1. Nếu không về - không sang…
Vừa lên cầu thang, bước vào căn pḥng nhỏ quen thuộc của Ṭa soạn
Quán văn, anh Nguyên Minh đưa cho tôi quyển sách mới xuất bản của
Trương Văn Dân gửi tặng, nhan đề Milano-Sài G̣n đang về hay đang
sang kư từ ngày 30.10.2018 mà “đi giang hồ” măi qua tháng 11 này
tôi mới ghé nhận được. Lật trang đầu, tự nhiên mấy ḍng đề tặng giản
dị mà ư nhị thân thương này làm tôi bỗng dưng bồi hồi...
Milano-Sài G̣n đang về hay đang sang
Nếu không về, không sang
Th́ làm sao gặp gỡ Hoàng Kim Oanh và Quán Văn…
Ừ nhỉ... nếu không về - không sang..., th́ quả là đâu có những t́nh
cờ hữu duyên hội ngộ văn chương đẹp và một mối t́nh bằng hữu – mối
t́nh Quán Văn thắm thiết như bây giờ.
Lan man nhớ ‘cái thuở ban đầu Quán Văn” bao nhiêu là lưu luyến bảy
năm xưa...
T́nh cờ cùng tham dự trong hai buổi bảo vệ luận án tiến sĩ của hai
tân khoa Đại học Quy Nhơn, anh Lê Nhật Kư và Châu Minh Hùng, nhà văn
Trương Văn Dân mời tôi đến dự ra mắt Quán Văn số đầu tiên 001 ở một
quán cafe đường Nguyễn Văn Thủ. Có tiết dạy, tranh thủ giờ ra chơi,
tôi chạy đến. Buổi ra mắt khá rộn ràng với nhiều tên tuổi làng văn
mà thật t́nh tôi không kịp nh́n kỹ một ai, chỉ gặp mỗi anh Nguyễn
Hoà vcv và kịp chào GS Huỳnh Như Phương, thầy tôi. Mua một tập Quán
văn ủng hộ, nghe hai cháu ngoại nhà văn chủ biên Nguyên Minh múa hát
một bài duy nhất rồi phải quay về số 4 Tôn Đức Thắng... dạy tiếp 2
tiết sau.
Từ đó, mỗi số ra mắt, Trương Văn Dân lại gọi, nhắn... và mời cộng
tác. Có khi tôi đến được, có khi không...
Một chút ngỡ ngàng với những trang viết “out of the box” trong khi
tôi đang trôi trong guồng chảy văn chương một ngôi trường sư phạm,
tôi ṃ mẫm t́m kiếm một tiếng nói đồng thanh đồng khí để có thể
tương ứng, tương cầu... Tiếp nối, vài lần tham dự ấm áp, chân t́nh
lần duy nhất nhà anh Trương Th́n, khi Café Chiêu tận Tân B́nh, khi
bên kênh Nhiêu Lộc… Đặc biệt, lần ra mắt QV số 10 ở nhà hàng Sông
Trăng là một cuộc hạnh ngộ xúc động khi chứng kiến t́nh bạn đẹp như
thơ trải 40 năm dâu bể tử sinh, nhờ văn chương mà t́m lại được
nhau... Độc giả thực sự cảm cái t́nh Quán Văn qua những giăi bày tâm
sự của hai người bạn thiết: nhà thơ Chu Trầm Nguyên Minh và nhà văn
Nguyên Minh, hai cây bút một thời Ư Thức. Tôi gửi bài ở số 11. Anh
Nguyên Minh đăng ngay cả bài. Vẫn cảm thấy lạc lơng. Văn ḿnh lạnh
lùng quá, khuôn khổ quá… tuân thủ academic quá, có vẻ hổng giống ai
trong ḍng hoài niệm rưng rưng và những vật vă phận đời nghiệt ngă
của các cây bút từng trải hơn nửa thế kỷ trước… Nhưng rồi những tôn
chỉ tuyệt vời của Quán Văn: không phân biệt địa vị xă hội hay học
hàm học vị; không Bắc không Nam, trong nước ngoài nước; không quảng
cáo, không nhận tài trợ bất kỳ nguồn nào... chỉ tự lực chung sức
chung ḷng v́ tôn chỉ duy nhất là Văn chương và Cái Đẹp đă cuốn hút
tôi.
