LAIQUANGNAM
Bài Cḥi (BỘ
BÀI TỚI)
Phần II –Nguồn Gốc Bộ Bài Tới
PHẦN IIA. Cội
nguồn sáng tạo: Người Việt 100%
Bài viết tưởng nhớ đến người anh hùng
Đoàn Xuân Trinh, người con
ưu tú của ḍng họ Đoàn, Đông Yên, Quảng Nam vị quốc vong thân. Mật
thám Pháp tra tấn đến chết tại Lao xá Hội An năm
1930.
Laiquangnam.
Bạn đă đọc bài viết
Bài-Cḥi phần tổng quan sách đă dẫn(1), hẳn bạn đă thấy di sản
tiền nhân đó giúp chúng ta nh́n lại những phẩm cách “rất đẹp “ của
dân Lạc Việt cội nguồn.
Nét đẹp nào được gọi là đặc trưng trong văn hoá Việt qua
ḍng lịch sử của dân tộc Lạc
Việt? Đó là phẩm cách cao thượng và ḷng hy sinh vô bờ của người “từ mẫu”
trong ḷng người phụ nữ Lạc Việt ngay từ thời lập quốc. Từ là ǵ
? Từ là ḷng yêu thương tự nhiên “ như nước trong nguồn chảy ra
“. Người ban ḷng từ tâm không hề áp đặt điều kiện ǵ lên người ḿnh
yêu thương cho dù người này có thái độ nào đối với
họ. Đó là một gien
di truyền đẹp của người Mẹ Việt.
Trong vai tṛ, người cầm chịch nàng Tuyết, tức nàng Bạch Huê, nói
cùng với chúa Thượng, người giấu mặt rằng: “
Nhân danh người trưởng
thành tôi xin thưa cùng Hoàng Thượng “, đó là ư nghĩa ba chữ Hán ghi
kín đáo “Đinh khẩu bạch” [丁口白 ] ghi khá nhỏ trên đầu lá bài
sách đă dẫn(1), một hàm ư
của người xưa thật là khí phách, ngoài mức tưởng tượng. Tại sao?
Ngày ấy, các nước quanh ta, có khi là cả thế giới này, người phụ nữ
đứng lặng lẽ và cam phận ở tuyến sau. Người phụ nữ Việt
th́ sao? -Họ đă là, họ đă luôn là, những người góp phần rất lớn xây dựng diện mạo cho dân tộc
này. Họ đă là anh hùng trước người đàn ông Việt hàng ngàn năm nhất là
trong thời kỳ lập quốc. Tính cách này bị mờ đi khi mà vua Lư Thánh
Tông du nhập Phật giáo yếm thế từ một tu sĩ tù binh Trung quốc, sau trở
thành người ông tổ truyền bá nhánh Phật giáo Thảo Đường Trung Quốc tại
Đại Việt, và tiếp sau đó người Việt chúng ta tự lập đền thờ
Khổng Tử (2) vào năm 1074. Có lẽ, lúc này th́ người phụ nữ Đại
Việt, người giữ cái gien di truyền cực kỳ quư hiếm từ cội nguồn của
dân Đại Việt, phải cam chịu lui hẳn về tuyến sau
?
Tổ quốc lâm nguy, người phụ nữ Đại
Việt lại xoắn tay áo và xông vào. Gien quư xuất
hiện kể từ khi Hai Bà Trưng khởi nghĩa đuổi Tô Định của
nhà Đông Hán vào năm 40 SCN, đến năm 222 th́ kết thúc với Lady
Triệu khởi nghĩa tại vùng đất cán chảo Thanh-Nghệ.
Tính đến thời kỳ có Đàng Trong và Đàng Ngoài th́ gien quư này đă tạm lặn
trên dưới một ngàn ba trăm năm và ...
Đến đầu thế kỷ
17, đất nước này buộc phải chứng kiến một giai đoạn lịch sử đảo
điên, tiếp đó đă có một cuộc di cư “vĩ đại”, đoàn người rời bỏ đất
Bắc theo chúa Nguyễn vào Nam, gien quư giá này lập tức hiện lên. Ngày
ấy đất Bắc đă bị nhiễm văn hoá Hán nặng
nề. Bọn người có ăn học
Đội Hán thái quá và bỏ lơ di sản quư giá của tiền nhân. Đất Bắc đă có
hai di sản quư giá, một là bài hát ru “ConC̣ mà đi ăn đêm”, hai là bài ca ThằngBờmCóCáiQuạtMo,
bài dạy khôn dại. Lời dạy cách giáo dục cho một chú
bé kể từ lúc c̣n để chỏm cho đến lúc
hắn ta vào đời. Và bài ca kết thúc với cái chết không nhắm mắt của một
Quan Bờm đầy tội lỗi, biết th́ đă quá muộn màng
ở giai đoạn về chiều của hắn. Di sản quư giá
như “ThằngBờmCóCáiQuạtMo”, có như không.
Như “đàn gẩy tai
trâu “, " nước đổ đầu vịt", xă hội miền Bắc vẫn không sao tiến về phía trước được.
Tại sao ? - Do v́ các
anh “nhất tṛ” quyết ôm ba cái sách của nhà “Tống”, gọi là Tống thư,
làm kinh nhật tụng. Đáng giận! Lần này cư dân di cư mang hai di sản
đó vào Nam và thể hiện nó qua một tinh thần mới.
Mừng thay. Di sản đất Bắc được miền Nam để mắt tới. Lần này Họ biết khôn.
Họ không dùng ngôn từ
nữa. Họ gởi gấm lên ba mươi bức tranh đồ họa. Ở đâu ? - Trong Bộ Bài Tới. Đó là một
cuộc cách mạng về tư tưởng của dân tộc ta.
Trong các thứ ngôn ngữ, hội hoạ luôn là thứ ngôn ngữ chung của nhân loại, là đỉnh cao nhất
mà loài người đă dùng ngay từ khi loài người c̣n chưa có chữ viết. Xưa
nay vô ngôn bao giờ cũng sâu hơn hữu ngôn, lời ngắn, cô đọng vẫn hơn
lời dài gịng. Vô ngôn có sức truyền sâu hơn, nó có khả năng vượt qua
được hàng rào ngôn ngữ của các chủng tộc và chia sẻ ư tưởng theo sự
nhận thức của mỗi cá nhân trong xă hội. Người học
ít hay không có cơ
hội được đi học, họ có thể hiểu được sâu xa Văn hóa Việt cội nguồn,
qua thứ ngôn ngữ hội hoạ đầy ẩn dụ này. Gien di truyền quư giá ấy
của người Việt ngày nay vẫn c̣n tồn tại và phát triển tại quê
người(3). Người Tàu tuồng như cũng đă biết như thế cho nên
Ngô Thừa Ân khi viết truyện Tề Thiên Đại Thánh, tại hồi cuối, cũng bịa
đoạn kinh Phật do Tam Tạng thỉnh được mang về Tàu, bị mất mấy trang cuối
sau đoạn Họ bị ch́m thuyền khi giă từ Tây Trúc.
Trước khi bộ Bài Tới xuất hiện, ngay
sau khi chúng
ta bị mất chữ viết trước kẻ thù
Phương Bắc, chúng ta cho dù phải vay mượn chữ viết của
kẻ thù trong việc điều hành đất nước này, dân tộc chúng ta từ xa xưa đă
có những cách thể hiện rất đặc trưng, rất riêng của giống ṇi Lạc
Việt. Dấu vết? - Đó là những ḍng thơ rất ngắn
chỉ gồm bốn câu như
các bài ca dao, đồng dao… trong văn hoá dân gian. Phật Giáo Đại Việt
th́ c̣n vết với bài thi kệ Ngôn hoài của Không Lộ thiền sư tuyệt
tác (4). Trong binh sử th́ c̣n bài hịch rất ngắn, ngắn nhất trong
lịch sử chiến tranh của nhân loại, bài Nam Quốc Sơn Hà của Danh Tướng
Lư Thường Kiệt đời Lư, (5) rồi bài ca
Thằng Bờm. Đó chính là những bài
tuyệt tác trong nền văn hóa nhân loại(6). Nay, Người ĐàngTrong đă tạo
được bộ Bài Tới, lần này dữ dội hơn.
Người Đàng Trong, Họ là ai? - Là đoàn người Bắc
di cư năm xưa, giữ hầu như nguyên vẹn những dấu ấn sâu đậm trong gịng
gien tinh túy nhất của gịng Lạc Việt mà tôi “tạm cho” là thuần chủng nhất của
người Việt từ thời lập quốc đến
nay. Tại sao? V́ sau khi bị Tàu Hán
đánh cho tan bầy xẻ nghé vào năm 43 SCN, người Việt đă kịp thời chạy
vào Thanh Nghệ, tại đây họ tập họp lại nhằm tránh sự nô lệ hay
hoà chủng với bọn quan lại Tàu mất dạy, sau đó họ theo chúa
Nguyễn Hoàng vào Nam, lấy đèo Ngang làm giới tuyến Bắc
Nam. Trong
một thời gian cực ngắn, họ đă thành lập một quốc gia mới tại đây
với một phong cách phóng khoáng hơn nhiều so với xă hội mà họ đă bỏ
ra đi. Trong thời gian ngắn ngủi, chỉ với hai bàn tay không, người
ĐàngTrong họ đă dựng nước tốt hơn so với những
ǵ mà người Đàng
Ngoài dạo ấy làm được. Kinh tế phát triển, văn hoá chữ quốc ngữ
h́nh thành, đạo Chúa được truyền bá, người Nhật được làm ăn “tự do
trong ṿng thượng tôn luật pháp “ tại Hội
an. Chúa Hiền Nguyễn
Phúc Tần đă chở che cho người Minh, người Tàu. Chúa mạnh dạn dung
nạp đội quân Minh đông đảo đến 3000 người mà không
hề sợ hăi bọn
Minh này phản chủ, lật lọng. Bọn Minh chạy trốn nhà Thanh vào đất
nước ḿnh lập nghiệp tại Nam bộ vào thời đó. Đàng Trong đă có sự
phát triển vượt bậc kéo dài khoảng 50 năm, từ 1640 đến cuối thập
niên 90 của thế kỷ 17. Lănh thổ được rộng
mở. Vậy mà thời gian quư
giá ấy không kéo dài được lâu! Ṿng đau khổ lại lặp lại với
dân tộc ta. Khi nào? Khi đă ổn, đă giàu có, không biết “ ma dẫn
lối, quỷ đưa đường “ như thế nào mà chúa Nguyễn ĐàngTrong “u mê” lại
rước Tàu vào, có lẽ từ khi Đàng Trong học tập lại lối học theo
khuôn Đàng Ngoài, đội Hán, Vọng Hán mà không tự viết cho riêng dân
ḿnh một giáo tŕnh riêng dành cho sĩ tử người Việt? Sử ghi nhận
vào năm 1694, đoàn người Tàu trên dưới 1000 người đi theo Nhà sư Quảng
Đông Thích Đại Sán đến Đàng Trong và sống
ở đó trên dưới một năm, địa bàn hoạt động chính là Quảng Nam-Hội An và Thuận
Hoá -ThừaThiên-Phú Xuân ngày nay. Văn hoá Hán tộc nay lại có cơ hội
trỗi dậy tại đây. Và ĐàngTrong bị nhiễm bẩn hơn Đàng Ngoài
về mặt Tâm linh và thờ phượng tiền nhân. Tác hại này
phát tác sau khi chúa Nguyễn Phúc Thuần xưng vương và lệnh cho người
Việt ĐàngTrong ăn mặc theo Tàu. Càng giống Tàu càng quư. Xin xem "Phủ
Biên Tạp Lục" của Lê Quư Đôn. Hèn ǵ Gia Long sau khi cầm quyền lập
tức bỏ ngay chữ Nôm và quay sang đội Hán nặng nề. Xin xem ḍng thơ chữ
Hán của Nguyễn Du trên chính trang Website này. Việc đội Hán khiến đất
nước này bị điêu đứng ngay từ khi cháu nội ông là Thiệu Trị lên ngôi.
