Không hiểu tại sao, khi
nghĩ về Cơi nhân sinh trong tập truyện ngắn & tùy bút Milano Sài
G̣n, đang về hay sang? của Trương Văn Dân, tôi lại nhớ đến ca
khúc nổi tiếng “Một Cơi đi về” của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.
Bởi trong Milano Sài G̣n, đang về hay sang? ẩn chứa rất nhiều
suy tư đầy tính triết luận của Trương Vân Dân về thân phận con người
trong cơi nhân sinh và tất nhiên trong đó, không thể không có những
ưu lo về cái chết. Song, nếu ở Một cơi đi về của Trịnh Công
Sơn hướng con người suy tư về cơi chết th́ ở Milano Sài G̣n, đang
về hay sang? của Trương Văn Dân không chỉ nói về cái chết, về
cơi hư vô trong phận số con người mà c̣n luận bàn về sự sống trong
cơi nhân sinh mà trong cảm quan của một nhà khoa học viết văn anh
nhận ra ở đó đang chứa đầy những bất ổn, bất an, bất toàn… đang ŕnh
rập để cướp đi những khoảnh khắc hạnh phúc nhỏ nhoi của con người,
được mệnh danh là đang sống trong một xă hội hiện đại của thời công
nghiệp 4.0.
Là một nhà khoa học chuyên nghiên cứu về hóa, sinh, lại đam mê sáng
tác văn học, nên cảm quan sáng tạo luôn hiện hữu và dày xéo tâm hồn
Trương Văn Dân là nỗi đớn đau trước sự tàn phá môi trường sống của
con người từ những “phát kiến” được phủ một lớp vỏ danh từ gọi là
“văn minh”, “hiện đại” nhưng ẩn chứa trong đó là những điều phi nhân
bản và thường chỉ phục vụ cho mưu cầu “kiếm tiền” của những nhóm lợi
ích nhưng luôn nhân danh những điều lớn lao. Đó cũng là điều luôn ám
ảnh tâm thức người đọc khi đến với cơi nhân sinh trong sáng tác của
Trương Văn Dân mà chính mỗi chúng ta cũng là một nạn nhân đang vẫy
vùng trong đó. Ta hăy nghe anh chia sẻ: “Văn minh hiện đại là tăng
áp lực lên mọi người và dồn nhau vào một không gian sống chật hẹp
thiếu cây xanh, đầy khói bụi ô nhiễm” (tr.83) Vậy mà, trong cái
không gian chật hẹp ấy tưởng như con người xích lại gần nhau hơn,
chia sẻ yêu thương nhau hơn. Nhưng không, chính trong cái không gian
chật hẹp ấy sự hiện hữu của nền văn minh công nghệ qua những phương
tiện thông tin hiện đại như điện thoại thông minh lại là nguyên nhân
chia cắt sự gắn bó giữa con người trong cuộc đời thực, để họ chỉ c̣n
gặp nhau trong thế giới ảo mà “lưỡi dao công nghệ thông tin đang cắt
ĺa con người khỏi không gian xung quanh ḿnh. Nó phá hủy sợi dây
liên kết giữa con người với thế giới thực tại. Bao người đang trở
thành “nô lệ” vào chiếc smartphone mà không hay biết” nên những cuộc
hội ngộ giữa con người kể cả những người bạn chí cốt sau mấy chục
năm cũng là một “Cuộc hội ngộ câm” (tên một truyện ngắn của TVD).