Một tờ báo thật lạ. Không nhuận bút, không báo biếu mà ai cũng sẵn
ḷng góp mặt. Không ranh giới già trẻ giàu nghèo, hay lănh thổ vùng
miền, quan điểm khác biệt… ai yêu mến th́ dừng chân góp sức góp
ḷng… Cứ thế, khi lặng lẽ lẻ loi chỉ có chủ biên cùng máy tính, máy
in, máy ép, máy cắt, máy scan…; khi sôi nổi đông vui hào hứng bạn xa
bạn gần hát ḥ rôm rả…, cái ṭa soạn ‘chuồng cu” ở cuối cùng một con
hẻm nhỏ trên một con đường nhỏ Nguyễn Văn Công ấy, đến nay, 61 số ra
đời, đă nâng niu thành hiện thực không biết bao nhiêu giấc mơ văn
chương của anh em bè bạn mọi miền. Và tôi, cũng không biết từ khi
nào, những buổi cà phê sáng, những buổi họp mặt chiều..., một bài
viết mới, một vấn đề tranh luận…, một cuộc gặp gỡ nhà văn/thơ cùng
yêu mến, hay sau những chuyến ‘hành quân xa’ ‘trị liệu nhóm” Phan
Thiết, Phan Rang, Bảo Lộc, Pleiku, Kontum, Nha Trang, Huế, Hà Nội,
hai chuyến về đất Chín Rồng…; thêm những buồn vui hiếu hỉ, face sớm
face khuya, mess qua mess lại… đă là một phần của cái gia đ́nh văn
chương chỉ có nụ cười và những tấm t́nh chân thành yêu thương tên
gọi Quán Văn.
Trương Văn Dân trong 20 số đầu của Quán Văn gần như là người ‘chỉ
đường dẫn lối’ (chính xác cả nghĩa đen, nghĩa bóng) đưa tôi đến
không gian Quán Văn giữa bao nhiêu bận rộn, lạ lẫm, e dè mà một
người vừa giă từ bục giảng, hơn 30 năm quen thuộc với những quy phạm
trường lớp không thể một sớm một chiều rũ bỏ tất cả để ḥa nhập ngay
được…
Ừ nhỉ... nếu không về - không sang..., nếu Trương Văn Dân không gặp
Elena, và nếu Elena không về Việt Nam…; nếu Trương Văn Dân vẫn ở
Milano, không về Sài G̣n; hay không từ Milano sang Sài G̣n… th́ cũng
chẳng có cuộc gặp gỡ trở thành bè bạn quư giá này… Anh chị em Quán
Văn nhiều lúc nhớ nhau than thở, tưởng chừng một ngày một buổi…
không thể thiếu nhau… Ôi, Quán Văn. Ôi cái nhân duyên diệu kỳ mà tôi
có lần đọc ở đâu đó lời Phật dạy “Phải từng 500 lần quay lại nh́n
nhau từ đời kiếp trước, mới đổi lại một lần lướt qua nhau trong kiếp
này (…) Một ngh́n năm qua đi, dưới gốc cây bồ đề vẫn c̣n lại một
cuốn sách xưa cũ. Tôi lại đứng đây chờ đợi duyên trần ai kiếp này.
