|
Đặng Tiến Thơ Hoàng Cầm Truyền thống và hiện đại
Hoàng Cầm - xưa và sau này
I - Cây tam cúc
Thơ Hoàng Cầm trau chuốt, có khi do dụng công và kinh nghiệm, có khi chỉ
là thành tựu của vô thức – mà nhà thơ gọi là thần lực hay tâm
lực. Vô thức ở đây là phần tích lũy trầm kha của rung cảm và tiềm
năng sáng tạo; thi nhân từ năm này sang năm khác sống triền miên bài thơ
ḿnh cho đến lúc nó bật ra thành lời, thành tiếng; do đó, Hoàng Cầm có
lần tâm sự rằng nhiều câu thơ, có khi toàn bài thơ của ḿnh, là tiếng
nói đến trong những giấc mơ, từ một thế giới khác, như là một giọng nói
mầu nhiệm, linh thiêng.
Em đừng lớn nữa, Chị đừng đi
Âm đ c̣n là những chuyển động trong bài thơ: đi, đứng,
đưa và đến; hay là màu sắc hạnh phúc: tướng điều sĩ
đỏ; trầu cay má đỏ đối lập với màu đen của định mệnh: Quan
Đốc đồng áo đen nẹp đỏ; tướng sĩ
đỏ đen. Hai chữ đỏ đen cô đọng nội dung bài thơ,
một tṛ chơi may rủi, giống như tựa đề Đỏ và Đen của tiểu
thuyết Stendhal.
Em ngồi đâu, Chị đứng đâu Ngoài giá trị và vị trí của một phụ âm đ, c̣n giai điệu toàn bài thơ, gồm những câu dài ngắn, so le, với nhịp điệu thường xuyên thay đổi. Bắt đầu bằng nhịp cổ điển, sau đó tiết điệu biến đổi, khi d́u dặt, khi rắn rỏi, lúc khoan thai, nói chung là nhẹ thoảng. Có thể nói “Cây tam cúc” là một bài thơ ngắn dồi dào nhịp điệu vào hàng đầu trong thơ Việt. Hoàng Cầm phân phối, luyến láy những nguyên âm, phụ âm rất tài t́nh. Đoạn đầu, bốn âm k (= c) câu đầu vọng lại ở hai chữ (cây /cay), biệt đăi ở câu giữa, “kết” ở chữ “kết” rồi chữ “quê” (đọc k) câu bốn. Quê em là h́nh ảnh của hạnh phúc vọng tưởng:
Năm sau giặc giă Quan Đốc đồng… nhịp thơ gay gắt, như định mệnh bức bách đánh dấu bằng âm đ cứng rắn – như trong những chữ đánh đấm, đạp đổ, đấu đá, đau đớn đối lập với câu sau, ung dung nhẹ thoáng, làm nổi bật những động từ phóng túng, tự do, thoải mái: thả, cưới, vơng, trôi đưa đến hư không. Chữ thả dùng rất độc và đắt, nhắc đến những cuộc bố ráp của một quân đội viễn chinh vô kỷ luật. Vơng đi với cưới, nhưng kết quả chỉ là mây trôi, như một hạnh phúc tan biến, vô tông tuyệt tích: Em đứng nh́n theo, Em gọi đôi
C̣n lại một ḿnh Em, giữa cảnh mây trôi tan tác. Gọi đôi là gọi
Chị, gọi hạnh phúc, gọi vô cùng và vô vọng. Năm sau giặc giă
nhắc lại hoàn cảnh lịch sử, nhắc thoáng qua thôi, nhưng chúng ta đều nhớ
đến hằng triệu giấc mơ t́nh đă cháy rụi, đă tàn lụi trong cơn hỏa mộng
dài nửa thế kỷ. Thơ Hoàng Cầm trọn vẹn với dân tộc chỗ đó. Giặc giă, tự
nó mang theo bạo lực áp bức. Quan Đốc đồng là chức quan địa
phương thời Lê, ở đây là h́nh ảnh của định mệnh, của cường quyền; chức
đốc đồng được chọn, v́ âm vang và v́ thể chất kim khí cứng rắn,
đối lập với tuổi thơ đứa được, đứa thua, với hạnh phúc thanh b́nh
có đi, có đưa là có đến. Thân phận người chị long
đong: động từ cưới không rơ chủ từ, qua câu thơ, không rơ Quan
Đốc đồng cưới chị hay ông ấy chỉ thả tịnh vàng cưới chị. Ai
cưới, không biết, về đâu cũng không hay; chúng ta cảm giác một cuộc
cưỡng hôn, hay một cuộc hôn nhân chắp nối trong giặc giă. Đau xót nhất
là Em đă bảo: Chị đừng đi.