Phải chăng những “cuộc hội ngộ câm” mà Trương Văn Dân nói đến đă
giết chết dần cảm xúc của trái tim con người trong cơi nhân sinh của
thời kỳ được gọi là “công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Tôi rất tâm đắc
về tính biểu tượng của h́nh ảnh “cuộc hội ngộ câm” mà tác giả đă
khái quát. Cuộc “hội ngộ câm” ấy, hiện nay đă xâm nhập vào cuộc sống
của từng gia đ́nh, từng cộng đồng và tất nhiên nó như một thứ dịch
bệnh đang làm giá băng tâm hồn con người, khiến con người dù đang
ở cạnh nhau, thậm chí ở trong nhau mà vẫn hững hờ với
nhau. Sự cảnh báo của nhà văn về căn bệnh “hội ngộ câm” này, v́ thế
là một cảnh báo đầy tính nhân bản. Và những trăn trở về sự tàn phá
của con người với môi trường sống qua cảm nhận của Trương Văn Dân,
c̣n thể hiện trong các bài viết Khi c̣n chiến tranh là c̣n hy
vọng, Thiên đường và địa ngục… mà trong nhăn quan của anh, sự
độc tôn nền văn minh vật chất là căn nguyên đang làm tha hóa con
người. Bởi theo Trương Văn Dân “Nếu sống chỉ chạy theo vật chất là
sai lầm. Hạnh phúc là sống b́nh an. Có lẽ v́ thế mà nhiều nước đang
xét lại sự phát triển của ḿnh và nghiên cứu kinh sách Phật giáo và
triết học phương Đông” (tr.52). Và để có cuộc sống an lành này tác
giả khuyến cáo: “Thế giới này cần tạo một cuộc cách mạng mới. Mục
đích là bỏ nguồn năng lượng dựa vào nhiên liệu hoá thạch và triệt để
sử dụng năng lượng tái tạo trong thế kỷ XXI (…) trí tuệ nhân loại
phải hướng về điều này thay v́ làm điện thoại di động, TV, Xe hơi,
Computer… đời mới. Và đây mới là sự thách thức cho tương lai.”
(tr.53) Và khi càng trăn trở, dằn vặt như thế, Trương Văn Dân càng
suy tư về các giá trị tinh thần trong cơi nhân sinh cần được giữ
ǵn. Đó là những giá trị mà không có một nền văn minh vật chất nào
dù hiện đại đến mấy có thế thay thế. Bởi, người ta có thể chế tạo
những robôt hiện đại, đa năng với những kỹ năng, kỹ xăo tinh vi thay
con người phục vụ trong các dây chuyền công nghệ sản xuất ra của cải
vật chất nhưng không thể chế tạo ra những robốt biết rung động thay
con người trước t́nh yêu với nụ hôn đầu đời. Điều mà họa sĩ – nhà
văn Tạ Tỵ trong tạp văn Ư Nghĩ (Nxb. Khai phóng, Sài G̣n,
1974) đă cảm thán đại ư: Hỡi những cột ăng ten, những bóng đèn điện
tử, biết bao giờ các ngươi có được một linh hồn hay suốt đời chỉ
mang tên hai tiếng: Phương Tiện.
Có phải xuất phát từ trường tư tưởng thẩm mỹ như thế mà cơi nhân
sinh trong Milano Sài G̣n, đang về hay sang?, Trương Văn Dân
đă dành nhiều trang viết cho những vùng đất anh đến và đi, cho những
con người mà anh đă gặp trong cơi đời rong ruỗi của ḿnh với một cảm
hứng đầy chất trữ t́nh. V́ anh ư thức những phương tiện công nghệ
kia không thể thay anh chia sẻ những t́nh cảm ấm nóng từ trái tim
của anh đến với những người mà anh yêu quí. Đó là những lần gặp mặt
bạn bè trong câu chuyện “Cuộc hội ngộ của những trái tim”, là h́nh
ảnh một Kiệt Tấn phong t́nh và đầy nghệ sĩ tính ở bài viết “Kiệt Tấn
đôi khi thèm chết nhưng vẫn mê đời”, là câu chuyện về những Thằng
bạn già nhớ mẹ đầy da diết và cảm động, là câu chuyện về người
bạn Huỳnh Kim Bửu với Tiếng hạc bay trên sông Côn, hay h́nh
ảnh bạn bè trong câu chuyện Mùa thu những chiếc lá t́m nhau…
mà câu chuyện nào, h́nh ảnh nào cũng thấm đẫm sự chân t́nh yêu mến
của t́nh người. Đó là sự gặp gỡ từ những cuộc ra đi và những cuộc
trở về trong cơi nhân sinh mà anh trải nghiệm với tư cách là một
thực thể. H́nh như những cuộc thiên di trong cuộc đời anh và những
con người anh đă gặp, thể hiện qua những bài viết, những câu chuyện
mà anh chia sẻ trong tác phẩm đều là những cuộc thiên di định mệnh
trong hành tŕnh sống của thân phận lưu đày. Đó là cảm giác “mênh
mông và cô độc” khi anh vừa đặt chân trên đất Mỹ mà trong cảm nhận
của anh “Vẫn là những căn nhà xinh xắn, khang trang, sân trước vườn
sau, nhưng khoảng cách từ nhà này đến nhà kia trông giống như những
ḍng kênh mà vắng bóng chiếc cầu, chia cắt.” (tr.108). V́ thế, khi
nói về cuộc sống của những người Việt xa tổ quốc đang sống ở Mỹ anh
đă cảm nhận: “sự cô đơn và lạc lơng ở Mỹ dễ khiến những người già bị
trầm cảm. Họ cô đơn sống qua ngày trong những căn nhà đóng kín… thi
thoảng mới có thể tổ chức gặp nhau để tha hồ kể chuyện đời xưa”
(tr.109) (Mùa thu những chiếc lá t́m nhau). Hay cảm giác đầy
hoài niệm của kiếp lăng du khi anh đến Paris lúc: “trời trong và
đẹp. Thật là may mắn. Thiện nói mấy ngày trước Paris cũng mưa lạnh.