Chỉ v́ tôi muốn được gặp lại bạn thêm một lần, thêm một lần nữa
thôi…” (Theo Soundofhope). Không quá phóng đại chữ “duyên”
huyền bí màu nhiệm ấy, nhưng không thể không tự hỏi sao trong cơi ta
bà sắc sắc không không này, trong một sát na chớp mắt ngắn ngủi này,
ta không gặp ai khác mà là người ấy, là những người ấy…? Xin thật
ḷng nhắc lại đây theo trí nhớ lời dạy quư báu mà trong cái mong
manh ngắn ngủi vô nghĩa vô cùng là cuộc vô thường của đời người này,
tôi tâm niệm và trân quư để luôn nâng niu hết ḷng hết dạ mọi duyên
lành gặp gỡ trong quán trọ hôm nay.
2. Nếu không từ một Áng mây trôi…
(1)
Áng mây trôi là tên bài viết đầu tiên của Trương Văn Dân trên
tập san Văn học nghệ thuật (VHNT) Quán Văn số 001, trang 111-125
phát hành ngày 4.10.2011. Một câu chuyện có thật, một hoài niệm đau
buồn về David - một người bạn Ư rất thiện cảm với Việt Nam, từng có
chân trong phong trào sinh viên đ̣i chấm dứt chiến tranh Việt Nam
những năm 68-70. David là “người luôn luôn sống cho công việc” (QV1,
tr.113). Anh giỏi giang, có vị trí vững vàng trong công ty nhưng đầu
óc anh lúc nào cũng “ám ảnh ư nghĩ làm giàu và toàn bộ thời gian của
anh dành cả cho mục đích duy nhất ấy” (Sđd, tr.113). Anh hùng hục
làm để kiếm tiền bất kể ngày đêm, cuộc sống của anh không c̣n chút
lạc thú nào ngoài “sự hối thúc của thời gian và ám ảnh của tiền bạc”
(Sđd, tr.116). Kết cuộc David được ǵ? Anh bị ung thư bao tử. Vợ
mang giấy tờ đến tận bệnh viện bắt anh chuyển nhượng toàn bộ tiền
bạc tài sản cho cô và các con. Và David tàn tạ 45 tuổi, trước giờ
phút vĩnh viễn từ giă cơi đời, lần đầu tiên được thấy “những đám mây
kia đẹp quá. Nhẹ nhàng và mềm mại như bông. Mầy có thấy từ mặt trời
đỏ rực những tia nắng nhiều màu xuyên qua mây rồi chiếu xuống theo
h́nh nan quạt kia không? Hoàng hôn. Một cảnh sắc tuyệt vời. Thú thực
đây là lần đầu tiên tao thấy nó. Trong đời tao, chưa bao giờ tao có
th́ giờ, tao -chỉ-nh́n-chứ-chưa-bao-giờ-thấy!” (Sđd, tr.125).
Cái Áng mây trôi này có lẽ là một bước ngoặt đặc biệt trong
quyết định trở về của Trương Văn Dân (và Elena). “Tôi kinh hoảng
nh́n lại ḿnh và từ đó tôi thường hay thắc mắc và ưu tư về ư nghĩa
cuộc đời” (Sđd, tr.111). Điều tác giả trăn trở phải chăng chính là ư
nghĩa của cuộc đời phi lư mà chúng ta đang hít thở đi đứng nói năng
ăn uống lọc lừa yêu đương trả giá… này đây? Tại sao con người phải
làm nô lệ cho đồng tiền? Mà kiếm thật nhiều tiền để làm ǵ khi chính
tiền không thể mua được, đổi được sức khỏe, sự sống cho bản thân!
Tại sao con người phải mù quáng chạy theo những ham muốn vật chất mà
quên đi chính bản thân ḿnh, xem thường những t́nh cảm, quan hệ
trong gia đ́nh để phải đổ vỡ. Hoàng hôn ngày nào chẳng đến. Những
áng mây nhẹ nhàng mềm mại thanh thản ấy lúc nào chẳng ở quanh ta!
