|
Vơ Hương An
MỘT THỜI KHUYẾN HỌC
Một
anh bạn về thăm Việt Nam vừa trở lại Hoa Kỳ đă làm quà cho tôi bản đồ thành phố
Đà Nẵng, gọi là “quà của quê hương”, v́ “dù sao, anh cũng đă từng là dân Đà Nẵng
trong mấy chục năm”. Khi thử xem Đà Nẵng ngày xưa của ḿnh đă có những ǵ thay
đổi, bất chợt bắt gặp ba chữ Hội Khuyến Học ở góc đường Nguyễn Thị Minh Khai (trước
75 là Nguyễn Thị Giang) và đường Hải Pḥng ( Nguyễn Hoàng cũ). Ủa, Hội Khuyến
Học nào đây? Chắc không phải là Hội Khuyến Học Đà Nẵng mà tôi đă từng sinh hoạt
ngày nào, nhưng cái tên gọi này bỗng dưng gợi lại cho tôi những hoài niệm xưa.
Hồi đó, Hội Khuyến Học có một cơ sở khá khang trang nằm ở số 38 Độc Lập. Để có
ngân khoản đài thọ cho hoạt động của hội, ṭa nhà chính được đem cho Mỹ thuê làm
Pḥng Thông tin Hoa Kỳ và Hội Việt Mỹ, chỉ giữ lại dăy nhà phụ bên trái làm
pḥng họp, lớp học đêm và Quán cơm Học sinh. Tuy lấy số nhà theo đường Độc Lập
nhưng chúng tôi chưa bao giờ dùng cổng chính (cho thuê mất rồi, c̣n ǵ), chỉ
toàn vào ra bằng cổng bên hông, trổ ra trên con đường hẽm mang cùng số 38, khá
rộng, xe hơi vô ra thoải mái. Con hẽm này là ngơ vào quán Cà phê Ngọc Anh, mà
chủ nhân cũng là hội viên Khuyến Học, một nhà chơi cây kiểng và sưu tầm đồ cổ
nổi tiếng. Con hẽm này cũng dẫn vào nhà nhà văn Duy Lam, phó hội trưởng đặc
trách Văn hóa Nghệ thuật của Hội. Thành ra, trong cuộc họp hằng tuần của ban
chấp hành, thường ít khi ông phó hội trưởng Duy Lam vắng mặt. Mùa lạnh, với cái
tẩu ngậm lệch bên miệng, tay thọc túi quần, anh tà tà thả bộ từ nhà ra trụ sở
Hội để dự họp, đi về thoải mái như đi dạo lúc chiều hôm.
Từ Sàig̣n, tôi xin đổi về Đà Nẵng vào mùa hè 1970, tưởng chỉ tạm trú một vài năm,
ai dè 20 năm có dư, dầu vậy, không nhớ được đă gia nhập Hội Khuyến Học năm nào.
Có điều, tôi lại nhớ rất rơ hai người đă dụ khị tôi vào Hội, cả hai đều là ủy
viên trong ban chấp hành, đó là các anh Hồ Minh và HNL. Ngoài đời, một người là
sĩ quan quân pháp cấp tá, một người là luật sư vừa tốt nghiệp, mỗi người một cá
tính, một phong cách, nhưng lại đồng qui ở một điểm là rất nhiệt t́nh với công
tác xă hội.
Bây giờ nghĩ lại, tôi thấy giữa những công tác khuyến học mà hội đă làm, chẳng
hạn cấp học bổng, mở lớp đêm, lập thư viện, tổ chức những cuộc nói chuyện của
những nhân vật có tiếng tăm trong một lănh vực nào đó, th́ việc “khuyến học”
thiết thực và hiệu quả nhất hồi đó là mở Quán cơm Học sinh.