Tác hại này đă được ghi nhận
trong bộ Bài Tới với lá bài Thầy (1), nay theo thời gian thành lá Cửu
Chùa (1) và lá bài Âm ầm (1).
Bài-cḥi(1) mang trong ḿnh bộ Bài Tới là di sản của người Đàng
Trong cho dù cho đến nay nó chưa hề được "Giải mă" trọn vẹn nhưng nó
vẫn tồn tại măi đến ngày nay. Đó là một điểm son cực quư.
Bộ Bài
Tới đă mang theo bên ḿnh một lời cảnh giác nghiêm trọng với người
điều hành đất nước này. Lần này tiếng nói được vang lên một cách
dơng dạc lại là từ người phụ nữ Đại Việt. ĐàngTrong.
Lúc này đă có một
người phụ nữ Quảng Nam, bà Đoàn Thị Ngọc thuộc tộc Đoàn Đông Yên, là
người mẹ đẻ của một v́ chúa khí phách nhất trong các
v́ chúa ở ĐàngTrong, Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần. Văn hoá và sức hiểu biết của
người phụ nữ ĐàngTrong có khi, một số do học “ lóm
“, một số rất ít
người trong số đó được chính cha
mẹ họ chỉ dạy chu đáo cho họ. Giá như họ được b́nh đẳng giới trong nền giáo dục như trước
thế kỷ thứ nhất thời Hai Bà Trưng năm xưa,
th́ nay chúng ta cũng khó mà
h́nh dung được dân tộc ḿnh đang ở bậc thang nào trong trên dưới
200 quốc gia hiện nay, chứ không đến nỗi tàn mạt như những
ǵ chúng
ta đă thấy trong cuộc đời ḿnh, “lũ chúng ta sinh lầm
thế kỷ” với
tất cả sự ngậm ngùi.
Tính cách của dân tộc ta bị thui chột đi
khi nào ? - Sau giai đoạn Minh thuộc 20 năm, 500 năm lập nước, văn hoá Đại Việt
đă tan hoang. Tính cách Vọng Hán, Quy Hán và đội
Hán do nhà Minh cấy vào dân tộc qua lớp người hằng ngày phải
tiếp xúc với chữ Hán là bọn học tṛ và giới thầy chùa rất thâm độc. Họ
khẩn cấp đào tạo
lại sĩ tử. Họ mang về Tàu đào tạo lại 200 tu
sĩ Phật Giáo người Việt để cập
nhật Phật Giáo Trung quốc, nay đă được cải biên từ thời Tống
Minh mà đất nước Đại
Việt đă gián đoạn với nó trên dưới 500 năm.
Lúc này, âm Đường ảnh hưởng trong dân tộc ta trong thời kỳ mất
nước 1000 năm trước đó mất dần và nay âm giọng Bắc Kinh trong giới
ăn học và tu sĩ Phật Giáo đội Hán do Tàu đào tạo mới lại tăng lên.
Phật Giáo Đại Việt đă khác hẳn Phật Giáo Tàu, xin vào Google search gơ
cụm “PHẬT GIÁO TỪ ẤN ĐỘ TRỰC TIẾP TRUYỀN VÀO VIỆT NAM NHƯ THẾ NÀO” bài
của TS. Lâm Như Tạng. Trong thời Tùy, Đường,Tống, Minh các Cao tăng
Tàu đă kịp Tàu hóa nhiều đại đệ tử của Gautama. Họ cho các vị này
hoá thân vào người Tàu, qua giải pháp “bịa mà không cười“, họ cho
các ngài tái đầu thai vào một người Tàu nào đó rồi tung ngược
vào đất Việt. Chỉ không đầy 70 năm sau liều độc tố này đă ngấm sâu
vào xương tuỷ văn hoá Lạc Việt . Sau khi nhà vua Lê Thánh Tôn băng hà
th́ độc tố phát tác dữ dội. Măi đến thế kỷ 17, khi điều kiện xă hội
đột biến, người phụ nữ Việt nay lại họ có dịp quay trở lại đồng hành
cùng dân tộc mình qua Bộ Bài Tới. Bà đă kịp cảnh giác nhà vua minh
quân ẩn mặt. Tiền nhân người ĐàngTrong đă dùng cách thể hiện “Vô
ngôn “ qua bộ đồ hoạ để giúp người ít học có thể hiểu được lời dạy
khôn dại của mình. Họ tin rằng có khi người ít học lại hiểu sâu
sắc hơn người có học trong “ngôn ngữ vô ngôn”. Họ tin rằng có lẽ do
từ tín hiệu di truyền từ giòng Lạc Việt xưa sẽ qua thẳng trái tim
người phụ nữ Lạc Việt khiến cho họ hiểu mình ( tiền nhân ) trước khi
họ biết đọc biết viết . Văn hóa Việt đă có những bài cực ngắn nhưng
lại là những bài tuyệt tác trong nền văn hóa nhân loại. Bàicḥi (7) của
người Đàng Trong cho dù cho đến nay chưa "Giải mă" trọn vẹn, nhưng ai
cũng biết nó mang theo ḿnh một lời cảnh giác nghiêm trọng. Người phụ nữ
Đại Việt đ̣i hỏi phải thay đổi ngay lập tức cái xă hội khốn nạn này để
họ bớt khổ đau, bởi họ là chỗ chứa nỗi khổ đau của dân tộc này.
I-Bối cảnh và thời điểm lịch sử để Bài tới ra đời
“Vơ Phiến đă đặt vấn đề này ( bàiCḥi, bộ Bài Tới), nhưng chưa giải
quyết ( Nguyệt san Tân văn, SAIGON, số 1 tháng 4-1968 có in lại trong
Toàn Tập, Mỹ, cuốn Tạp Bút, 1989, trang 227. Ngoài ra Nguyễn Văn Xuân có
viết sơ lượt trên NGUYỆT SAN VĂN số
2, tháng 12 năm 1967. Quách Tấn có
bàn tới trong Nước Non B́nh Định, Saigon,
1967, trang 444. ”, nhàVănHọcSử Đặng Tiến tổng kết như
thế. Sđd(1). Măi đến 1896, danh từ Bài tới mới được Huỳnh Tịnh Paulus Của trong
Đại Nam quấc âm tự
vị (1896, T. II, tr 455), đưa ra định nghĩa. Đó là “thứ bài bắt cặp, ai
bắt được đủ cặp trước th́ gọi là tới, nghĩa là đến trước, rồi cũng được
ăn tiền”. Cách định nghĩa như trên là lối chơi Bài Trùng, cách định
nghĩa này quá đơn giản. Cách chơi "tới" khi dùng bài Tứ Sắc của Tàu,
Domino, hay cactê ( Bộ Bài Tây) ngày nay cùng cách "tới" này. Sự
xuất hiện trên báo chí như thế cho dù quá trễ nhưng cũng quư giá
rồi. Bác sĩ Lê Văn Lân viết, vào năm 1895, “Từ nguồn sách Games of
the Orient 1895 của Stewart Culin (1858-1929) thuộc đại học University
of Pennsyvania, “ …. " tôi vui mừng nh́n thấy những lá bài có dây mơ rễ
muống với Bài Tới, Bài Cḥi Việt Nam, chẳng hạn lá bài Thái Tử ( hay
con tử ) với h́nh vẽ một người trào phục mang hia đội măo, nằm trong
bộ bài được coi cổ nhất thế giới, khoảng trước
thế kỷ thứ 11. Bộ
bài này được tiến sĩ A. Von Le Coq t́m được trong tài liệu khảo cổ
vùng Tân Cương thuộc Trung Hoa và được trưng bày
ở Bảo tàng viện Bá
Linh, Đức." (bác sĩ Lê văn Lân)
|
Trong hai lá bài Tàu kể bên trên, lá nào thuộc bộ bài
Kwan P’ai, lá bài nào là của A. Von Le Coq đă t́m thấy tại Tân cương?
Bác sĩ Lê Văn Lân không nói
rơ. Lờ mờ! Tôi không hiểu ông bác sĩ có đọc kỹ tập sách của Stewart Culin (1858-1929) không? Sách này bạn có thể
đọc được qua Google search. Bộ bài Kwan P’ai.