Tại ta không thấy nó. Không chịu thấy nó. Không biết tận hưởng cái
êm đềm trời đất ban tặng con người vốn sẵn trong tự nhiên… Trong
Milano-Sài G̣n đang về hay sang, viết tháng 8.2012 đăng trong
Quán Văn 7, Trương Văn Dân đă cho nhân vật trần thuật “tôi” – hay
cũng chính tác giả- bộc bạch lư do anh buông bỏ hết mọi ràng buộc
của công việc, danh vọng và tiền tài vật chất, cũng như hé nỗi sợ
hăi sự thao túng của kỹ thuật. Và chọn lựa cuối cùng: đi theo những
con chữ đang thôi thúc trong khối óc, trái tim ḿnh: “Tôi đă mệt mỏi
với những xô bồ. Cần sống chậm lại. Đó có thể là cách ḱm hăm sự
thao túng của kỹ thuật lên văn hóa, văn minh và thiên nhiên. Những
chiêm nghiệm và bức xúc đó, phần nào đă tuôn trào, rơi trên mặt giấy
và biến thành những con chữ.” (QV7, tr.176)
Và Trương Văn Dân đă chọn “lẽ sống chứ không phải sự sống” như nhân
vật Gấm của anh trong tiểu thuyết đầu tay mà anh nhiều gửi gấm
Bàn tay nhỏ dưới mưa cuối cùng cũng ngộ ra chân lư ấy. Diễn ngôn
trong sáng tác của nhà văn luôn đau đáu lẽ sống đích thực này là ư
thức thường trực kháng cự lại xă hội vật chất, kháng cự sự thao túng
của kỹ thuật lên văn hóa, văn minh và thiên nhiên.
Điểm các bài viết của Trương Văn Dân ngay từ những số Tập san Quán
Văn đầu tiên có thể thấy ư thức này là nhất quán. Ngoài những tản
văn, tự sự về t́nh bạn, những cuộc hội ngộ hiếm hoi đầy ấn tượng ca
ngợi t́nh yêu, sự chân thành và chung thủy…, truyện ngắn của Trương
Văn Dân tập trung vào các đề tài xă hội đang nhức nhối hiện nay. Với
quan niệm mọi giá trị đạo đức xă hội đă và đang bị hủy hoại, suy
đồi, đổ vỡ, con người bị những nhu cầu vật chất và kỹ thuật nuốt
chửng, ông viết Một giấc mơ hoa (QV3), Chiếc nạng và tấm
gương (QV6), Một ngày của Chúa (QV11), Paris ngày trở
lại (QV14), Trèo lên quăng dốc (QV 18), Đỏ đen giọt
máu (QV25)… Bức tranh méo mó xộc xệch của những quan hệ gia đ́nh
rạn vỡ và tan nát hiện lên khá rơ qua h́nh ảnh những người cha mẹ
chạy theo đồng tiền không c̣n thời gian gần gũi chăm sóc giáo dục
con cái, chỉ nuông chiều bằng vật chất khiến chúng trở nên hư hỏng,
ích kỷ, độc ác với chính người sinh ra chúng và những người chung
quanh. Một xă hội không c̣n chỗ cho t́nh thương yêu, ḷng trắc ẩn
trong Một ngày của Chúa (QV11), Trèo lên quăng dốc (QV
18). Một xă hội xô bồ đến mức con người sống trong đó bị tha hóa
không c̣n là chính ḿnh, ao ước duy nhất là được sống thật với chính
ḿnh. “Thay v́ tái cấu trúc công ty, ông thấy cần phải tái cấu trúc