Do t́nh h́nh bất an ở thôn quê, nhiều học sinh phải ra thành phố trọ học, dĩ
nhiên đa số nhà nghèo, cái ăn là cả một vấn đề. Hội Khuyến Học rất thông cảm,
nên quán cơm đă ra đời. Chỉ cần đóng 3 đồng bạc mỗi ngày là các em học sinh có
được hai bữa cơm trưa chiều no bụng, dĩ nhiên chẳng cao lương mỹ vị ǵ, nhưng
chắc chắn là đở lo cái bao tử hành hạ. Đó là 3 đồng góp thêm vào tiền mua thức
ăn, chứ c̣n mọi thứ khác như gạo tương mắm muối củi lửa chén bát bếp núc th́ hội
phải lo đài thọ, trong đó lo nhất là chạy gạo, mà chạy gạo th́ Hồ Minh và HNL,
Trần Gia Phụng là những tay chủ lực hỗ trợ cho ông hội phó Phan Du đặc trách về
xă hội. Có thể nói các đại bài, tiểu bài gạo có ḷng ở Đà Nẵng lúc đó đều nhẳn
mặt các ông này. Anh Phụng là tay chủ lực bên Hồng Thập Tự Đà Nẵng nhưng cũng
tích cực giúp cho Hội Khuyến Học. Thỉnh thoảng các anh lại rủ tôi đi cùng, ư
chừng đi ăn xin đông người th́ dễ ăn dễ nói và cũng dễ làm động ḷng thí chủ hơn
chăng?
Sau ngày “Đà Nẵng giải phóng” (!), trong ban chấp hành có hai người dính tới
“ngụy quân ngụy quyền” phải đi tù, là Hồ Minh và tôi. Khi thăm nuôi tôi, bà xă
báo cho biết “ Hội có ủy lạo cho gia đ́nh ḿnh và gia đ́nh anh Minh mỗi nhà một
tạ gạo”. Thật là quí hóa, đúng là miếng khi đói bằng gói khi no. Tôi biết đó là
gạo của Quán cơm Học sinh giải thể mà chúng tôi đă góp phần đi xin bá tánh. Tôi
bảo bà xă lấy cái bao tời đó giặt sạch, gởi vào trại cho tôi. “Để làm chi?”, “Để
thay chiếu mà nằm, chứ làm chi. Em không biết, chứ bao bố lót nằm bền hơn chiếu,
dễ xếp gọn gàng khi chuyển trại, lại ấm lắm, nhất là vào mùa lạnh.” Không dè cái
bao bố của Hội Khuyến Học đă theo tôi suốt bảy năm trường, qua các trại tù, hết
Kho Đạn, đến Ba Liên, Phú Túc rồi Tiên Lănh, cho tới ngày về mới bàn giao lại
cho một bạn khác. Anh Hồ Minh không có ngày về. Vi trùng sốt rét đă giữ chân anh
vĩnh viễn ở núi rừng Tiên Lănh, anh yên nghỉ ở mé đồi cạnh Hố Ông Hức. Ngậm ngùi
nhớ anh.
Hội Khuyến Học có khác, trong ban chấp hành thấy nhà văn nhà giáo khá bộn. Hội
trưởng Nguyễn Văn Xuân, hội phó Phan Du, hội phó Duy Lam đều là những nhà văn đă
thành danh trên văn đàn, trong tay mỗi ông đều có năm ba tác phẩm tŕnh làng,
nên ngồi trong ban chấp hành thiệt đúng người đúng chỗ. Ông hội phó Phan Du th́
đă qui tiên đâu vào năm 84 hay 85 ǵ đó, Khuyến Học nào c̣n danh nghĩa để có thể
bày tỏ một chút ǵ để nhớ để thương một người đă từng dày công với Hội. Hôm đưa
đám, anh Nguyễn Tấn Long và tôi rủ nhau cùng đi, tiếc thương trong lặng lẽ. Năm
1991, lại đến phiên anh Long ra đi khi tuổi mới năm mươi và nhiều mơ ước dở
dang, trong đó công tŕnh nghiên cứu hát ḥ khoan Quảng Nam là đứa con tinh thần
già thai nghén nhưng chưa có dịp chào đời. Ông hội trưởng Nguyễn Văn Xuân nay
chắc đă ngoại tám mươi, không biết có c̣n sức để cầm bút nữa không, và hơi hám
có c̣n sung măn hùng hồn khi tranh luận, như xưa kia không ? Và, trong cơn dâu
bể, may mắn tôi c̣n nghe được tiếng nói của anh Duy Lam sau hai mươi lăm năm
chưa gặp lại:
Từ đấy không c̣n ǵ để nói
Sống nổi trôi nghiệp dĩ kẻ mộng du
Nói lảm nhảm tiếng nước người trúc trắc
Chẳng thể dùng ngâm vịnh kiếp phù du
Bạn hữu gặp ôm nhau siết thật chặt
Hỏi tin nhau về cái chết vài người
Rồi tạm biệt người nào đi ngă nấy
Đọc tên nhau trên cáo phó một ngày.