|
Sách của Stewart Culin cho thấy nước Việt Nam chúng ta không nằm trong
số các quốc gia ham bài bạc. Người Việt không hề có bộ bài cho riêng
dân tộc ḿnh dùng để sát phạt nhau. Đây là một trong các thuộc
tính chính để phân biệt giữa người Việt và người Tàu. Stewart Culin
không giới thiệu bộ Bài Tới của người Việt bởi thời điểm đó đất nước
này do triều Nguyễn do Gia Long lập nên đă quá ươn hèn; một quốc
gia đang bị Tây đô hộ, thế nên trong đầu các anh Tây này luôn nghĩ
đất nước này chỉ là phiên dậu của Tàu hay từ một lãnh thổ xưa của
Tàu mà thôi. Ốt Dột! Trong bản kê của ḿnh, Stewart Culin cho thấy
nghề bài bạc và các tṛ chơi trí tuệ có thể dẫn đến bài bạc. Ông
dẫn chứng từ Đông sang Tây, từ Tàu đến Ấn, từ Korea sang tận Phi
Châu, thậm chí đến các bộ lạc Indians tại nước Mỹ. Rất nhiều nơi
trên thế giới này cũng có các lối bài bạc dưới h́nh thức này hay
dưới h́nh thức khác, trừ Việt Nam. Ngay cả Lê Quư Đôn (1726-1784) trong
tác phẩm “ Phủ Biên Tạp Lục" trong đó mô tả xă hội Đàng Trong
(Quảng Nam và Thuận Hoá), ông cũng không hề mô tả bộ Bài Tới của Quảng
Nam cho dù ông đă đến đó vào năm 1776 trong vai tṛ một viên chức cấp
cao của “nhà nước“. Điều này cho thấy không phải là vào thời điểm đó
đất Quảng Nam chưa có bộ Bài Tới, mà là bộ Bài Tới không có cơ hội
được xuất hiện tại chốn đô hội, hay trong chốn bài bạc tại các
tư gia Tàu Việt giàu có tại phố Hội An. Xin đừng nghĩ rằng một khi Lê
Quư Đôn (1726-1784) chưa đề cập th́ bộ Bài Tới không tồn tại, bởi Bài
tới đă có mặt tại đất Quảng Nam cả 100 năm trước đó rồi. V́ sao? -
BàiTới không phải là bộ bài phổ biến dùng để sát phạt nhau,
hay là bộ bài dành cho cánh đàn ông giải trí vì tính cao thấp
của nó. Người “ở không”, nhàn cư, mới đánh bạc, c̣n người đầu tắt
mặt tối chí khú làm ăn th́ th́ giờ đâu mà bạc mà bài. Bộ Bài Tới tồn
tại ở khu vực dân dă một cách âm thầm, hay nằm đâu đó trong các
mủng thúng của người người phụ nữ Quảng Nam khi họ đi bán dạo quần
áo hay vài xấp lụa khi họ đi bộ khắp khu vực thuộc châu Đông Yên
ngày xưa. Châu Đông Yên ngày xưa là khu vực rộng lớn kéo dài từ
Chiêm sơn, Mă Châu, G̣ Nổi và vùng phụ cận lan đến tận Chợ Cũ. Chợ
Cũ là một cảng lớn thuộc loại sầm uất nhất nh́ Đông Nam Á vào thế
kỷ thứ 17, nằm về phía bắc Hội an, Quảng Nam ngày nay, nó đă bị cát
vùi lấp và nay không c̣n xử dụng được. Ngày đó mấy ai đă có Bài tới
và đă mấy người được thấy bộ bài rất cổ đó? Làm ra Bài tới bằng
thủ công rất tốn th́ giờ, chuẩn bị xương thay giấy cho nó. Xương có
thể từ gỗ, từ tre hay từ mo cau tươi chần đá, cho tới giấy gió bồi
của đất Bắc trong gia đ́nh người họ Đoàn, nay là người của hoàng tộc.
Những người con trong họ Đoàn, nhánh bà Đoàn Quư Phi tức Bà Đoàn Thị
Ngọc, mẹ chúa Hiền vương Nguyễn Phúc Tần (1620-1687), có đôi người
lớp rất già c̣n biết mơ hồ chuyện năm xưa của gịng họ ḿnh, đôi
người nay chỉ c̣n nhớ lơ mơ trong kư ức. Thật đáng tiếc!
Bài tới Quảng Nam được h́nh thành từ trí tuệ tập thể của người
ĐàngTrong khi chúa Hiền muốn có một bộ bài để Bà mẹ kính yêu goá
bụa của ḿnh được giải trí cùng các người hầu cận. Vào năm 1648, Cha
ḿnh qua đời, Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần dồn hết t́nh thương yêu
vào mẹ ḿnh, lúc này ông 28 tuổi. Bộ Bài Tới có đó nhưng nó hiếm quá,
bởi nó nói ra nhiều điều đụng chạm, chính v́ thế mà Bài Tới ẩn ḿnh
sâu như thế. Măi đến năm 1930 khi Tṛ chơi Bài Cḥi phát triển tại các
tỉnh Trung eo nằm hai bên bờ đèo Hải Vân, phía nam là Nam Ngăi B́nh
Phú–và phía bắc là B́nh Trị Thiên, vào lúc này đây nó mới được các nhà
văn hoá để mắt tới. Điều này cho thấy bộ Bài Tới không phải làm ra
cho mục đích ăn thua sát phạt như bộ bài Kwan P’ai của Tàu. Khi không
có ăn thua sát phạt là không có điều kiện phát triển bởi lợi nhuận
dành cho người kinh doanh thấp, họ không muốn in ấn hay khắc bản.
Một lư do khác, phải cần thời gian rất lâu th́ từ tên Khai sinh mới
h́nh thành được tên Dân Gian. Có tên Dân Gian th́ mới có các câu hô thai
vui vui xuất hiện. Sau khi các câu hô thai xuất hiện th́ phải mất
một thời gian lâu nữa nó mới h́nh thành tṛ chơi Bài Cḥi sách đă
dẫn(1). Lối hát theo thể điệu Bài Cḥi h́nh thành và phát triển
có lẽ cùng với đạo quân Tây Sơn khởi binh, phong cách người B́nh Định,
người Quảng Nam phù hợp với lối hát xướng này. Quân Tây Sơn dùng nó
trong việc giải trí sau các cuộc hành quân, hay đang lúc hành quân
nhằm gây phấn khích cho người chiến binh ĐàngTrong. Lúc này trong đoàn
binh của Tây Sơn có đạo quân chủ lực do danh tướng Trần quang Diệu
người Quảng Nam lập, họ đă theo với Tây Sơn từ lúc khởi nghiệp cho
đến lúc tàn cuộc. Thời Tây Sơn đă có nhạc vơ. Cách đánh giặc thần
sầu, cảm tử và lăn xả là cách đánh rất riêng của tướng lănh B́nh Định,
Quảng Nam, khiến họ thích hợp với điệu hát Bài-Cḥi**. Đó là thời
điểm cho Bài-Cḥi rộ lên. Bộ Bài Tới sống nhờ vào tṛ chơi Bài Cḥi
phát triển trên diện rộng.
Những cơ hội hưng phấn đến với dân tộc không nhiều.
Sự hưng phấn của quốc gia lên cao th́ những dòng tư tưởng đầy cao
vọng về dân tộc ḿnh mới dâng trào, lúc nầy người tài hoa mới xuất
hiện. Bộ Bài Tới đất Quảng Nam may mắn được ra đời trong thời điểm
hưng phấn ấy. Ta hồi tưởng lại, thời điểm ĐàngTrong h́nh thành khi
chúa Nguyễn Hoàng vào Nam đầu cuối thế kỷ thứ 16, vào khoảng thập
niên 70, trong giai đoạn vài mươi năm đầu vất vả thiếu tự tin, c̣n
quy phục đất Bắc, nhưng từ khi bà Đoàn thị Ngọc, người con gái họ
Đoàn Đông Yên, Quảng Nam về làm vợ chúa Nguyễn Phúc Lan th́ xă hội đă
khá hơn. Bà là mẹ chúa Hiền Vương, ở ngôi chúa 39 năm (1648 - 1687).
Nguyễn Phúc Tần (1620-1687) là vị chúa anh minh nhất trong các v́
chúa Nguyễn ở ĐàngTrong như ta đă biết. Và sự hưng phấn lại tiếp
tục như ban đầu….
Mời đọc đoạn lịch sử này:
Tháng 6, năm 1643, theo đề nghị của chúa Trịnh, ba tàu chiến của Công ty
Đông Ấn Hà Lan (VOS) là Wojdenes ,De Wijdeness, Waterhond. VOS tiến vào
cửa Thuận An đánh chúa Nguyễn. Được tin chúa Nguyễn Phúc Lan lấy làm
lo. Chúa Thượng (Nguyễn Phúc Lan) họp quần thần hỏi nếu thuyền ta đụng
với thuyền địch th́ ta thắng hay thua? Chưởng cơ Tôn thất Trung và
các tướng lănh không “dám hứa là chắc thắng”. Bọn quần thần có người
sợ đến té đái trong quần, bởi thuyền của HALAN lớn thuyền mà thuyền ta
th́ quá mong manh. Họ chần chừ, trả lời trong ấp úng v́ muốn yên
ḷng Chúa Thượng. Ngán ngẫm, Chúa Thượng hỏi một người Hà Lan giúp
việc th́ người này trả lời: "Tàu Hà Lan chỉ sợ có mỗi quân đội nhà trời
thôi". Có nghiă là hải quân Halan là vô địch. Điều này đúng, bởi công
ty ĐÔNG ẤN HALAN (VOS) đă vừa chiếm được thủ phủ Batavia (tức Jakartar)
của Indonesia vào đầu các năm 1600, họ đang áp đặt nền đô hộ lên dân
tộc đông đúc này. Halan đang là vua biển cả trong số các nước Phương
Tây. Các nước như Tây Ban Nha, Pháp cũng nể v́, nói ǵ hải quân của cái
xứ ĐàngTrong bé xíu này. Các Tướng từng trăi đều chần chừ là như thế,
họ biết người biết ta. Lúc này, vào năm 1643, Thế tử Nguyễn Phúc Tần
(1620- 1687) mới 23 tuổi đang ứa gan bởi nhiều lần người Halan ṿng
quanh phía bên kia biển Hội an, cù lao Chàm đă nhiều lần cướp phá. Có
lần hai tàu của người Halan mắc cạn tại hải đảo này và bị Chúa
Thượng tịch thu bắt giam thuỷ thủ đoàn khoảng 70 người. Sẵn mang
gịng máu liều mạng của người Quảng Nam, tại đó bọn nhóc con trai
Quảng Nam từ thuở nhỏ đă quen thuộc với câu khẩu khí, chơi luôn đi,
“Chết chôn ai bỏ vô L. mà sợ!”. Gịng máu 50/50 của họ ngoại đă ám
vào Ngài. Quyết tâm đánh một trận cho biết đá vàng. Ừ th́ chết chôn!.