đời ḿnh” (Chiếc nạng và tấm gương, QV6, tr.97) “Ông thấy xưa
nay ḿnh bước đi trong phù hoa, nhưng quên nơi ḿnh đă đến và định
đi đâu” (Sđd, tr.96). Hoặc c̣n kịp thức tỉnh nhận ra “Nhịp sống thay
đổi. Nếp sống văn hóa quay cuồng. Tao cũng rất muốn được ḥa ḿnh
trong thi ca, văn học, âm nhạc, mỹ thuật… để sống chậm lại, b́nh yên
trong ngôi nhà nhỏ, ngẫm nghĩ về những điều từng trải trong đời” (QV
25, tr.122). Không ít lần tác giả phẫn nộ lên án cơ chế xă hội bất
công, phê phán những mặt tối địa ngục trần gian đày đọa kiếp nhân
sinh và thấp thoáng một t́nh yêu khắc khoải bế tắc “Nhưng nghĩ cho
cùng, chẳng lẽ chúng ta ngồi im nh́n Việt Nam nghèo đói măi?” (QV27,
Thiên đường & địa ngục, tr.219)
Sẽ thật thiếu sót nếu không nhắc đến những đóng góp đặc biệt của
Trương Văn Dân ở cương vị một dịch giả văn chương. Song song với
việc dịch những truyện ngắn, tản văn của Elena Pucillo Trương như
một công việc thường trực tất yếu, ông tập trung giới thiệu nhiều
cây bút nổi tiếng của văn học Ư được đánh giá cao trên thế giới,
trong đó có tác giả từng đoạt giải Nobel. Tiêu biểu như Dino
Buzzati (1906-1972) với chủ đề chính là nỗi bất an của kiếp
người và sự trốn chạy thời gian được chọn dịch nhiều nhất:
Colombre (QV2) Những gă thợ săn (QV9) Thư riêng cho
ngài giám đốc (QV10) Bệnh viện bảy tầng (QV26), Những
người bạn (QV52)... Luigi Pirandello (1893–1933), nhà
thơ, nhà viết tiểu thuyết, truyện ngắn, nhà viết kịch được trao giải
Nobel văn chương 1934 th́ có Đèn rạng nhà ai (QV23), Một
chuyến đi (QV 37). Italo Calvino (1923-1985), nhà văn,
nhà phê b́nh tên tuổi được dịch nhiều nhất ở Anh và Bắc Mỹ thế kỷ XX
có Cuộc phiêu lưu của đôi vợ chồng (L’aventura di due sposi)…
Những truyện Ư đặc sắc mà Trương Văn Dân chọn dịch thực sự cũng là
một mảng hiện thực đen tối khác, bổ sung cho quan niệm về một thế
giới con người bị hủy hoại, mọi giá trị đạo đức truyền thống bị chà
đạp và con người cần phải lắng nghe tiếng nói của chính bản thân
ḿnh, quan tâm đến đời sống tinh thần lành mạnh của ḿnh để tự cứu
rỗi khỏi xă hội bạo tàn độc ác này.
Tuy nhiên cũng không chỉ là những gam màu u ám. Truyện ấn tượng nhất
với tôi là truyện dịch tôi đọc đầu tiên trên Quán Văn: Colombre
(QV2) của Dino Buzzati. Có lẽ đây là tác giả Trương Văn Dân yêu
thích nhất thông qua số truyện chọn dịch nhiều nhất. Colombre (2)
là một câu chuyện tuyệt vời đầy ám dụ về sự trớ trêu của định mệnh.
