|
ĐÀ NẴNG, Fort de Non-Nay, và tấm ảnh đầu tiên của Việt Nam
Trước những địa danh tăm tiếng của Việt Nam trong lịch sử như Hà Nội, Huế, Sàig̣n v.v. th́ địa phương mang tên Đà Nẵng có một bề dày thật khiêm tốn. Ấy thế mà nếu ṭ ṃ lần về quá khứ của thành phố biển này người ta sẽ rất ngạc nhiên khi khám phá ra rằng nó chiếm nhiều cái “nhất” mà những nơi khác ở Việt Nam không có. Chẳng hạn:
Đó là bức h́nh bạn đọc thấy ngay sau đây, do Jules Itier chụp vào năm 1845 .
Xuất xứ bức ảnh
Trong tập san Bulletin des Amis du Vieux Hue (B.A.V.H) số 3 và 4 xuất bản vào tháng 7 năm 1927, H, Cosserat đă viết bài La Preḿere Photographie d’une site Cochinchinoise, le fort de Non-Nay (Bức ảnh đầu tiên về một nơi ở Đàng Trong, pháo đài Non-Nay) để giới thiệu về bức ảnh. Theo đó, H.Cosserat đă t́m được bức ảnh độc đáo này trong cuốn hồi kư Journal d’un Voyage en Chine en 1843,1844, 1845,1846, (Nhật kư du hành Trung Quốc vào các năm 1843,1844,1845,1846) gồm 3 tập, của M. Jules
Trong tập san Bulletin des Amis du Vieux Hue (B.A.V.H) số 3 và 4 xuất bản vào tháng 7 năm 1927, H, Cosserat đă viết bài La Première Photographie d’une site Cochinchinoise, le fort de Non-Nay (Bức ảnh đầu tiên về một nơi ở Đàng Trong, pháo đài Non-Nay) để giới thiệu về bức ảnh. Theo đó, H.Cosserat đă t́m được bức ảnh độc đáo này trong cuốn hồi kư Journal d’un Voyage en Chine en 1843,1844, 1845,1846, (Nhật kư du hành Trung Quốc vào các năm 1843,1844,1845,1846) gồm 3 tập, của M. Jules Itier, do nhà Dauvin et Fontaine Librairies ở Paris xuất bản vào năm 1853 , với chú thích Cảnh pháo đài Non Nay của xứ Đàng Trong ( Vue du fort cochinchinois de Non-Nay).
Năm 1843 -- bấy giờ là đời vua Thiệu Trị của Việt Nam -- vua Louis-Philippe của Pháp cử một phái bộ sang Trung Quốc để kư hiệp ước Whampoa (1844). M. Jules Itier là một thành viên trong phái đ̣an, đại diện cho Bộ Thương Măi và Tài chánh Pháp. Khi xong việc, phái bộ về đến Singapore th́ Itier được lệnh sang tàu Alcmène của Fornier du Plan để khẩn cấp tới Việt Nam can thiệp về vụ năm giáo sĩ đang bị bắt giam tại Huế.
11 giờ đêm 30/5/1845, tàu Alcmène đến vịnh Đà Nẵng, nhưng phải chờ đến sáng hôm sau mới vào bỏ neo trong vịnh. Chính vào dịp này, Jules Itier đă dùng kỹ thuật nhiếp ảnh mới phát minh ở trời Âu, gọi là Daguerréotype, để chụp 3 tấm h́nh về Đà Nẵng nhưng chỉ công bố trong hồi kư tấm h́nh nói trên mà thôi. C̣n hai tấm h́nh kia, một cái chụp cảnh vịnh Đà Nẵng , và một cái chụp cảnh Ngũ Hành Sơn, th́ hồi kư có nói tới mà không thấy in. Đó là điều không những H. Cosserat lấy làm tiếc mà ngày nay chúng ta cũng thấy tiếc hùi hụi.
Daguerréotype là kỹ thuật ǵ?
Trong phiên họp ngày 10/8/1839 của Hàn Lâm Viện Khoa Học Pháp Quốc, nhà khoa học Arago loan báo về sự phát minh kỹ thuật chụp ảnh của Daguerre và gọi kỹ thuật đó là daguerréotype.