Vào nhà Thiện mở cửa nh́n xuống, sườn dốc một màu xanh, thoai thoải.
Chợt nhớ những đêm đốt lửa sưởi ấm mùa đông ở Đà Lạt trong lúc ra
mắt giới thiệu tập thơ của nhà thơ Phạm Cao Hoàng đang sống ở nước
ngoài mà đến lúc ấy tôi chưa từng gặp mặt.” ( tr.15) (Pari ngày
trở lại)
Trương văn Dân là người đi nhiều, gặp nhiều, giao du nhiều nên anh
cũng chiêm nghiệm nhiều. V́ vậy, cơi nhân sinh trong Milano Sài
G̣n, đang về hay sang? không chỉ dừng lại trong những cảm nhận
về bè bạn mà c̣n mở ra cùng những phận người mà khi đọc qua khiến
ḷng ta không khỏi nhói đau về những số phận mà anh nói đến. Đó là
h́nh ảnh “ông cụ già cong người đạp nhưng chiếc xe ba gác vẫn cứ
đứng yên, không nhúc nhích. Trên xe có chở chừng vài mươi thanh sắt
và một ít vật dụng. Số lượng không nhiều nhưng nó lại quá tải đối
với thân h́nh gầy nhom, ốm yếu của ông. Hơi thở hổn hển, ông h́ hục
đạp mà chiếc xe nằm ́ không đi tới.” (tr.41) (Trèo lên quăng dốc)
Và khi chứng kiến cái quảng dốc cuộc đời ấy, nhà văn không
khỏi xa xót trước nỗi khổ nghèo của người dân đô thị mà cuộc đời của
họ như đang dính chặt vào những lo toan cơm áo, cơ hồ như không
thoát ra được như “chiếc xe nằm ́ không đi tới.”. Đó là thân phận
một cô gái tật nguyền bán vé số từng rơi vào tận cùng nỗi đau đă gởi
những lá thư để cứu người đàn ông tuyệt vọng đang t́m đến với cái
chết trước t́nh cảnh người vợ bỏ đi để lấy một Việt kiều từ Mỹ về v́
không thể sống trong nghèo khổ như lời trần t́nh của cô gái: “Em khổ
quá” “Em chịu hết nổi rồi” “chừng này tuổi em thấy tiếc cuộc đời và
tuổi xuân chỉ có một lần của ḿnh” (tr.66) trong truyện Thư không
người gửi, một câu chuyện khá cảm động mà ở đó ta bắt gặp h́nh
ảnh và tâm hồn hai người đàn bà hoàn toàn đối lập nhau nhưng lại có
điểm giống nhau đó là sự thành thật với chính khát vọng sống của
ḿnh. V́ vậy, h́nh ảnh người đàn bà tên Thảo trong câu chuyện đă bỏ
chồng, bỏ con đi theo cuộc sống đủ đầy hơn là một việc làm thiếu
nhân bản, cần phải lên án. Nhưng nghĩ lại, cô cũng là một phận người
đáng thương v́ cô dám sống thật với ḿnh, với đời khi cô tự thú: “Em
khổ quá” “Em chịu hết nổi rồi”. Cái đáng thương ở cô là cô không đeo
mặt nạ, không diễn kịch như biết bao người quanh ta đang ngụy trang
bằng những mặt nạ trí trá, giả dối, diễn kịch trên sân khấu cuộc
đời. Hay nỗi đắng chát của ông Hóa, một con người đầy quyền lực đă
trở nên cô độc trước sự ghẻ lạnh của người đời khi ḿnh không c̣n
quyền lực trong câu chuyện Chiếc nạng và tấm gương, khi ông
nhận ra “con cô đơn quá! … Rồi ông giật ḿnh thức giấc . Ngồi bật
dậy, lao đi, ông cố chụp lấy điều không nắm được” (tr.40). Phải
chăng, đây cũng là một cái kết bi kịch của quyền lực. Cơi nhân sinh
trong trong Milano Sài G̣n, đang về hay sang? của Trương Văn
Dân, v́ thế thấm đẫm vị đắng chát của kiếp người trong chốn nhân
gian.