Biết tính con ḿnh, sợ trẻ người non dạ ,dẫn đến sơ suất, chúa
Thượng giao thế tử Nguyễn Phúc Tần cho em ruột ḿnh là Chưởng Cơ
Nguyễn Phúc Trung (tức Tôn Thất Trung) giám sát và kềm cặp. Ngày 7
tháng 7, năm 1643, Thế tử Nguyễn Phúc Tần xin chú ḿnh được tham gia
quan sát trận địa khi ba tàu của công ty VOS Halan đi vào vùng biển
ĐàngTrong. Sách Đại Nam thực lục đă ghi lại:
"Bấy giờ, giặc Ô Lan (HALAN) đậu thuyền ngoài biển, cướp bóc lái buôn. Quân tuần biển báo
tin. Chúa đương bàn kế đánh dẹp. Thế tử (tức Nguyễn
Phúc Tần) tức th́ mật báo với chưởng cơ Nguyễn Phúc Trung (con thứ tư
của Hy Tông), ước được đưa thủy quân ra đánh. Trung lấy cớ chưa bẩm mệnh
anh ḿnh, ngần ngại chưa quyết. Thế tử tự đốc suất chiến thuyền của
ḿnh tiến thẳng ra biển. Trung bất đắc dĩ cũng đốc suất binh thuyền theo
đi, đến cửa biển th́ thuyền của thế tử đă ra ngoài khơi. Trung lấy cờ
vẫy lại, nhưng thế tử không quay lại. Trung bèn giục binh thuyền tiến
theo. Chiếc thuyền trước sau lướt nhanh như
bay, giặc trông thấy thất
kinh hoảng sợ. "
Sự thật, với sức trẻ, pha 50 /50 máu của dân ĐàngTrong liều mạng,
ḷng đă muốn tử chiến cùng kẻ ngông cuồng một phen,Thế tử tự ḿnh thân
hành ra lệnh cho thuỷ quân dưới quyền dốc toàn bộ 50 thuyền dưới quyền
đồng loạt xông lên. Ba chiếc tàu của Hà Lan có súng lớn đă bắn ch́m
một số thuyền Thế tử. Nhờ số đông, hoả lực đối phương không sao
diệt hết được thuyền ta cùng một lúc. Rất khí thế, trong tiếng reo ḥ
với chất giọng Quảng Nam khàn đục, từ bốn mặt, thuỷ thủ với đoản đao
xông lên các tàu Hà Lan. Không ngại hy sinh, như đă nói, lính của Thế
Tử đa phần là thuỷ thủ người Quảng Nam. “Chết chôn ai bỏ vô L. mà sợ”,
mặc dù bạn bè bị thương lềnh khênh, máu loang đỏ cả mặt biển đông,
nhưng họ vẫn bám lấy, và tấn công vào tàu Hà Lan quyết liệt. Bọn
Tây đă biết sợ! Trong nỗi kinh hoàng, bọn Tây không nghĩ đến
chuyện cứu nhau, chiếc nhỏ nhất trong ba chiếc của công ty VOS HALAN
luồn lách chạy thoát được. Hú hồn. Chiếc thứ hai thuyền trưởng hoảng
loạn, lái tàu hoảng loạn, tàu bị đâm vào đá, cả đoàn thuỷ thủ lớp bị
giết lớp bị bắt, tàu ch́m. Chiếc thứ ba là soái hạm, chiếc lớn nhất
chống cự lại một cách quyết liệt nhưng bị các thủy quân của Thế tử
Nguyễn Phúc Tần bám sát quá, đông đúc quá, họ chặt bánh lái, nhảy lên
tàu, chấp nhận cận chiến cho dù người Việt nhỏ con hơn và xông lại,
chơi luôn!, “Chết chôn ai bỏ vô L. mà sợ!”, họ đă chặt găy cột buồm.
Quá Tuyệt vọng, thuyền trưởng Hà Lan cho nổ kho thuốc súng, tất cả thủy
thủ trên tàu, kể cả thuyền trưởng Baeck, tất cả đều chết. Đây là lần
đầu tiên trong lịch sử, thủy quân Việt Nam đă đánh thắng một lực lượng
thủy quân của Âu Châu. Từ đó về sau không nghe nói người Halan đến
khuấy phá hải phận ĐàngTrong nữa. Tây cũng đă biết sợ dân liều
mạng! Thế tử Nguyễn Phúc Tần đánh thắng nhờ cái ẩu và cái
liều mạng của 50% ḍng máu Quảng Nam từ người “ từ mẫu” truyền cho.
Sau khi nghe tin thắng trận, Chúa Nguyễn Phúc Lan rất vui mừng và khen:
“Trước kia tiên quân ta từng đánh phá giặc biển, nay con ta cũng lại
như thế, ta không lo ǵ nữa”. Tuy nhiên, chúa Nguyễn Phúc Lan cũng
rét, sợ sự việc không may xảy đến cho “Chút cục cưng của ḿnh”. Ngài
quở, “ Chú ẩu! Tôi nhờ Chú áp sát nó vậy mà Chú hở tay, may mà!
liệu nó mệnh hệ th́ anh biết lấy ai tiếp tục sự nghiệp của tiền
nhân?". Nguyễn Phúc Trung làm thinh v́ biết rằng anh ḿnh có với
chị dâu ḿnh, Bà Đoàn Thị Ngọc (1600-1661), ba người con trai, hai
người kia đều mất sớm. Thế tử Nguyễn Phúc Tần là hạt giống cuối cùng.
Anh ḿnh làm sao mà không lo cho được. Năm 1648, chúa Thượng Nguyễn Phúc
Lan đột ngột qua đời. Nh́n trước nh́n sau, Thế tử Nguyễn Phúc Tần, lúc
này là 28 tuổi, kính cẩn mời chú ḿnh, Nguyễn Phúc Trung kê vai gánh
vác việc nước. Ông từ chối. Nguyễn Phúc Trung xứng đáng đảm nhận vai
tṛ dẫn dắt Thế tử mà Nguyễn Phúc Lan đă khéo chọn. Chúa Hiền Nguyễn
Phúc Tần người đă có tầm nh́n xa. Nguyễn Phúc Tần lên ngôi ở tuổi 29.
Bà Đoàn Thị Ngọc trở thành Thái Hậu, sau khi chồng mất bà lui về
sống tại Thanh chiêm, thủ phủ ĐàngTrong, tức địa bàn Phú Chiêm, Quảng
Nam ngày nay.
Đọc đoạn sử này bạn thấy
ǵ ?
Cá tính nhà vua có 50/50 máu Quảng Nam trong
người, sinh ra và lớn lên tại đất Quảng Nam, thấy giặc đến là ‘chơi
luôn“ chẳng nghĩ đến ḿnh là cành vàng lá ngọc. Việc nước là việc
nặng nề. Làm vua cho tṛn phận chắc ǵ đă sướng, đó là lư do ông mời
chú ruột của ḿnh, người săn sóc ḿnh trong quân ngũ lên làm vua sau
khi cha mất. Đó là một việc hiếm hoi trong các triều đại phong kiến
xưa. “Được làm vua thua làm giặc”. Bên Tàu anh em ruột giết nhau thiếu
ǵ, tỉ như Đường Thế Dân chẳng hạn (9). V́ có tính cách như thế nên bộ
Bài Tới mới có cơ may ra đời và mang tính “ chịu chơi “ như thế. Một
suy nghĩ rất mới trong đời sống nhân loại vào thời điểm ấy.
Chuyện kể sau khi cha mất, sợ mẹ buồn, Chúa
Hiền Nguyễn Phúc Tần đă có ư nghĩ làm cho mẹ ḿnh một bộ bài để
giải khuây. Cơ hội đến khi mà vào lúc này người Bồ đào Nha, người Tây
Ban Nha đến đây để buôn bán. Họ đă mang đến xứ ta các cổ bài tây, có
khi, đó là phẩm vật tặng phủ Chúa, hay là hàng hóa để bán buôn
với người ĐàngTrong không chừng. Bộ bài tây như thế không phải là vật
xa lạ. Sợ bạc bài sẽ sinh ra tội lỗi, Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần
dặn ḍ những người bạn năm xưa của ḿnh là làm sao loại bỏ tính chất
bạc bài ra khỏi bộ bài này. Đó là một vấn đề nan giải. Sau một giai
đoạn nghiền ngẫm, t́m hiểu bộ bài mẫu, t́m hiểu cách cấu tạo của
bộ Bài Tây ( X́ ÁCH) họ bắt tay vào việc. Tại sao bài Tàu và bài
Tây lại là các loại bài dẫn đến bài bạc đến nỗi phải tán gia bại
sản? Họ, những người chiến binh đă tham gia trận đánh liều mạng với
ông trên đại dương năm xưa, họ dốc ḷng vào đây và xây dựng bộ bài
với sự tuân thủ chặt chẻ lời dặn của Chúa Hiền. Việc đâu có đơn
giản, bởi phổ biến bài bạc là tội ác với dân tộc, với người phụ nữ
Đại Việt, họ cùng tự nhủ.
II-Bắt tay xây dựng bộ bài tới.
1-Cơ hội phát sinh
Cơ hội phát sinh chính là gặp bối cảnh xă
hội đang có sự hưng phấn. Sự hưng phấn tạo thuận lợi cho tư
tưởng phục vụ dân sinh, và Kẻ Sĩ nào cũng muốn đất nước mình đời
đời bền vững. Đàng Trong dạo ấy đă có những điều ǵ xẩy ra? Chữ quốc
ngữ h́nh thành. Giáo sĩ đến truyền đạo Thiên chúa, họ là các nhà ngôn
ngữ học lừng lẫy. Người Hội An giúp việc cho các giáo sĩ Thiên chúa
đă tham gia trong việc dịch kinh sách ra Việt ngữ bằng thứ chữ phiên
âm alphabet. Rất mới. Giáo dân có thể đọc được chữ quốc ngữ. Người
Nhật đến lập nghiệp với khu đinh cư riêng và bang giao Việt Nhật
rất tốt đẹp. Kinh tế đi lên. Chúa Hiền vừa thắng trận để đời với
người Halan. Việc mở rộng lănh thổ về Phương Nam thuận lợi. Người
phụ nữ Quảng Nam ở ĐàngTrong, một khi có cơ hội tiếp cận với nhà lănh
đạo đất nước, tỉ dụ như người con gái họ Đoàn thuộc làng Đông Yên,
Đại Lộc, Quảng Nam quê tôi, th́ Bà làm được nhiều điều có lợi cho
lịch sử. Năm xưa khi được Hoàng thái tử Nguyễn Phúc Lan rước về dinh,
nàng đă sinh cho gia đ́nh chồng một đứa con trai đầy khí phách. Nay đă
là mẹ của nhà vua, là người có ăn học, bà muốn hiến cuộc đời ḿnh
phụng sự quốc gia. Nay nhân nhà vua truyền lệnh cho quần thần làm
cho mẹ ḿnh (cho Bà) một bộ bài để giải khuây dựa trên bộ bài của
người Tây mang sang, Bà rất đỗi vui mừng, có thể Bà đă có cho những
nhận xét, những ư kiến quư giá về ước vọng khôn nguôi của người phụ nữ
ĐàngTrong? Quảng Nam hay “căi” hay hay “cải”?* là từ đây?
2- H́nh thành tư tưởng
Những người được uỷ nhiệm xây dựng bộ bài là những chiến binh năm
xưa tham gia trận hải chiến, họ sống chết với đất nước này. Đất
nước này muốn được vững bền lâu dài
th́ hăy thay đổi ngay lập tức cái
xă hội nhiễm Hán sâu như hiện nay, quan bớt khốn nạn
th́ dân sẽ bớt
khổ đau. Đừng học những ǵ xa xôi mà người Hán đă dạy nữa, đôi khi
chỉ là lời nói dóc cho vui. Làm sao mà hiện thực.
Hăy học lấy những ǵ mà tiền nhân ta đă
chỉ dạy là đă quá đủ. Tiền nhân ta đă dạy
những ǵ, họ là ai? Đặc điểm trong lời dạy là
ǵ? Nay ở đâu? - Đừng bỏ qua lời dạy của tiền nhân cho dù
chỉ là vài từ ngắn gọn. Ngắn gọn?
Có làm hạn chế tư tưởng không? Không, mà trái lại, nó đă thâm
sâu hơn vạn pho sách Tàu do Khổng Tử, Khổng Khâu là thánh Tàu, viết.