Khi nói tới nhiếp ảnh, phần đông người ta hay nghĩ trước hết tới cái máy ảnh, và cho rằng người nào phát minh ra máy ảnh là ông tổ của khoa nhiếp ảnh. Sự thật, không phải vậy. Vào đầu thế kỷ 19, dựa vào một nguyên tắc căn bản của quang học, ở Âu châu, đặc biệt là Anh và Pháp, người ta đă biết chế ra một lọai “máy ảnh” thô sơ rồi, v́ kỹ thuật đơn giản, ai khéo tay cũng làm được. Cái mà người ta quan tâm t́m kiếm là: h́nh ảnh sau khi vào máy rồi, th́ sẽ được ghi nhận trên cái ǵ, làm sao bắt giữ được nó, làm cho nó hiện h́nh và giữ nguyên như thế măi măi. Nói một cách khác, người ta quan tâm tới vấn đề dùng cái ǵ để ghi h́nh; làm sao cho h́nh hiện ra; và làm sao cố định được h́nh ảnh đó. Sau hơn mười năm t́m kiếm, chính Daguerre đă t́m ra được kỹ thuật này, mệnh danh là phương pháp của Daguerre, daguerréotype. Với kỹ thuật này, những tấm ảnh đầu tiên của thế giới không phải in trên giấy như ngày nay. H́nh ảnh hiện trực tiếp ngay trên một bảng đồng bóng lóang phủ hóa chất bắt ánh sáng, chứ không phải phim âm bản như bây giờ.
Ḥn Mồ Côi ở mô ?
Trong hồi kư, Jules Itier ghi lại rằng tàu Alcmène đă bỏ neo ở phía nam ḥn Mồ Côi (l’Île de Mo-Koi) -- theo cách gọi của dân địa phương -- dưới chân của “fort de Non-Nay”. Chính nhờ chi tiết này mà H.Cosserat cũng như chúng ta ngày nay có thể biết chính xác ḥn Mồ Côi ở đâu và fort de Non-Nay là cái ǵ. Đây chính là ḥn đảo nhỏ nằm về phía đông-nam vịnh Đà Nẵng, được Đại Nam Nhất Thống Chí (tỉnh Quảng Nam) gọi là đảo Cô, và khi người Pháp xâm lăng Đà Nẵng đă gọi là l’Îlot de l’Observatoire, hay l’Îlot mà thôi. Ngày nay, nếu quan sát từ trên không hoặc sử dụng những bản đồ Đà Nẵng được ấn hành sau 1960 người ta sẽ thất vọng v́ không t́m đâu ra dấu vết của ḥn đảo nhỏ này.
Hai cái tên gọi “Mồ Côi” và “Cô” cho phép chúng ta h́nh dung ḥn đảo nhỏ này nằm trơ trọi một ḿnh. Theo các bô lăo địa phương, v́ đảo không xa bờ nên thời Gia Long, vua đă cho đắp một con đường nhỏ nối đất liền với đảo để lính tráng tiện đi lại canh pḥng. Khi người Pháp xâm lăng Đà Nẵng , đă chiếm ḥn đảo này, phá hũy cơ sở cũ và đặt một pháo đài ở đó, th́ con đường đất đá kia lại được làm cho rộng răi và vững vàng thêm (xem h́nh).
Bản đồ đảo Cô – Ḥn Mồ Côi do H.Cosserat vẽ, V.H.A ghi tiếng Việt
Qua đầu thế kỷ 20, khi người Pháp thủ đắc Đà Nẵng và dùng ḥn Mồ Côi làm trạm khởi hành của tuyến đường sắt nối liền nơi này với Hội An, th́ con đường lại được mở rộng, qui mô và kiên cố hơn, làm cho người ta khó nhận diện đâu là ḥn Mồ Côi xưa kia nữa, Người Pháp gọi con đường sắt này là Tramway de l’Îlot de l’Observatoire à Faifo, khánh thành vào năm 1905 và bải bỏ vào năm 1916, v́ khai thác không có lợi.