Có thể nói những cuộc viễn du của Trương Văn Dân khắp năm châu, bốn
biển cũng là một phương thức để tích lũy vốn sống cho những trang
viết. Chính v́ vậy ở những câu chuyện của Trương Văn Dân, cuộc sống
bày ra ngồn ngộn, thậm chí khá bộn bề. Dường như anh muốn thâu nhận
vào trang viết của ḿnh hầu hết những vấn đề của cơi nhân sinh.
Chính sự nghiêm sinh này đă giúp anh có chất liệu khá phong phú để
sống và viết, một điều rất cần đối với nhà văn trong hành tŕnh sáng
tạo. Song, giá anh biết thiết chế và chọn lọc từ trong vốn sống của
ḿnh những ǵ tinh tế nhất, vi diệu nhất để đưa vào trang viết th́
sức hấp dẫn và sự thuyết phục từ những trang văn của anh sẽ cao và
sâu hơn.
Một phương diện khác của cơi nhân sinh trong Milano Sài G̣n, đang
về hay sang? đó là nỗi ám ảnh về nguồn cội, về đất nước quê
hương mà dẫu có sống ở những quốc gia giàu sang đến mức nào th́ khát
vọng t́m về cội nguồn vẫn luôn canh cánh trong ḷng những con dân
nước Việt. Và đây là những trang văn hay và cảm động trong tập
truyện mà Trương Văn Dân muốn chia sẻ với người đọc với tư cách là
một chứng nhân, là người trong cuộc.
Xa quê bao nhiêu năm, dẫu sống ở Pa ri tráng lệ vậy mà Trung trong
Biết đâu nguồn cội vẫn nhớ đến quặn ḷng khi nghe một người
bạn hát ru con: “Chiều nay mở cửa ra trông / Thấy làng đâu chỉ thấy
ḷng mà thôi” … “Bài hát đă làm anh xúc động nhưng mẫu đối thoại
ngắn ngũi càng làm anh xúc động bội phần. “Hát ǵ vậy, nhớ nhà hả?”
“Đó là hai câu thơ viết về nỗi nhớ làng của Yến Lan tao ru bằng
tiếng Việt để con tao nghe quen tai sau nầy dễ tiếp thu tiếng Việt”.