Họ nhắc nhở nhau là người Việt ta hăy đọc kỹ lời dạy của Đức Thánh
ta trước khi quỳ mọp trước Thánh Tàu:
“ …nương sức dân, lấy làm kế vững bền để giữ được nước.
“ lời trối
trăn của Thánh nhân Trần Hưng Đạo.
Năm 1300 Trần Quốc Tuấn ốm nặng, vua Trần tới thăm và hỏi ông về kế sách
giữ nước. Câu hỏi được đặt ra cho Ngài là “liệu đất nước này có c̣n
bị Tàu doạ làm cỏ không?” một khi yêu sách
về lănh thổ, về quyền
lợi kinh doanh, hay quyền lợi kiều dân Tàu đang sống tại nước ta
không được đáp ứng. Lời doạ này nay vẫn c̣n như một lưỡi kiếm treo
trên đầu người Việt. Người Việt phải đối phó bằng cách nào? Qua
Binh
thư yếu lược, Ngài dạy “…. . nó cậy trường trận, ta dựa vào đoản binh.
”. “Khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ
nước vậy”. Kế thanh dă là kế vườn không nhà trống, tuy khổ đau nhưng
bắt buộc phải làm, trong cuộc chiến với nó. Lời dạy tuy vô cùng
ngắn nhưng nội hàm hơn cả ngàn pho sách Tàu do Tử viết, bởi kiệm lời
là đặc tính của tiền nhân người Việt.
Đại Việt Sử Kư Toàn Thư ghi
tiếp lời Ngài dạy bảo :
“…. trên dưới một dạ, ḷng dân không ĺa, … [(nhớ xưa*(10)], Vua Lư mở
nền, nhà Tống xâm phạm địa giới, dùng Lư Thường Kiệt đánh Khâm, Liêm, đến tận Mai Lĩnh là v́ có thế. …………Vừa rồi Toa Đô, Ô Mă Nhi bốn mặt bao
vây. V́ vua tôi đồng tâm, anh em hoà mục, cả nước nhà góp sức, giặc phải
bị bắt. …. ”
……” Nếu chỉ thấy quân nó kéo đến như lửa, như gió th́ thế dễ chế ngự. “
“………. Nếu nó tiến chậm như cách tằm ăn, không cầu thắng chóng, th́ phải
chọn dùng tướng giỏi, xem xét quyền biến, ….
. [(lúc này phải có được*)]
một đội quân một ḷng như cha con th́ mới dùng được.
“
Thế nào là "khoan sức dân" ? Khoan là như thế nào? - Là tránh tiêu pha
phung phí, cắn răng nhịn xây lăng tẩm, dành sức và tài nguyên quốc
gia dùng vào việc nuôi dưỡng cho con trẻ được học hành tử tế, vua
nhịn cho trẻ thơ được ăn uống đầy đủ, có thế th́ người lính mới cường
tráng đủ đảm trách việc binh, người đàn ông nhẹ thuế khoá, người mẹ có
chút thư thả, để nghĩ đến hạnh phúc gia đ́nh, điều này chắc chắn sẽ
dẫn đến “một đội quân một ḷng như cha con”. Lúc đó th́ nhà Vua sẽ
khỏi cần có mặt của đám Quan Bờm như Lục Trạng, đám Cửu chùa, không
cần bọn sai nha, tuyên truyền “đỏ mỏ “, sđd(1) để duy trì
ngôi báu của mình.
Thế nào là “ quân nó kéo đến như lửa, như gió th́ thế dễ chế ngự.
” ? V́ sao? - Nó kéo đến ào ào, chắc chắn mức tàn phá đất nước ta lên
cao, ḷng căm thù lên tự tuôn ra trong ḷng người, lúc này trên dưới
đều một ḷng nên dễ chống giặc. Lúc này bọn Việt gian đạo quân thứ
5 lộ diện, bởi bọn chúng nương gió bẻ măng, dân quân ta dễ dàng
phát hiện láng giềng là kẻ thù và sẵn sàng tiêu diệt bọn chúng
nó.
Thế nào là “ nó tiến chậm như cách tằm ăn, không cầu thắng chóng,
” ? - Đó là lúc địch dùng bàn tay sắt bọc nhung, cách luộc ếch cho
chết trong nước sôi từ từ mà người Tàu áp dụng xưa nay đối với đất
nước ta. Những nọc độc bắt đầu tác hại qua con đường văn hoá Tàu
Hán, qua tôn giáo, qua việc học hành sao chép từ Tống thư qua thi cử,
hay qua các cuộc hôn nhân dị chủng. Người phụ nữ Đại Việt và gia đ́nh
bên ngoại đă sinh ra và nuôi dưỡng những đứa cháu ngoại vô ơn sẵn sàng
cầm súng của địch quân bắn vào gịng họ ngoại của mẹ nó. Hăy đọc
lại di sản của Tiền nhân ta trên đất Bắc từ ngàn năm trước, đă thấu
hiểu, và gởi qua bài hát ru “ConC̣”, tất cả đều đă có ngay
trước mặt tại sao lại t́m cho xa. Bà mẹ của Phạm Nhan đời Trần cay
đắng qua bài hát ru nội dung ConC̣, bà đă hoàn toàn vô tội. Bà khóc
than “ Ông ơi ông vớt tôi nao, tôi có ḷng nào ông hăy xáo măng
“. Tích Thằng Phạm Nhan còn lưu giữ cẩn thận trong các đền
thờ đức Thánh Trần của người Đàng Ngoài vẫn còn đó. " Phạm Nhan
là đứa con tôi, cho dù tôi nứt ruột đẻ ra, nhưng nó là thằng bất
nhân bất nghĩa . Gịng họ nội nó, gịng họ bên chồng tôi, đă mang
về Tàu dành lấy việc giáo dục. Bọn Tàu đă gieo vào đầu nó cái khí
chất Đại Hán nên nay mới ra nông nỗi. Cái thằng Phạm Nhan đă bị
thanh kiếm thần của Trần Hưng Đạo chặt ra làm ba khúc là đúng. Vậy
mà sau khi hắn bị Tướng Phạm Ngũ Lăo bắt và hành hình, hắn vẫn
không hề quên hại dân tộc ḍng họ ngoại của mẹ nó. Khúc chân cho dù
đă mang chôn xuống ruộng, nó lại biến thành đĩa hút máu người làm
nông. Khúc ḿnh nó cho dù đă mang vào rừng, nó cũng lập tức biến
thành muỗi hút máu người làm rừng ở vùng Thượng du. C̣n cái đầu đă
được mang chôn tại vùng đồng bằng th́ nay biến thành quỷ, hằng đêm
chui vào quần đàn bà Việt để gây ra bệnh kín, đầu Hán Tàu t́m tới
háng phụ nữ Việt có từ tích này, tôi đâu ngờ thằng con lai mất dạy
này (Phạm Nhan) sao nó độc đến thế! Con ôi là con, chồng ôi là
chồng! “ Vậy mà với tấm ḷng “từ mẫu’ cố hữu của người phụ nữ
Việt, bà vẫn van xin “Ông ơi, đừng xáo nước đục đau ḷng c̣ con” (c̣
con ==> con c̣, ngày mai). Xin Ông nhẹ tay”. - Trời đất!, Nó giết
cả họ ngoại nhà bà, giết cha, mẹ, anh, chị, em, bạn bè người Việt
của bà mà bà xin nhẹ tay sao? - “Bởi tôi là người từ mẫu Lạc Việt.”
Cao thượng thay!. Đó là bài toán mà người làm ra Bài Tới phải t́m hướng
giải quyết. Đó là việc giảm ngay đội Hán, giảm vọng Hán, giảm ngưỡng
Hán, coi trọng thuộc tính tốt của dân Lạc Việt, làm được như thế th́
không có cách ǵ mà bên chồng của bà mẹ Phạm Nhan lại tự đặt ḿnh
ở kèo trên và mang nó về Tàu giáo dưỡng.
“Quân sĩ quư ở chỗ tinh nhuệ, không quư ở số đông.“, “Quân quư tinh bất
quư đa”, VạnKiếpTông BíTruyền Thư (Trần Hưng Đạo).
Thế nào là “Quân sĩ quư ở chỗ tinh nhuệ, không quư ở số đông”
? - Chỉ có
khi nhà cầm quyền biết nương sức dân, giảm chi tiêu phung phí, phù
phiếm vô bổ, quan tâm đến nguyện vọng của người phụ nữ, quan tâm
đến việc giáo dục con trẻ chu đáo, cắn răng nhịn tiêu pha trong giai
đoạn dựng nước hay đă hưng thịng, tích lũy của cải làm nền,
th́ lúc đó người lính
sẽ cường tráng, thông minh, “trên dưới một ḷng”. Ai mà đến phá nát
cái hạnh phúc mà họ đang được hưởng
th́ họ tự nguyện thích lên
cánh tay ḿnh hai chữ “Sát thát “ ngay lập tức. “Lúc ấy dẫu xác thân
này có tan ra làm ngàn mảnh ta cũng nguyện xin làm. “ Hịch tướng
sĩ.
Thế nào là “ Nếu nó tiến chậm như cách tằm ăn, không cầu thắng chóng,
th́ phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét quyền biến” ? Phải đập nát
ngay con rắn độc, các ổ mối núp dưới chiêu bài tôn giáo Tam Giáo
Đồng Tông (11), đồng nguyên ,đồng văn, đồng tôn …. Người Việt
lầm to rồi! Bấy lâu họ đang uống liều thuốc độc này mà họ đâu
hay! Hằng ngày người Việt cúi lạy các ông Phật Tàu do người Tống,
người Minh bịa ra, mang chèn vào Phật Giáo Đại Việt lúc đất nước này
sau lần bị Minh thuộc. Đạo Phật Lạc Việt bị Phật Giáo Tàu đẩy ra.
Nhà Minh đưa thứ Phật Giáo Tàu đầy chất Lăo-Trang-Khổng-Mạnh, Đạo
giáo đan xen. Bọn người Minh qua bàn tay phù phép của Minh Chúa, Vĩnh
Lạc, quyết tâm đầu độc dân tộc này từ cội nguồn. Vĩnh Lạc dạy
người Tàu , hăy để người Việt dùng tư tưởng đậm nét Hán tộc dạy cho
“thằng bé c̣n để chỏm mang tên Bờm ” ngay từ lúc trẻ thơ, truyền mê tín
qua lỗ tai người phụ nữ Đại Việt qua cái miệng ngon ngọt ÂM ẦM qua
con đường đạo giáo. Hắn, Minh Chúa, Vĩnh Lạc, liên kết với hiện
tượng tâm linh bằng các lời phán truyền bí ẩn, không có ǵ hiệu quả
hơn bằng ám vào ThầyChùa (12) đội Hán kết hợp với Mụ lên đồng bóng
(12) hay qua đám học Tṛ (12) ĐộiHán. Đám này hôm nay là sĩ tử, ngày
mai là Quan Bờm, bọn nó sẽ đảm trách điều hành guồng máy quốc gia.