Duy Lam
Tôi để tang tôi
(Đặc san Quảng Nam-Đà Nẵng, 2000)
Hồi c̣n trẻ, lần đầu tiên đọc Gia Đ́nh Tôi của Duy Lam (đăng từng kỳ) trong Văn
Hóa Ngày Nay của Nhất Linh, mấy anh em trong nhà tôi cười thoải mái và nói với
nhau, “Không biết cái ông Duy Lam này người ra sao mà viết tếu tỉnh queo, có
thua chi Nguyễn Công Hoan đâu.” Nay th́ sau mấy phen bụi đời lăn lóc, nghe chừng
cười hết nổi, th́ lại chịu mấy câu thơ của anh, cảm ơn anh đă nói giùm cái điều
tôi không nói nên lời..
Và c̣n nhớ những ai nữa? Nào Đỗ Toàn với cây cọ tài hoa, Trương Duy Hy với Tú
Quỳ và niềm hăng say viết lách như một nghiệp dĩ có lúc rất đắng cay, nào Nguyễn
Thiếu Dũng, cũng không thiếu đam mê cầm bút, rồi Trần Đ́nh Thanh Lam, Nguyễn Văn
Bảy, Nguyễn Tấn Long v.v và v.v..... Cái điều dễ thương nhất của ban chấp hành
là trong cuộc họp hễ có bất đồng là căi nhau như mổ ḅ, nhưng khi đă đồng ư về
một việc làm, một kế hoạch, một chương tŕnh nào đó th́ anh em cùng chung sức lo
liệu mỗi người một tay, chẳng chút nề hà. Cứ mỗi lần có vụ “nổ” giữa ba nhân vật
có máu “hay căi”, là hội trưởng Nguyễn Văn Xuân, hội phó Duy Lam và ủy viên Hồ
Minh, bọn chúng tôi lại bấm nhau cười : “Đừng can, để mấy ảnh nổ cho vui”. Mà
vui là đúng chứ. Nổ trong cuộc họp cứ như là đại liên và súng cối khi đụng trận,
mặt ông nào ông nấy ngó như Trương Phi, nhưng rồi anh em lại đâu vào đó, t́nh
cảm không một chút sứt mẻ. Nhờ vậy mà việc nào cũng trôi chảy. Nay tôi vẫn c̣n
nhớ những lần nói chuyện do Hội tổ chức, chẳng hạn ông Cửu Diễn nói về sự phát
triển của nghề dệt ở Quảng Nam mà ông đă góp phần không nhỏ trong việc sáng chế
và cải tiến khung cửi để dệt vải khổ rộng và hàng hoa. Hoặc nữ khoa học gia Trần
Thanh Vân của Trung Tâm Nghiên Cứu Khoa Học Quốc Gia của Pháp nói về sự thành
công của bà trong công cuộc gây giống phong lan bằng phương pháp cấy mô, v.v. và
v.v. rất được đông người nghe tham dự, là do anh em chung tay làm việc.
Nói tới Hội Khuyến Học Đà Nẵng mà không nhắc tới những bậc “bề trên” của Hội th́
thật là thiếu sót. Ba ông cố vấn của Hội đều là bác sĩ: bác sĩ Trần Đ́nh Nam,
bác sĩ Thái Can và bác sĩ Huỳnh Tấn Đối. Đó là những nhân sĩ khả kính của Đà
Nẵng, luôn luôn có mặt trong mọi hoạt động của lớp trẻ như một khích lệ quí báu.
