc châu tỏa hơi sương

T́nh yêu này sẽ măi là một hành tŕnh quư giá của trái tim và tâm trí,

để t́m kiếm, hiểu biết và kết nối những mảnh kư ức.

Bởi v́ vào thời điểm đó, tâm trí tôi như đang trong sương mù,

tôi đă không nhận ra t́nh yêu của cô ấy dành cho tôi.
 

Quá tŕnh dịch thuật:

 

Hai mươi năm trước, những câu thơ Hán Việt trong bài Cẩm Sắt cứ măi lung linh trong tâm trí tôi. Thế nên tôi quyết định t́m hiểu những ẩn dụ, điển tích trong bài thơ và dịch qua tiếng Việt để đóng khung lại những suy nghĩ lan man về những câu thơ. Khi đọc nguyên tác, tôi chọn thể thất ngôn bát cú v́ những vần niên (hoa niên), quyên (đỗ quyên), Điền (Lam Điền) có thể tương đối dễ dàng cho vào cuối câu 2,4,6.

 

Câu đầu tiên: “cẩm sắt vô đoan ngũ thập huyền”, tôi dùng từ kép “ảo huyền” cho cùng vần với chữ “niên” ở câu 2. Cụm từ ‘ảo huyền’ cũng bao hàm cảm giác khó hiểu, “v́ sao” (vô đoan) cây đàn lại 50 dây.
 

Câu thứ 2: “nhất huyền, nhất trụ tứ hoa niên”, tôi dùng trực tiếp từ kép Hán Việt “hoa niên” trong bản dịch, v́ cụm từ này cũng phổ thông. Dùng chữ “gọi” thay v́ “gợi nhớ” nghe sống động hơn và chỉ cần một chữ.
 

Câu thứ 5: “thương hải nguyệt minh châu hữu lệ”. H́nh ảnh trăng sáng cô đơn chiếu biển cả thăm thẳm u buồn, với những ngọc châu lóng lánh lệ. Tôi nghĩ đến điển tích người cá vùng biển Nam Hải, và để làm thành vế đối với “Lam Điền tôi đổi ‘thương hải’ qua ‘bích hải” . Tác giả đă nhắc đến những giọt lệ trong những hạt châu ở biển cả th́ cũng là chuyện huyền ảo, nên tôi dùng chữ “nḥa” trong cụm từ “lệ châu nḥa bích hải”.
 

Câu thứ 7 và câu thứ 8, tôi làm vài phiên bản dịch khác nhau. Bản đầu tiên, dịch năm 2004, “t́nh này ôn lại c̣n thương cảm / một thuở đau ḷng chữ nợ duyên’, nghe rất tự nhiên trong ngữ cảnh của tiếng Việt hơn là dịch sát nghĩa “… có thể đợi trở thành…” của nguyên tác. Và câu dịch này cũng đi chung với ư nghĩa “chán nản, buồn rầu” của từ kép ‘vơng nhiên’.
 

Sau này, tôi nghĩ ư nghĩa của từ kép “vơng nhiên” là “mơ hồ, không rơ ràng” hay là “hoang mang, lạc lối, mất phương hướng” th́ có lẽ sát với tinh thần của nguyên tác hơn. Nên tôi làm thêm phiên bản 2 và 3. Từ kép “truy ức” rất đặc biệt, ư nghĩa là “t́m kiếm, theo đuổi trong kư ức”. Không nên dùng từ ‘hoài niệm”, “kỷ niệm”, “hồi tưởng” hay “kư ức” để thay thế, v́ tác giả không dùng những từ phổ thông này mà sáng chế ra từ ghép “truy ức” để diễn tả một tâm trạng đặc biệt. Hai chữ “truy ức” không phổ thông với độc giả, cho dù là người Việt hay người Trung, v́ ư tưởng “t́m kiếm, theo đuổi trong kư ức” là một khái niệm mới lạ. Độc giả muốn hiểu sâu sắc bài thơ này th́ cần học thêm một từ kép “truy ức” nữa.
 

Sau đây là vài bản dịch của những thi sĩ, dịch giả khác để bạn đọc tham khảo thêm.
 