Đó là nguyên nhân chính khiến văn hoá cội nguồn từ muôn đời nay của
quốc gia Đại Việt bị nhiễm bẩn trầm trọng.
Trước yêu cầu của nhà vua, cân nhắc lời dạy của tiền nhân, làm sao
đưa được cho bằng hết các tư tưởng kể trên vào bộ Bài Tới, nhóm
người nhận trách nhiệm làm ra Bài tới trong tương lai không thật đơn
giản. Đâu đă hết, nhà vua c̣n đưa ra hai yêu cầu. Một là, trong bộ bài
phải không “một ai đó” được dùng nó để bói bài, bói toán nhằm lấy đi
những đồng tiền mồ hôi nước mất của các Chị, các Mẹ người Việt. Hai
là, không ai có thể dùng nó trong việc sát phạt ăn thua làm tán gia
bại sản khiến cho Ta (Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần) khó điều hành
đất nước này. Đau đầu! Từ các yêu cầu trên, “BọnHọ” (13), lật tới
lật lui để may ra rút được vài kinh nghiệm sáng tạo của người Phương
Tây trên bộ Bài tây mà họ đang có trên tay.
Giải quyết bài toán từ sự yêu cầu của nhà vua (14)
Bước 1, phác hoạ kế hoạch
a)Tiến hành loại bỏ hiện tượng bói toán trong bộ bài.
Bài Tây ( X́ ÁCH) có ǵ đặc biệt ? - Bài x́ ách bói bài được. V́ sao? -
Có 12 lá bài mang h́nh mặt người rất đẹp khiến người bốc trúng nó
nghĩ ḿnh đang hên, điều cầu khẩn nay được thần linh đồng t́nh, bởi
họ là nhà vua, là hoàng hậu, là công nương, viên chức cấp cao. Với
các nút th́ trong bộ Bài Tây( X́ ÁCH) đă có các nút từ nút số 2 đến
nút số 10. Dĩ nhiên các lá bài mang nút 7, 8, 9, 10 đă là đẹp rồi.
Chỉ có các nút c̣n lại 2, 3, 4, 5 là tệ thôi. Vậy là trong bộ bài có
lá đẹp, có lá xấu, có lá hên, có lá xui, có lá trung b́nh. Vậy phải
bỏ nét đẹp, xấu, hên, xui đi th́ tác dụng bói toán sẽ triệt tiêu.
BọnHọ chỉ c̣n một tuyến mà thôi. Làm đẹp th́ ai không muốn nhưng
chọn ai, bỏ ai, ai là người của quốc gia phải chọn? BọnHọ nghĩ anh
hùng dân tộc quá nhiều, các tiên vương tiên đế cũng quá nhiều, chín
người mười ư, lỡ chọn tiên vương mà dân không thích th́ sao? Biểu thị
h́nh ảnh các Ngài ra làm sao ? Vẽ nhuếch nhác th́ có tội với tiền nhân,
muốn đẹp như bộ Bài Tây ( X́ ÁCH) th́ phải chọn khổ h́nh chữ nhật,
lá bài khổ lớn, điều kiện thực tế không cho phép làm như phương Tây.
BọnHọ đành chọn các lá bài dạng h́nh que, kiểu các lá xăm trong các
đ́nh, đền vậy.
b)Tiến hành loại bỏ cơ hội bài bạc qua bộ bài.
Phải loại bỏ hiện tượng có ăn thua? BọnHọ thấy sự mạch lạc của
bộ Bài Tây ( X́ ÁCH). Con bạc cần cao thấp khi ăn thua. Bộ bài phải
có kết hợp 4 là chính; ngoài ra c̣n có các kết hợp 3, kết hợp 5. Kết
hợp 3 là phân tuyến tam tam “x́/ách, già, đầm’, kết hợp 5 là “x́/ách,
già, đầm, bồi, thập”; bài tứ sắc của Tàu th́ “tướng sĩ tượng”, “xe
pháo mă”. Kết hợp 4 th́ có bốn lá bài giống nhau, bốn lá bài cùng
màu. Một khi các lá bài trên tay có sự liên kết như thế th́ số “rác”
(15) trên tay sẽ ít đi. BọnHọ quyết định Bộ Bài Tới sẽ không có tuyến
5, 4, và 3. Phân tuyến lại, đặt lại tên. Nhưng... không bài bạc th́
làm sao bộ bài tồn tại? Ai đó nhắc tuồng. - Th́ chúng ta làm ra cho
mẹ nhà vua và các cung nữ giải trí mà.
Bước 2, Tiến hành thực hiện
Bộ Bài Tới không hề đề cập đến Anh hùng dân tộc (16), người lính,
người làm tướng, ẩn sĩ, nghệ nhân, thầy thuốc, thầy dạy học, các
vị Cao tăng, các người b́nh dân đaọ đức chí khú làm ăn, các thương
nhân thuộc giới Ngư, Tiều, Canh, Mục và người làm công nghệ …Nghĩa là
những người đóng góp gián tiếp cho sự hạnh phúc gia đ́nh và sự phát
triển đất nước này.
BọnHọ sau khi quyết định, chỉ chọn các khuôn mặt
hắc ám trong xă hội. Người phụ nữ là người chịu đựng, họ vô tội.
Bọn đàn ông phải lắng nghe từ tiếng nói của họ. Bọn đàn ông tội ác
cùng mình? Họ là ai? - Là lớp người có ăn học, là Quan Bờm mà thể
hiện một phần qua di sản tiền nhân của người đất Bắc, bài ca
ThằngBờmCóCáiQuạtMo; - Là bọn thất học, là gánh nặng trên vai người
phụ nữ khi vớ phải họ làm chồng.
BọnHọ quyết định chọn ba tuyến, hai tuyến nam và
một tuyến nữ. Mọi lá bài đều có giá trị ngang nhau, không có lá bài có
giá trị lớn, lá bài có giá trị nhỏ, không có lá bài đẹp, không có lá
bài xấu. Chọn số lá bài bao nhiêu là thích hợp? Lá bài cần chia
cho thật hết, để không ai có ư ăn gian bởi số lá bài c̣n tồn tại
trên bàn. Nếu gặp số tay chơi 3, 4, 5 th́ sao? Chọn 60 là bội số
chung bé nhất. Ổn. Vậy có 60 lá bài, v́ có ba tuyến. Bọn Thất phu,
Bọn Quan Bờm và người phụ nữ nạn nhân. BọnHọ nghĩ v́ cần có sự bắt
cặp tối thiểu, nên chọn hai. Hai là số lần lặp lại tối thiểu.
Kết quả là bộ Bài Tới của chúng ta ngày nay có 30 con bài, trong một bộ
bài gồm 60 lá bài. 30 con bài là 30 nhân vật trong xă hội ĐàngTrong
đương thời.
Liệu trên thế gian này có bộ bài nào có lối lập luận này? Hoạ may
chỉ có Bộ Bài Tây mà thôi. Tiền nhân chúng ta thật là độc đáo và
thật là dữ dội!
Bước 3, chọn nhân vật trung tâm
Chọn nhân vật trung tâm khởi đầu cho một ư niệm không hề đơn
giản. Nhà vua hay cung nữ? Nhà vua có cần hiện diện hay không? Nhà
vua là bậc tôn kính, BọnHọ cần giữ lấy cái đầu ḿnh liền cái cổ.
BọnHọ đành cho nhà vua là người “ nằm khỏi ṿng” luận bàn. Ông chỉ
là người lắng nghe thần dân ông tŕnh bày nguyện vọng. Tạm ổn!
BọnHọ quyết định chọn ý tưởng? - Mỗi
con bài phải là giọt nước mắt của người phụ nữ Đại Việt!.
Cho dù khi đó là lá bài thuộc cánh người phụ nữ, hay đó là một thằng
đàn ông không ra ǵ, đó là bọn thất phu mà họ, con gái họ hay cháu
gái họ vớ phải trong đời ḿnh. Giọt nước mắt người phụ nữ sẽ khóc măi
trong đêm nếu gịng họ của họ, những đứa con của họ nay là những
thằng có ăn học, nhưng lại là Quan Bờm. Quan Bờm cho dù có tiếng, có
miếng hôm nay nhưng là kẻ tội đồ làm ô nhục ḍng họ cha nó trong
tương lai. Khi và chỉ khi đám đàn ông này
không c̣n th́ quốc gia này mới mong tồn tại và ngóc đầu lên.
Lịch sử rồi sẽ sang trang. Cuối cùng BọnHọ đă cho nhân vật nữ có
tên Khai sinh là Tuyết, hay nàng Bạch Huê lên tiếng như chúng ta đă biết
tại phần I. sđd(1).
Bước 4, thể hiện nét đồ hoạ và đặt tên Khai sinh.
Bộ Bài Tới nếu không tồn tại và phổ biến rộng trong dân gian
th́ đây là điều đáng tiếc, công ḿnh là công cốc, BọnHọ cùng nghĩ.
Không có yếu tố bài bạc trong đây, người kinh doanh sẽ không in ấn
phát hành, vậy phải làm sao đây? Trên tay BọnHọ, trước mặt BọnHọ
là Bộ Bài Tây. Bộ Bài Tây (X́ ÁCH) xuất hiện từ thế kỷ 15, theo
người thuỷ thủ Âu châu đến Hội An vào thế kỷ 17, đó là nơi đô hội có
thể gọi là tấp nập nhất ĐNÁ vào lúc ấy. Bộ Bài Tây (X́ ÁCH) có
tuyến 5, tuyến 4, tuyến 3 và cuối cùng là tuyến 2. Bắt cặp là bài
trùng. Bộ Bài Tây (X́ ÁCH) có 52 con bài phân phối đều trên 4 tuyến.
Nó kết hợp dọc và kết hợp ngang. Nó gồm 4 tuyến cơ, rô, chuồn, bích.
Tây nó biểu thị như thế, c̣n ta th́ sao? Ai đó trong BọnHọ nhắc
tuồng, có ǵ dùng nấy! Thế tôi hỏi các
bạn, người phụ nữ có cái ǵ nào? - Th́ vú, th́ núm cau trên đầu vú,
th́ hai cái mông tṛn lẳn và háng và L. Tiếu lâm! và không khí vui
không sao kể xiết. Những người chiến binh trong trận hải chiến năm xưa
ngồi lại nói chẳng sợ ai. Được dịp nói tục, nói trây, nói bừa âu
cũng là cái thú của các anh Quảng Nam trực tính ngày ấy. Tiếp tục!
Thế bọn đàn ông thất phu có cái ǵ nào? - Th́ Con C. , th́ cái đầu C.
, th́ hai ḥn d. và b́u, chứ c̣n cái quỷ ǵ nữa cha nội! Thế th́ bọn
đàn ông có ăn học th́ có cái ǵ nào? - Th́ có cái đầu thông minh!