Trung chợt nhớ là bạn lấy vợ người Ư, chị ta không nói được tiếng
Việt và anh phải thay mẹ để ru con bằng tiếng nói quê hương. Trung
bùi ngùi nhớ đến h́nh ảnh bạn và tự hỏi, sao khi xa người ta tha
thiết đến cội nguồn, c̣n khi sống trên đất nước người ta lại hờ hững
và không mấy quan tâm.” (Biết đâu nguồn cội, tr.3) Chính điều
trăn trở này là sức mạnh nội sinh thôi thúc Trung và những người con
xa xứ luôn khao khát t́m về cội nguồn. Không những thế, họ c̣n luôn
tự hào ḿnh là người Việt Nam là con Lạc cháu Hồng. V́ vậy, dù là
công dân Pháp nhưng về Việt Nam khi nghe ai giới thiệu Trung là
người Pháp th́ “Anh đă nhẹ nhàng đính chính” “không tôi là người
Việt Nam”. Đến nỗi, một người bạn của Trung đă phải thốt lên “Mày là
một thằng Việt Kiều lạ lùng. Khi người ta ùn ùn bỏ đi th́ mầy lại
quay về, có lắm kẻ cầm trong tay thông hành ngoại quốc để khoe
khoang th́ mầy lại khăng khăng làm người Việt.” (Biết đâu nguồn
cội tr.5) Sự khẳng định của Trung, không cần phải luận giải
nhiều cũng cho thấy ư thức về nguồn cội ở Trung mănh liệt biết dường
nào. Chính điều này đă cho thấy tâm thức Đi - Về là một trong những
mỹ cảm trong cơi nhân sinh của Trương Văn Dân thể hiện ở Milano
Sài G̣n, đang về hay sang? và cũng là một phẩm tính thẫm mỹ chi
phối sâu sắc chủ đề của tác phẩm.
Ư thức về phận người, về cội nguồn, về trách nhiệm của con người
trước vận mệnh đất nước, dân tộc cũng như ư thức của người cầm bút
trước sự hủy hoại môi trường là những thông điệp đầy tính nhân văn
mà tác giả muốn chia sẻ với người đọc. Điều này chúng ta có thể t́m
thấy ở những đoản văn đầy tính nhân bản và triết luận trong tác
phẩm. Và đây cũng là điều cần được ghi nhận. Ta hăy lắng ḷng đọc
những đoản văn này để thấy được những trăn trở của nhà văn: “Ở mọi
nơi trên thế giới, sự tàn ác đều như nhau. Ḷng tốt có giới hạn. Mà
cái ác th́ khôn cùng”. Tôi đắng họng. Không biết b́nh phẩm ra sao.
Măi sau Elena mới nói: “Cuộc đời này là ǵ? chẳng qua chỉ là một hơi
thở! Tại sao chúng ta không sống cho cái tâm ḿnh đẹp? Chỉ v́ tham
lam mà người ta ghen ghét và chém giết nhau. Thế mới biết Phật giáo
thật thâm diệu: Ai biết xem thường danh lợi th́ đời sẽ b́nh an và
lúc nào cũng có thể mở ḷng chào đón mọi người với t́nh thân ái.”
(tr.65) Hay lời sẻ chia đầy minh triết của Bác Thuận, một nhân vật
trong Thiên đường và địa ngục mà khi đọc lên tâm trí ta không
khỏi âu lo trước những vấn đề đang diễn ra trong cuộc sống: “Cuộc
cách mạng duy nhất là cuộc cách mạng nội tâm. Cuộc cách mạng chuyển
hóa ḷng tham, giận dữ thành nhân ái, thân thiện với người và với
thiên nhiên. Con người không thể sống b́nh an và hạnh phúc khi dùng
cái ác làm phương tiện.” (tr.54). Bởi, suy cho cùng, con người rồi
cũng Về với hư không và cuộc đời cũng chỉ là Một giấc mơ
hoa… Song, không chỉ dừng lại đó, trong Milano Sài G̣n, đang
về hay sang? c̣n những điều khá lư thú và bổ ích, các bạn có thể
tự khám phá khi tiếp nhận tác phẩm mà trong một bài giới thiệu ngắn
chúng tôi không thể nói hết được.
Hy vọng, đọc tác phẩm này các bạn sẽ chia sẻ với những vấn đề tác
giả nói đến trong cơi nhân sinh và t́m được cho ḿnh “một cơi đi
về”. Đó là cơi đi về phía ánh sáng của t́nh yêu thương, ḷng nhân ái
và sự hướng thiện, vốn là những giá trị hằng cửu mà những tác phẩm
văn học đích thực mang đến cho con người. Milano Sài G̣n, đang về
hay sang? của Trương Văn Dân là một tác phẩm văn chương như thế
mà tôi muốn chia sẻ như một người đọc tri âm.
Xóm Đ́nh An Nhơn G̣ Vấp – Mùa Vọng Giáng sinh
Sài G̣n, 10/12/2017
Thiện Mỹ
art2all.net