Tại sao ta phải trốn chạy định mệnh. Tại sao ta không thật hiên
ngang dũng cảm đón đầu nó, chiến đấu với nó và khuất phục nó. Và nếu
đích thực là định mệnh th́ không ai có thể trốn chạy khỏi nó. Cậu bé
lần đầu lên thuyền cha đă nh́n thấy nó: con Colombre huyền thoại-
một loài cá mà bất cứ thủy thủ ở đại dương nào trên thế giới cũng
đều kinh sợ. Đó là một loài cá nguy hiểm và kỳ bí. ‘Không ai có thể
biết lư do chọn nạn nhân của nó. Nạn nhân nó tự chọn suốt đời sẽ bị
theo sát từng ngày cho đến khi bị nó xé tan xác.” (tr.122). Cha cậu
đă t́m mọi cách để con trai không bao giờ làm bất cứ điều ǵ liên
quan đến biển. Stefano được gửi đi học ở một thành phố cách xa biển
hàng trăm cây số. Ra trường, khôn ngoan và chăm chỉ, chàng được làm
việc cũng ở một nơi lương cao không dính líu ǵ đến biển. Thế nhưng
giấc mơ và ám ảnh về con Colombre-một kẻ tử thù, một con vật không
bao giờ biết tha thứ- đang chờ đợi luôn khiến chàng bất an. Đột ngột
từ bỏ tất cả, Stefano mua thuyền và liên tục những chuyến hải hành,
hải hành… t́m kiếm định mệnh. Toàn bộ tuổi trẻ của chàng dành cho
việc đi t́m kẻ thù ấy. Nào ngờ, chính Colombre cũng đi t́m chàng…
Nhưng không phải để xé xác mà là để trao viên Hải ngọc đem lại hạnh
phúc t́nh yêu quyền lực và sự giàu sang… Tất cả đă muộn màng… ‘Tất
cả đều sai lầm. Tao đă tiêu hoang cuộc sống của tao và c̣n hủy hoại
cuộc đời mày. (tr.126)
3. Thay lời kết
Vâng. Nếu không có cái Áng mây trôi của David, có lẽ chúng ta
chưa có, hay không có một chuyên gia Hóa và kỹ thuật dược ở nước
ngoài dám từ bỏ tất cả những điều kiện thuận lợi nhất trên đất Ư,
cùng nàng Elena tóc vàng xinh đẹp có trái tim hồng và những trang
viết thấm đẫm t́nh người làm xúc động trái tim Ư cũng như Việt, quay
trở về quê cha đất tổ dựng lại niềm tin, để viết như một thôi thúc
của sứ mệnh… để hôm nay Quán Văn có nhà văn, nhà phiên dịch Trương
Văn Dân. Tuy không phải không có những suy nghĩ bi quan đến cực đoan
bế tắc trong cảm quan xă hội, trong cách giải quyết số phận nhân
vật, trong sự vội vă ôm hết mọi ưu phiền nghiệt ngă cơi đời này vào
những trang văn giàu triết luận về lẽ sống chết ở đời, song thông
điệp tác giả gửi đi qua những con chữ đang trào ra, rơi xuống đời
vẫn là những trang văn ấm áp t́nh người. Kháng cự cái xấu, cái ác
không khoan nhượng, vạch những ung nhọt ra dưới ng̣i bút giải
phẫu…cũng là một cách để Trương Văn Dân bày tỏ t́nh yêu vô cùng của
ông với đất nước quá nhiều bi kịch này, con người Việt Nam quá nhiều
đổ vỡ này, khát khao hy vọng về một tương lai cho quê nghèo này.
Những trang viết của ông trên Quán Văn từ số đầu đến nay, sáng tác
cũng như phiên dịch, có thể nói, đă luôn men theo con đường ông đă
chọn ngay từ bài đầu tiên…
Cảm ơn Trương Văn Dân đă về, và về cùng Elena. Về trong t́nh yêu
chưa bao giờ khô cạn của t́nh người Việt Nam luôn ấm nồng cả trong
gian khó khổ đau… để dệt nên những trang viết của cả hai tâm hồn.
Cảm ơn cả 500 lần ngoái lại nhau từ tiền kiếp ở đâu đó trong ba ngàn
thế giới này, để một khoảnh khắc này, nơi chốn này, anh chị em Quán
Văn chúng ta có cuộc hạnh ngộ diệu kỳ này để cuộc sống và lẽ sống
của mỗi người, lần nữa, được nhân lên…
Mùa Giáng Sinh 2018
Hoàng Kim Oanh
____________
(1) Truyện ngắn “Một áng mây
bay”, đă in trong tập truyện ngắn Hành trang ngày trở lại (NXB Trẻ,
2007) nhưng trên QV 001 bị in nhầm thành “Áng mây trôi” :
http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=10004
(2)
http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=10330
art2all.net