Nhưng, có đôi khi kèm theo cái bản mặt khó ưa! Bọn chúng sợ ai đó “
phẹt” vào mặt hắn một đống, chúng chỉ sợ miệng thế gian mà thôi.
Vậy th́ bọn nó phải làm sao tự vệ? - Th́ tụi Tàu ngày xưa đă biết
thuộc tính của nó, họ đă cho mỗi thằng đàn ông làm quan một cây
quạt để che sắc diện khi mặt chúng trở nên xanh lè. Tỉ như cái anh
chàng Khổng Minh của Tàu, âm mưu có hạng, đi đâu y cũng phải lận lưng
cây quạt vậy mà. Ừ, th́ tại sao chúng ta không rấn vào mặt nó một
cái mặt mo. Ừ hỉ, ThằngBờmCóCáiQuạtMo, ai đó trong BọnHọ nói lớn.
Tiếp tục đi, tới luôn. Ai đó trong bọn họ phân tích. Bộ bài xuất hiện
tại người Phương Tây đă có các quân bài h́nh vua, hoàng hậu, h́nh người
hầu là K, Q, J. Mỗi hạng (rank) trong từng bộ 13 quân cùng chất cũng
đại diện cho 1 tháng trăng kéo dài 28 ngày, 13 con bàix4tuyến=52 tuần ;
hay tách ra, 12 quân trừ con ách là mười hai tháng. 4 lá ách tức 4 tuần.
Bốn tuyến cơ, rô, chuồn, bích là bốn mùa thay đổi trong năm …. Riêng
lá bài K có h́nh vua, lá bài Q có h́nh hoàng hậu, lá bài J có h́nh hoàng
tử, công nương. K, Q, J gọi tên dân gian là Già, Đầm, Bồi tương ứng. Lá
A gọi là x́ hoặc ách. Mỗi lá một nhân vật lừng danh trong lịch sử Âu
châu. Họ trầm ngâm. Giờ sao hè! . Cuối cùng th́ BọnHọ đă chọn
được. đại diện cho các khuôn mặt là bọn làm “ điêu đứng đất nước
này “. Nặng nhất vẫn là bọn có ăn học mà đầu đội Hán, chỉ biết Hán
là Hán, luôn ngợi ca Hán tộc là nhất, cái ǵ cũng quy chiếu về cội
nguồn này. Miền Bắc vốn sẵn có bài ca di sản ThằngBờmCóCáiQuạtMo, đem
cái quạt mo (ẩn dụ) vào nhân vật có ăn học này, tiếp đó không quên
để chữ Hán trên đầu bọn họ. Kết quả là là một chữ sĩ ngă nghiêng
trong lá Nhất Tṛ như bạn đă thấy trong sđd(1) (士), (一)+(十)==> 士 ==>(仕,
âm sĩ là người học tṛ ), đúng lời dạy của Minh Thành tổ Vĩnh
Lạc. Nay Ghi lại để người Việt cảnh giác. Tiếp tục đi, người cầm
chịch nói tiếp. Bọn thất phu đáng sợ nhất là bọn nào? - Bọn hiếu
danh, bọn làm tay sai nếu như tháitử (17) cấp cho nó một chứng từ lận
lưng. Th́ đóng con ” Dấu đỏ“ vào mồm nó. Xưa nay nghề ô nhục nhất
vẫn là người viết văn tế, đục văn bia tán tụng kẻ làm tàn hại đất
nước này, thứ đến là anh đọc văn tế ngợi ca hắn. Phải đóng đúng nơi,
dán vào miệng nhà quan có gang có thép một con triện. Bọn vô học mà
một khi lên cầm quyền th́ đất nước này tiêu. Đó là bọn đầu Tôm,
bọn có cứt lộn lên đầu! Bọn Quan Bờm dẫu sao cũng là bọn có chút
chữ nghĩa, bọn chúng đôi khi mắc cở không dám “ tuyên truyền láo “ cho
thái tử dù rằng TỬ đang cầu bọn Tàu che chở, chống lưng để được
lên làm vua. - Th́ ấn vào đầu nó một chữ Tàu lờ mờ hơn để dân
chúng cảnh giác người lãnh đạo theo phù Tàu, sách đă dẫn(1) người
cầm chịch nhắc nhở. Chỉ có bọn thất phu mới “liều“, dám nói bậy
bởi chúng có ǵ để mất đâu, trên răng dưới dế, bọn chúng có học
hành ǵ đâu. Ghi vào! Tên Khai sinh của tên bợm này là “mỏ” sđd (1).
Ngày này qua tháng nọ, căi nhau như mổ ḅ, có tiếng cười rật rật,
cuối cùng BọnHọ cũng hoàn thành được từng lá bài trong bộ Bài Tới
như chúng ta đă thấy ngày nay sđd (1), (18).
Chuyện kể khó nhất là lúc chọn nhân vật trung tâm của bộ bài,
lá bài Tuyết. Tại sao lại là lá bài trung tâm bởi nàng là tiếng nói
của người phụ nữ, trên đầu nàng cũng có chữ Hán, đây là lá bài duy
nhất ngoài đám đàn ông có ăn học được ngợi khen là có cái đầu thông
minh như đă kể trên. Khác nhau giữa chữ Hán của nàng và của các Quan
Bờm là gì ? Cái biết của nàng là học một biết mười, biết là thông và
dùng được việc. Cái biết của cánh đàn ông Quan Bờm, chữ Tàu lận lưng
không đầy lá mít, học mười biết một, quanh đi quẩn lại cũng chỉ là
hai từ “điền kiến” của một anh nông dân sđd(1). Nàng đủ đảm lược lên
tiếng một cách mạch lạc như lời cảnh giác cho kẻ cầm quyền, do gien
di truyền trong huyết quản lâu đời trong giòng Lạc Việt xưa. Tôi, Tuyết,
xin lên tiếng, bởi tôi là người trưởng thành có đóng thuế, đó là ư nghĩa
của ba từ chữ Hán “Đinh khẩu bạch” như các bạn đă biết trong bài một
sđd (1). Tôn trọng chị, Người Quảng Nam ngày đó gọi chị là Tuyết.
hay Bạch Huê. Không một ai gọi nàng là L. bao giờ. Ai cũng biết cái
khổ đầu đời của chị không do ḿnh gây ra mà do “ sự tiền định “,
chị TUYẾT không hề có “cỏ cây chen lá đá chen hoa “ (BHTQ). Phẩm
chất chị ra sao các bạn đă tạm biết sơ sơ trong phần I, sđd(1).
Chị có nỗi khổ riêng của ḿnh. Phàm trời đất sinh, không có thứ ǵ
trên thân thể ḿnh là dư thừa, bỏ đi. Lông mũi th́ che bụi bặm vào
đường phổi, lông mày th́ ngăn mồ hồi trán chảy vào mắt, lông mi che
bụi vào mắt, thậm chí đến lông nách cũng có chức năng riêng của nó.
Và “cỏ cây chen lá” của chị Bạch Huê th́ đảm nhận vai tṛ ǵ? Bỏ qua
sự hiện diện của nó trong vấn đề lạc thú chăn gối. Ngày ấy người
phụ nữ Việt Nam là thợ cấy mạ. Việt Nam là vùng sông nước đan chen.
Ngày cấy mạ, hay vào mùa gặt, người phụ nữ là lao động chính. Ruộng
lúa có khi ngập trong nước. Người phụ nữ may mắn hơn chị th́ nhờ có
đám rong rêu che chở ngăn cản các con vật rất nhỏ xông vào chỗ kín dễ
gây bệnh nấm. Đây lại là chỗ của tên Tàu lai 50/50 Phạm Nhan ưa
thích tìm cách chui đầu vào từ đáy quần của các chị! (19).
Riêng phần chị th́ bị thiệt tḥi. Ấy thế mà chị không được thấu
hiểu, c̣n cho chị mang cái xui vào cho gia đ́nh chồng. Sao bọn đàn
ông Việt lại dễ dàng nhiễm tư tưởng Hán đến như vậy. Càng ăn học
càng đội Hán nặng nề. Con giun xéo măi cũng oằn, chị buộc ḷng phải
lên tiếng. Chuyện BọnHọ rất nhiều, laiquangnam xin ngừng tường
thuật. Kết quả là chúng ta có bộ Bài Tới qua thời gian như laiquangnam
liệt kê tại phần I, sđd(1)***
Phân tuyến 60 lá bài trong bộ Bài Tới Quảng Nam.
( Nhắc lại phần đă viết trong phần I )
Đặc điểm từng tuyến:
Tuyến I: Là cánh phụ nữ,
Tuyến II: Là cánh đàn ông không được học hành, họ không thể nào lọt
vào chốn quan trường đầy thủ đoạn như cánh
III.
Tuyến III: là thế giới học tṛ, nhờ cái học mà vào đời qua con đường
quan lại, ăn trên ngồi trước với nhiều mưu mô thủ đọan. H́nh vẽ là
Mặt người luôn có cái quạt mo che mặt.
Cột I
Bậc cao dần |
Tuyến I
Phụ nữ |
Tuyến II
Đàn ông
không được ăn học |
Tuyến III
Đàn ông được ăn học,
==> Quan Bờm |
Bậc 1 |
Bạch Huê |
Nhất Nọc, Nọc Thược |
Nhất Tṛ |
Bậc 2 |
Bánh/ Bành Hai |
Nh́ Nghèo |
Nh́ Bí |
Bậc 3 |
Bánh / Bành Ba |
Ba Gà |
Tam Quăn |
Bậc 4 |
Dái Doi/ Tứ tượng |
Tứ dóng/ Tứ nhóng |
Tư Hương/ Tứ Cẳng |
Bậc 5 |
Năm Rún/ Đổ Ruột |
Ngũ Đụm |
Ngũ Trưa/ Ngũ Trợt |
Bậc 6 |
Sáu Tiền |
Sáu Hột |
Lục Trạng |
Bậc 7 |
Thất Liễu |
Bảy thưa/ sưa |
Thất Nhọn |
Bậc 8 |
Tám Tiền |
Tám Dầy |
Bát Bồng |
Bậc 9 |
Chín ghe/Chín xe |
Chín Gối |
Cửu Chùa |
Bậc 10 (có
đóng dấu đỏ) |
Âm/ Ầm |
Đỏ mỏ |
Thái Tử |
Vài hình ảnh :
Xin hẹn kỳ tới.
Thân ái.
California, mùa nắng ấm, ngày của Mẹ, May11,
2015.
Laiquangnam.
-o0o0o-
PHẦN IIB. Nguồn
gốc bộ Bài Tới
Tranh luận: Ai là người chủ nhân thực sự bộ bài thẻ này. Tàu hay
Việt. Ai ăn cắp của ai?
Xin mời đọc Phần ba với Nội dung, ai là người sáng tác loại bài thẻ
độc đáo này. Tàu có bộ bài Kwan P’ai, và người Việt có bộ Bài Tới. Trong
đó có nhiều lá bài giống nhau. Ai sao chép của ai? Xin đọc trước
bài viết của Huỳnh Ngọc Trảng, ông đă nói
ǵ cho bộ bài Tàu, bác sĩ Lê Văn Lân đă đánh giá và so sánh ra sao ?