Bác sĩ Huỳnh Tấn Đối là Chủ tịch Hồng thập Tự Đà Nẵng. Bác sĩ Thái Can, bấy giờ
đă nghỉ hưu, có cái biệt thự rất xinh ở đường Gia Long với ngôi vườn tươi mát và
tủ sách quí, là nơi gặp gỡ của những tấm ḷng nhiệt t́nh với công tác văn hóa,
xă hội, như anh Thuận Xuyên có ghi lại trong hồi kư về việc thành lập Đại Học
Cộng Đồng Quảng Đà. Ít ai biết rằng cái cụ già mập mạp phương phi, nói năng chậm
răi đó là tác giả của bài thơ t́nh nổi tiếng hồi tiền chiến “Anh biết em đi” ,
và có thơ trích trong Thi Nhân Việt Nam của Hoài Thanh. Các cụ Thái Can và Huỳnh
Tấn Đối không biết nay ở phương nào. Riêng bác sĩ Trần Đ́nh Nam th́ đă qua đời
vào năm 1973. Đây là một khuôn mặt lớn, có tầm vóc quốc gia, đă từng là Thị
trưởng Đà Nẵng, rồi Bộ trưởng Bộ Nội Vụ trong Chính phủ Trần Trọng Kim sau khi
Nhật đảo chánh Pháp và trao trả độc lập cho Việt Nam năm 1945, rồi Niên trưởng
Giám Sát Viện khi cơ quan hiến định này vừa được thành lập dưới thời Đệ Nhị Cọng
Ḥa của Miền Nam. Hồi đó, trong niềm thương tiếc của mọi người, ai cũng thấy ông
cụ ra đi hơi sớm, nhưng nay nghĩ lại biết đâu ông cụ đă có một sự lựa chọn khôn
ngoan, đúng lúc, để chẳng phải gặp cái cảnh “những điều trông thấy mà đau đớn
ḷng” của năm 75. Đám ma có trống có kèn, có tiền hô hậu ủng, có đại diện Chính
phủ - Trung tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh QĐI và Quân Khu I – đi đưa. Cả thành
phố đi đưa. Hội Khuyến Học lănh phần tế đạo trung ngay trước cổng trường Trung
học Sao Mai bằng một bài văn tế viết theo thể phú do tôi chấp bút và Trần Đăng
Sơn đọc rất thống thiết, đúng bài bản, có chiêng trống phụ họa, bà con rất tán
thưởng.
C̣n nhớ hôm đó, nghe tin cụ Nam vừa mất, ông hội trưởng Nguyễn Văn Xuân trịệu
tập ngay một cuộc họp khẩn cấp để bàn việc phúng điếu và phụ giúp tang gia trong
việc ma chay, nếu được yêu cầu, v́ ngoài việc cụ Nam là cố vấn của Hội th́ người
cháu ruột đóng vai trưởng nam của cụ, Trần Đ́nh Thanh Lam, lại là một ủy viên
của Hội. Trong cuộc họp, ai cũng đồng ư là ngoài lễ phúng, Hội Khuyến Học phải
có một điếu văn để bày tỏ ḷng tri ân đối với cụ cố vấn, v́ “Hội Khuyến Học mà
không có điếu văn th́ kỳ lắm”. Đang khi bàn thảo xem ai là người chấp bút, bỗng
không biết ai đó đưa ra ư kiến mới. Đại khái là mang danh Hội Khuyến Học mà đọc
điếu văn theo kiểu Tây th́ thường quá, ai làm cũng được, phải đọc văn tế theo
kiểu xưa th́ mới đúng điệu Khuyến Học (?), mới khác hơn người ta. Ư kiến này
được tán thưởng, nhưng ai là người viết đây? Lại không biết ai đó đẩy qua cho
tôi, nói rằng tôi “có ngón nghề viết văn tế” (!?) Thôi th́ cũng ráng vậy, v́
trong thâm tâm , tôi rất thán phục cái nhân cách, đức độ và khí tiết của cụ Trần
và cũng thích thể cổ văn này qua bài Văn tế tướng sĩ trận vong của tướng Nguyễn
Văn Thành, nên cũng muốn nhân dịp này để nói lên điều đó. Nhờ vậy, tôi đă viết
xong bài văn tế ngay trong đêm ấy. Gần nửa đêm, Hồ Minh lái xe ngang qua nhà,
thấy đèn c̣n sáng bèn tạt vào, hỏi tới đâu rồi, liệu có xong để ngày mai đem đi
kiểm duyệt và in ronéo không. Tôi nói sáng mai tám giờ tới lấy, bảo đảm, chàng
ta cười hỉ hả ra về. Điều buồn cười là nay tôi không c̣n lưu giữ được chút ǵ về
bài văn tế đó, dù là bằng giấy tờ hay bằng trí nhớ.