Bản dịch của Lệ Thần Trần Trọng Kim (1883 – 1953):

 

Đàn cẩm sắt mấy chục dây

Một dây một trục nhớ ngày thanh niên

Trang Sinh hồ điệp mộng quên

Ḷng xuân Thục Đế đỗ quyên gửi ḿnh

Trăng soi châu đỏ duềnh xanh

Lam Điền trời ấm ngọc lành khói bay

T́nh kia c̣n nhớ có ngày

Hiện nay chỉ thấy gắt gay nỗi ḷng
 

Bản dịch của giáo sư Trần Trọng San (1930 – 1998):

 

Cây đàn năm chục đường dây

Mỗi dây mỗi trụ nhớ ngày c̣n xanh

Mơ màng giấc bướm Trang Sinh

Ḷng xuân Vọng Đế đỗ quyên gửi vào

Biển xanh trăng chiếu lệ châu

Ngọc phơi nắng ấm khói cao Lam Điền

T́nh này đợi nhớ nên niềm

Thế nhưng đă ngậm ngùi duyên bây giờ
 

Bản dịch của thi sĩ học giả Bùi Khánh Đản, 1959:

 

Năm chục đường tơ: Cẩm Sắt đàn

Mỗi dây, một trục, nhớ thời gian

Ḷng Xuân, Thục Đế hồn quyên gửi

Mộng sớm, Trang Sinh giấc bướm tàn

Nắng chiếu Lam Điền hơi ngọc bốc

Trăng soi thương hải giọt châu chan

T́nh kia đă để thành thương nhớ

Chuyện trước mơ hồ luống thở than.
 

Bản dịch của thi sĩ học giả Witter Bynner &

co-translator Kiang Kang-hu, 1929:

 

The Inlaid Harp

I wonder why my inlaid harp has fifty strings,

Each with its flower-like fret an interval of youth.

...The sage Chuangzi is day-dreaming, bewitched by butterflies,

The spring-heart of Emperor Wang is crying in a cuckoo,

Mermen weep their pearly tears down a moon-green sea,

Blue fields are breathing their jade to the sun....

And a moment that ought to have lasted for ever

Has come and gone before I knew.
 

Bản dịch Anh ngữ chuyển qua tiếng Việt như sau:

 

Cây Đàn Khảm

Tôi thắc mắc cây đàn khảm của tôi cớ chi lại có 50 dây

Mỗi dây với phím như hoa là một khoảng thời gian thanh xuân

Hiền triết Trang Tử đang mơ giữa ban ngày, bị mê hoặc bởi những bươm bướm

Trái tim xuân của vua Vương đang khóc trong tiếng chim cu.

Những chàng người cá khóc rơi những giọt lệ xuống biển xanh ánh trăng

Những cánh đồng xanh thở ra ngọc bích dưới ánh mặt trời

Khoảnh khắc nọ đáng lẽ phải kéo dài măi măi

Nhưng đă đến và đi trước khi tôi nhận ra.
 

Câu cuối thoát dịch ư nghĩa của “vơng nhiên” theo ư “ḷng tôi thuở ấy mơ hồ t́nh ư của nàng”.
 

Bản dịch của Lien W.S. and Foo. C. W.

 

The Exquisite Zither

I wonder why this splendid zither has fifty strings

Every string, every peg evokes those glorious springs

Perplexed as the sage, waking from his butterfly dream

Like the king, entrust to the cuckoo my heart evergreen

The moon bathes the teardrop pearl in the blue sea

The sun lights the radiant jade in indigo mountain

These feelings remain a cherished memory

But I was already lost at that moment
 

Bản dịch Anh ngữ chuyển qua tiếng Việt như sau:

 

Đàn Cầm Tuyệt Mỹ

Tôi thắc mắc tại sao đàn cầm tuyệt đẹp này lại có năm mươi dây

Mỗi dây, mỗi chốt gợi nhớ những mùa xuân huy hoàng

Bối rối như nhà hiền triết, tỉnh dậy từ giấc mơ bướm

Như nhà vua, gửi gắm trái tim xuân cho chim cu

Vầng trăng tắm ngọc trai long lanh giọt lệ trong biển xanh

Mặt trời chiếu sáng viên ngọc rực rỡ giữa núi chàm

Những cảm xúc này vẫn c̣n là kư ức quư giá

Nhưng tôi đă lạc lối ngay khoảnh khắc ấy.

 

Sự bí ẩn, khó hiểu trong bài thơ:
 

Bài thơ này LTA viết cho người đẹp nào? Có phải là cho người vợ quá cố, hay là cho cô hầu gái tên Cẩm Sắt đă qua đời ở lứa tuổi thanh xuân, hay là làm cho một nàng thiếp của một vị quan nào đó, v́ họ Lư là một người đa t́nh, lăng mạn với những cuộc t́nh cần giữ bí mật. Hay là cho một giai nhân nào khác? Những suy đoán trên đều đă được nhiều học giả đưa ra nhưng không có kết luận nào khẳng định đối tượng của thi nhân là ai.
 