____________________
Tham khảo và chú thích
(1)- sách đă dẫn(1):
http://www.art2all.net/tho/laiquangnam/baichoi/lqn_baichoi_baitoi_phan1.htm
(2)- Nhân vật Khổng Tử chúng ta sẽ đề cập đến
trong một bài khác.
(3)- Tại Hoa kỳ, hạnh phúc thay cho người đàn ông Mỹ nào lấy được
một người vợ Việt Nam, bởi con cái họ ngoài cái tinh thần thuần lư
Mỹ, thể chất Mỹ, đứa bé c̣n được hưởng sư yêu thương của gia đ́nh
ngoại, nhất là của ông bà ngoại. Về già, khi đến tuổi hưu, quư
ngoại chịu đón cháu đưa đi học vẽ, học vơ, học đàn.
(4)- Ḿnh đề nghị Bạn hiền đọc trước bài 'Ngôn hoài' của Không
Lộ thiền sư trước, sau đó đọc bài giải mă của laiquangnam ngay tại
trang website này.
(5)- Xin đọc bài 'Nam Quốc Sơn Hà' của Danh Tướng Lư Thường
Kiệt đời Lư do laiquangnam viết trên chính trang website này hay trên
Chim Việt Cành Nam ..
(6)- Chúng ta sẽ có dịp lần lượt giải mă nó, trước khi chúng ta sắp
hàng, chào thua Lăo Thời Gian.
(7)- Bàicḥi viết liền, chỉ rằng nó là một thuật ngữ, nó là bộ bài tới,
do v́ thói quen không bỏ được, nói Bài-Cḥi (viết rời có gạch ngang là
tṛ chơi Bài Cḥi) th́ nhiều người biết hay hiểu. Họ chưa quen với từ
bộ Bài Tới hay Bộ Bài Trùng. Thế giới có thể đă biết Bài-Cḥi nhưng
chưa biết “từ” bộ Bài Tới. Bài tới thuộc hệ STICK CARD, bài que, bài
h́nh thẻ. Người Phương Tây thấy người Tàu hay rút thẻ xăm tại các ngôi
đền thờ thần của họ. Rút thẻ xăm cũng là một tư thế Bài bạc, rủi may.
Thân phận ḿnh không do ḿnh quyết định mà lại do sự hên xui. Chính
sự rút thẻ này mà bài bạc là một trong các thuộc tính cố hữu của
người Tàu. Người Việt bắt chước học theo. Nhảm!
8- Tư liệu được lấy từ vi-wikipedia, copy & paste và làm cho gọn nhẹ
lại.
(9)- Xin đọc bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du [ a2a:
Thái B́nh mại ca giả] trên trang web
này, Nguyễn Du có nhắc về sự tích giết anh cướp ngôi, giết em cướp vợ
đẹp của em của Đường Thế Dân, người sáng lập ra nhà Đường.
(10)- Dấu * do laiquangnam chèn cho lời được liên tục, không có trong
văn bản chính.
(11)- Đừng tưởng vô hại. Tâm thức “Phật chỉ là h́nh tướng” rất đúng
với bậc Cao Tăng, nhưng với dân tộc đầy chất Đại Hán th́ không thể.
(12)- Tṛ, Thầy, mụ đồng bóng ( ÂM ẦM) là tên các lá bài trong bộ
Bài Tới mà bạn đă biết qua sách đă dẫn(1)
(13)- BọnHọ viết liền là một thuật ngữ, trong nhất thời chưa biết
dùng từ nào, nên dùng đỡ từ này, xin hiểu BọnHọ là THEY bên Anh ngữ,
do v́ có chữ Bọn nên khó nghe. Ngày xưa khi viết sử th́ Sử gia Trần
Trọng Kim cũng dùng từ này. Từ sẽ được thay thế khi trong Việt ngữ có
ai đó dùng từ hay hơn.
(14)- Nhà vua, đúng hơn là phải gọi Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần.
(15)- Rác: rác là từ đánh bạc, từ này dùng chung cho những ai chơi bài
theo dạng “ bài tới “, ”bài trùng”. Rác là con bài đơn lẻ trên tay
người đánh bạc, khi nào trên tay họ không c̣n các lá bài đơn lẻ như
thế th́ họ tới (tới là thắng, là ăn bàn), đó là lối chơi của Bài tới
Việt Nam, hay tứ sắc của Tàu ….
(16)- Đó là một thiếu sót của người Việt. Trong tương lai, bây giờ th́
công nghệ in ấn đă tốt hơn. Qua bộ Bài Tây( X́ ÁCH), ai đó sử dụng
chiêu “ốcmượn hồn” ; thử phác hoạ việc kinh doanh của ḿnh, chọn 12
nhân vật trong bộ bài này là các anh hùng dân tộc như các lá K, Q, J.
laiquangnam thử đề nghị.
(17)- Lá K, danh tướng Lư Thường Kiệt, Đức Thánh TRẦN, Hưng Đạo Đại
Vương, vua Quang Trung, Đặng Dung. V́ sao chọn Đặng Dung? Bởi Đặng Dung
một đời tận tụỵ. Cha con Đặng Dung không có chỗ nào chê được. Hai câu
cuối trong bài Cẩm Hoài đầy ắp tâm huyết, “quốc thù vị báo đầu
tiên bạc, kỷ độ long tuyền đới nguyệt ma “, đó là lời kêu gọi nay
treo lơ lững trên đầu người Việt khắp năm châu trước đại hoạ Đại
Hán trong mỗi độ trăng rằm. Qua đó ta nhắc nhở bọn trẻ lời dạy của
tiền nhân: chế tạo vũ khí sát thương “ tối hảo” qua ẩn dụ “long
tuyền”. Ai đó là văn sĩ, ai đó là hoạ sĩ, là điêu khắc gia, ngồi viết,
ngồi khắc lại ḍng sử các vị anh hùng này. Tại Mỹ, tôi thấy đó đây
các tượng đồng trên công viên, trong các hành lang khu thương mại,
người Mỹ tôn kính các vị CHA GIÀ của dân tộc họ rất gần gủi. Xin
thứ xoăn tay lên, kẻ có của người có công, hè nhau thế nào chúng ta
cũng tới đích. Dân tộc ta có may mắn là có Đức Thánh TRẦN, Ngài là
ân nhân của nhân loại, người danh tướng đă làm chuyển đổi một ḍng
lịch sử thế giới, báo hiệu ngày tàn của quân Nguyên trong thế kỷ thứ
13, khi toàn thế giới run sợ trước vó ngựa Nguyên Mông …
-Q th́ sao, hai bà Trưng, lady Triệu, Cô Giang, cô Bắc, Thái hậu
Dương Văn Nga, hay Hoàng hậu Ỷ Lan vợ vua Lư. …
-J …??
Các Bạn Hiền có máu kinh doanh thử làm đi. Xin làm ngay trước khi thằng
Tàu và đám Việt gian xía vào! Có lợi nhuận từ sự đầu tư đó. Chắc cú!
Laiquangnam tin như thế.
(18)- Kỳ ba So sánh bộ Bài Tới và bộ bài Kwan P’ai, các bộ Bài Tàu,
ngang hàng.
(19)- Tại miền Trung và miền Bắc, Cha mẹ dặn
con gái đừng có phơi quần vào ban đêm nhất là rơi vào những
ngày có Kinh nguyệt bởi tà ma thằng Tàu 50/50 Phạm Nhan chui vào
gây ra bệnh kín rất khó chịu cho người phụ nữ Việt . Việc này được
viết thành sách và lưu giữ tại Đền Đức Thánh Trần tại Saigon,
trên đường Hiền Vương năm xưa nay là Lý Chính Thắng. Đền này do
hội Bắc Việt Tương Tế góp tiền xây dựng và gìn giữ. Do bị
nhiễm bẩn văn hoá Tàu từ khi vị chúa thứ 7(?) chúa Nguyễn Phúc
Chu (?) rước Nhà sư Quảng Đông Thích Đại Sán sang đây, 1694, người
Đàng Trong không có tục thờ tiền nhân là các anh hùng dân tộc như
Hai Bà Trưng, Lư Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo như người Đàng Ngoài, điều
này cụ Phan Khôi vào năm 1928 đă lên tiếng một cách gay gắt và phẫn
nộ. Bạn thử đến phố cổ HỘI AN mà xem, nơi mà Nhà sư Quảng Đông
Thích Đại Sán ăn dầm nằm dề tại đó cả năm để truyền sang ta
Phật Giáo rặc mùi Tàu Hán; ta thấy tại đây đâu đâu cũng chùa Tàu.
Khi TT NĐD về nước, 1956 (?) có kinh lư qua đó, các anh đội Hán,
nguyên là các anh cử nhân Hán Học còn sót, hiến kế ngài TT xây
dựng Khổng Miếu to đùng. Nào có ai trong bọn họ hiến kế xây
dựng đền thờ anh hùng dân tộc đâu. Đó là một nỗi ô nhục của đất
Ngũ Phụng Tề Phi, một đất học đă đẻ ra quá nhiều bọn cam tâm làm
tay sai cho Pháp như 4/5 các ngài tiến sĩ trong đám Ngũ Phụng này.
Ốt dột. Rồi các anh đội Hán tại HỘI AN ngày ấy. Việc tả Phạm
Nhan ám âm hộ quư bà, quư cô vào mới nghe bạn tưởng là mê tín .
Không đâu. Thực tế, khi có kinh, đáy quần người phụ nữ còn đọng
lại các vết máu khô vốn là các Amino acid, các chất hữu cơ
khiến các con vật nhỏ , các loài côn trùng tìm đến ăn và phát
triển bên trong cái nõn nường của họ. Thay vì giải thích như
chúng ta ngày nay, ngày xưa nhắc đến tà Phạm Nhan, coi bộ người
phụ nữ sợ hơn, có hiệu quả hơn và người phụ nữ Đại Việt sẽ chịu giữ
gìn hơn.
Vài thuật ngữ trong bài viết
:
Bài-Cḥi viết hoa và có gạch nối là từ
chỉ tṛ chơi Bài Cḥi đă được
dịnh nghĩa trong bài trước.
BàiCḥi viết liền là Bộ Bài Tới, bộ bài dùng trong Bài-Cḥi. Xin xem
lại sđd(1)
**Sau khi vua Quang Trung băng hà, họ suy vong
v́ nội bộ và họ thua về phía hải quân, bởi hải quân của Nguyễn Ánh có Tây
hỗ trợ kỹ thuật lẫn khí tài.
***V́ bài đă quá dài, các phần khác, tên từng nhân vật giá trị bài
học từng nhân vật điển h́nh làm tàn mạt đất nước này, laiquangnam sẽ
đề cập đến trong các bài khác.
www. art2all. net
|