Sau tang lễ cụ Trần, một buổi sáng, đang làm việc th́ nghe nói có khách đến thăm.
Ông khách tự xưng là Trần Gia Thoại, hội trưởng Hội Khổng Học Đà Nẵng. A, th́ ra
Trần lăo thi sĩ đây mà, nghe tiếng đă lâu, nay mới được gặp. “Cháu nghe tiếng
bác rồi, cháu là bạn của anh Phụng đây”[1]. Ông cười: “Vậy hả? Rứa th́ ḿnh coi
như quen biết nhau rồi. Nhân đi ngang đây, biết anh làm ở đây, tôi ghé vào thăm
làm quen. Thoạt đầu tôi tưởng bài văn tế cụ Trần do ông Xuân hoặc ông Du viết,
hỏi ra, té là anh. Trẻ như anh mà viết được văn thể xưa, vậy là khá lắm. Thôi
th́ đă có khiếu cổ văn, anh cũng nên tham gia Hội Khổng Học với chúng tôi cho có
bạn.” Vậy là tôi lại lang bang qua Hội Khổng Học. Khi Hội xuất bản cuốn Quảng
Nam Qua Các Thời Đại (tập Thượng, viết về lịch sử Quảng Nam từ khởi thủy đến các
Chúa Nguyễn) của nhà văn Phan Du, tôi lănh phần tŕnh bày b́a, cả tác giả và ông
hội trưởng đều có vẻ chịu lắm, v́ rất là “Ngũ Phụng Tề Phi”. Âu đó cũng là một
lưu niệm đẹp, kiểu “lưu bút ngày xanh” (!) của thời trai trẻ. Không biết trong
cơn dâu bể, có ai c̣n giữ được cuốn sách đó không. Lấy cớ không được khỏe và bận
việc bên Hội Hồng Thập Tự Đà Nẵng, tác giả Quảng Nam Qua Các Thời Đại đề nghị
tôi tiếp tục viết tập Hạ. Tôi nhận lời để khỏi phụ ḷng ông bạn vong niên; vừa
viết được ba trong mười một chương của toàn tập th́ tháng Ba ră đám Đà Nẵng !
Nói cho đúng, không phải tôi ưa lang bang, mà cái bịnh lang bang có mặt trong
nhiều mâm bát là bệnh phổ biến lúc đó. Thành phố nhỏ, người có nhiệt t́nh với
những công tác văn hóa xă hội không nhiều, nên dễ quen biết nhau, hễ có vịệc ǵ
nên làm, đáng làm th́ rủ nhau cùng làm. Do đó hiếm mà thấy ai đứng một chân; một
người tham gia hai ba hội là thường. Phân Hội Hồng Thập Tự, Hội Khổng Học, Uỷ
ban Vận động Thành lập Đại Học Cộng Đồng Quảng Đà, Ủy ban Vận động Thành lập Chi
nhánh Đại Học Huế ở Đà Nẵng v.v. đều là những nơi có mặt hội viên Hội Khuyến Học
trong một cương vị nào đó…
--------------------------------------
[1] Nhà viết sử Trần Gia Phụng, tác giả bộ Việt Sử Đại Cương (5 cuốn) và nhiều
sách sử có giá trị khác ở hải ngoại, là con trai của cụ Trần Gia Thoại
đà nẵng
art2all.net
|