Có thể tưởng tượng thi nhân ngồi gảy đàn tranh hay đàn sắt, tự nghe những nốt nhạc réo rắt, du dương và hoài niệm về cuộc t́nh xưa, về tuổi thanh xuân, và ngẫm nghĩ về cuộc đời. Con số 50 có lẽ v́ đời người thuở đó, thời Đường, sống tới 50 tuổi cũng là thọ rồi. Nhắc đến truyện Trang Chu hóa hồ điệp có phải muốn nói chàng cảm thấy cuộc đời như giấc mộng phù du, mộng thực khó phân, hay là nói về cái tôi cũng là vô thường. Có phải v́ người đẹp qua đời sớm hay là mộng ước sớm tan biến, để chàng cảm thấy cuộc đời như một giấc mộng phù du, như khói như sương.
 

Có phải tác giả muốn mượn điển tích vua Thục và chim đỗ quyên để tự ví ḷng ḿnh nhớ người yêu cũng bi ai, thê thiết như Thục Đế gửi nỗi ḷng u uất trong tiếng kêu của chim đỗ quyên? V́ sao lại đau buồn như thế ? Đối tượng của chàng lại là ai? Ư nghĩa của câu thơ đó có phải nói lên nỗi ḷng của tác giả không?
 

Ánh trăng cô quạnh chiếu trên biển cả thăm thẳm gợi nỗi sầu của con người trước sự mênh mông của biển cả, của trời đất, và những hạt châu long lanh nước mắt của những nàng người cá hồn nhiên làm nhạt nḥa thương hải. H́nh ảnh tuyệt đẹp, nhưng có phải là ẩn dụ cho một cuộc t́nh đẹp đẽ, nhưng vô vọng và đong đầy nước mắt không?
 

Dưới trời nắng ấm trên băi ruộng xanh (lam điền) khói ngọc bốc lên. Lam Điền cũng là tên một địa danh chuyên sản xuất ngọc, nên không ai khẳng định được ư nào là đúng ư của tác giả. Ngọc bốc khói cũng là một hiện tượng lạ, nhưng đây cũng không phải chỉ là tả cảnh, hẳn là có thêm ư nghĩa ǵ khác. Ngọc bốc khói, mà khói sương th́ mong manh rồi tan biến vào hư vô. Có phải tác giả muốn ví với cuộc t́nh của nàng và chàng chăng?
 

Mối t́nh này chỉ đợi thành truy ức – những mảnh kư ức để chàng t́m hiểu và ghép lại thành một cuộc t́nh v́ thuở ấy có lẽ ḷng chàng mơ hồ, không rơ ràng t́nh ư của nàng hay cũng có thể là v́ ḷng chàng hoang mang, bối rối, như kẻ lạc lối giữa sương mù, hay là buốn rầu, chán nản v́ cuộc t́nh vô vọng, nên không nhận ra t́nh ư của nàng, v.v. Bạn đọc muốn hiểu theo lối nào cũng được v́ bài thơ Cẩm Sắt này là một bài thơ bí ẩn và khó hiểu bậc nhất trong văn học xưa nay. Có lẽ không có ai từ thời Đường đến giờ có thể khẳng định ư nào trúng với tâm ư tác giả. Cũng có thể tác giả thuở đó vừa hoang mang, chán nản, buồn rầu và mơ hồ, nên không nhận ra t́nh ư của nàng. Nhưng nếu tâm trí chỉ trong trạng thái mơ hồ, mà không có sầu thương th́ sao lại viết những câu thơ buồn thê thiết như “Thục Đế xuân tâm kư đỗ quyên” và “Thương hải nguyệt minh châu hữu lệ.”
 

Câu thơ thứ bảy cũng không nên dịch chữ “khả” là “có thể” trong ngữ cảnh tiếng Việt. Thi nhân cũng đang truy ức đó thôi, đang hoài niệm cuộc t́nh xưa với niềm thương cảm xót xa cho một cuộc t́nh có lẽ mong manh, phù du như khói ngọc lam điền, nhưng lại đẹp lung linh, huyền ảo như những giọt lệ châu của nàng người cá trong đại dương sâu thẳm, mênh mông….
 

Mời thưởng thức video ca khúc Cẩm Sắt với tiếng hát của danh ca nhạc sĩ Trần Gia và bản dịch thơ tiếng Việt của người viết.

 

 

 

https://www.youtube.com/watch?v=_0TsEQdD774

 

vương thanh

Hồng Thành, Thu 2024


 

art2all.net