Năm 1966, khi Hải quân Hoa Kỳ xây dựng cảng sâu Tiên Sa, họ đă lấp luôn cái vịnh nhỏ ngăn cách ḥn Mồ Côi với một mơm đá lớn đâm ra từ bán đảo Tiên Sa -- mà dân địa phương từng gọi là mủi Mỏ Diều hay núi Mỏ Diều, và Đại Nam Nhất Thống Chí gọi là Diên Chũy sơn – đă làm cho cảnh quang thay đổi ḥan ṭan; đúng là một cuộc bể dâu do tay người làm nên trong thời đại mới.
Ḥn Mồ Côi hay đảo Cô hay l’Îlot de l’Observatoire thời Pháp đánh Đà Nẵng (1858-1860) dưới mắt của một sĩ quan Pháp (h́nh trích lại trong B.A.V.H; VHA ghi tiếng Việt)
Fort de Non-Nay?
Jules Itier đă nói rơ: fort de Non-Nay nằm trên ḥn Mồ Côi. H. Cosserat sau khi t́m ṭi đă phát hiện ra rằng đó chính là Đồn Hai, nhưng Itier v́ nghe phát âm không rơ nên phiên âm sai thành ra Non-Nay. Vào đầu thế kỷ 20, Cosserat đă xác nhận là không c̣n một dấu vết ǵ của Đồn Hai trên ḥn Mồ Côi cả. Nhưng v́ sao lại gọi là Đồn Hai? Vậy th́ phải có Đồn Một, và có thể cả Đồn Ba, Đồn Tư nữa, biết đâu? Muốn trả lời câu hỏi này phải lần giở lại lịch sử và sách Đại Nam Nhất Thống Chí, tỉnh Quảng Nam.
Vào cuối đời vua Minh Mạng (1820-1840), khi được tin về việc Anh đánh Trung Quốc (Chiến tranh Nha phiến), vua Minh Mạng đă nghĩ đến việc tăng cường hệ thống pḥng thủ các cửa biển, đặc biệt là Đà Nẵng. Ngoài vấn đề tăng cường hỏa lực (thêm súng đại bác) và quân số, c̣n có việc xây thêm pháo đài. Pháo đài quan trọng nhất tên là Pḥng Hải, được Nguyễn Tri Phương xây tại núi Mỏ Diều.
Đến đời Thiệu Trị (1840-1847), sau khi xảy ra vụ nổ súng thị uy của hai tàu chiến Pháp là Gloire và Victorieuse, vua đă cho xây một lọat bảy pháo đài, đặt tên là Trấn dương thất bảo, để bảo vệ Đà Nẵng, trong đó, pháo đài thứ hai được biết đặt tại đảo Cô, tức ḥn Mồ Côi. Đến đời Tự Đức, cho tới khi xảy ra cuộc xâm lăng của Pháp vào năm 1858, th́ hệ thống Trấn dương thất bảo chỉ c̣n duy tŕ bốn cái mà thôi, ấy là các pháo đài 1,2,3 và 4.
Như ta đă biết, Jules Itier chụp h́nh Đồn Hai vào tháng 5 năm 1845, và hệ thống bảy pháo đài, trong đó có Đồn Hai, măi đến năm 1847 mới có. Vậy th́ do đâu mà từ năm 1845 đă có tên Đồn Hai? Sách không nói rơ chi tiết nhưng căn cứ vào thực tế địa lư và lịch sử, ta có thể hiểu rằng cái đồn trên ḥn Mồ Côi (đảo Cô) là căn cứ có mặt rất sớm, kế đến năm 1840, khi Nguyễn Tri Phương xây pháo đài Pḥng Hải th́ nó xuống vị trí thứ hai và có tên là Đồn Hai. Và về sau, vào năm 1847, khi vua Thiệu Trị cho thiết lập Trấn dương thất bảo th́ hai căn cứ này trở thành Đồn Một và Đồn Hai. Chỉ hiểu theo cách đó th́ mới phù hợp với những ǵ nhân chứng và lịch sử đă ghi nhận.
6/2004 Vơ Hương An
|