Sóng rủ nhau đi bát ngát cười Hoàng Cầm cũng sành dùng hoán dụ:
Thân cau cụt vẫy đuôi mèo trắng mốc nhưng đặc sắc là những động từ rất chính xác trong tṛ chơi tam cúc, nhưng lại ẩn dụ t́nh ư khác: chị gọi đôi cây… Nghé con bài… Em đi đêm… chui sấp ngửa… đổi xe hồng… Em gọi đôi… Dĩ nhiên, người biết chơi tam cúc sẽ thích thú với những động từ gọi, kết, chui, đi đêm (đổi bài) đổi. Thậm chí ta có thể lắp ghép hai câu thơ, để tóm tắt toàn bài: Chị gọi đôi cây – Em gọi đôi
Chị chỉ đánh bài tam cúc thôi, c̣n Em th́ mơ t́nh yêu, đôi lứa. Em sẵn
sàng hy sinh những tài sản quư giá nhất, những con bài tốt nhất,
tướng điều sĩ đỏ, để hưởng được một thoáng hạnh phúc phù du: Đổi
xe hồng đưa Chị đến quê Em. Tướng sĩ đỏ đen chui sấp ngửa Có lẽ trai gái chơi bài xong, mệt quá, lăn kềnh ra ngủ: h́nh ảnh mộc mạc hồn nhiên của quê nghèo. Chúng ta nhớ bài thơ "Cờ người” được gán cho Hồ Xuân Hương, có câu: quân thiếp trắng, quân chàng đen, và Hồ Xuân Hương thường có lối chơi chữ như thế. Văn học dân gian đă cho ta những ví dụ chơi chữ tinh tế:
Quay tơ th́ giữ mối tơ Cấu trúc "Cây tam cúc” hài ḥa tỏa ra một thế giới riêng, trong đó kĩ
thuật chơi chữ như biến dạng với những đường khâu, chúng ta chỉ c̣n thấy
một tấm áo đẹp, hay một họa phẩm tuyệt vời.
Chị vỡ pha lê. Bùn vấy tay Viển vông, sao mà giấc mơ tha thiết đến thế. Cũng người chị ấy, trên một cánh đồng chiều đông, đă hứa hẹn hăo huyền:
Đứa nào t́m được Lá Diêu bông Lễ cưới, trong thơ Hoàng Cầm, là một h́nh tượng nghệ thuật có giá trị thẩm mỹ trên hết. Hôn lễ không phải là luật lệ, nghi thức xă hội mà thôi, nó là một thành tựu của t́nh người hài ḥa trong xă hội: hôn lễ là sự đồng thuận giữa hai cuộc sống, trong rất nhiều cuộc sống làm thành đại gia đ́nh, xă hội, dân tộc; là ḍng sông ḥa hợp để tiếp nối ḍng sống của loài người. Hôn lễ là niềm vui của nhân loại qua đám cưới chuột “tưng bừng rộn ră” trong bài “Bên kia Sông Đuống”, một mâm cưới nghèo, chỉ có khoai luộc, Hoàng Cầm đă cấu tứ được một h́nh tượng đặc sắc:
Cỗ cưới chênh vênh khoai luộc Tả củ khoai như vậy là thần t́nh, và hiện đại: thơ văn Việt Nam dường như chưa có củ khoai nào đa t́nh đến thế; trong ca dao, củ khoai c̣n phải chấm mật, ở đây mật vàng mọng sẵn trong khoai, như thân thể cô dâu căng đầy nhựa sống, chín mọng khát khao, chứa chan mật ngọt trần gian. Mà vẫn không quên những khốn khó của nhân gian, không quên nhân phận chênh vênh, nâu non rách rưới. Đâu đây, c̣n phảng phất mùi da thịt cô gái hai mươi. Ổ rơm thơm đọng tuổi đương th́ Nơi kia, hơi ấm cô gái lại thơm mùi gạo mới:
Đường quê ḿnh dăng hương tám đỏ Hạnh phúc lứa đôi đậm đặc màu sắc dân tộc, mà hơi thơ lại mới mẻ, thắm tươi. Nhục cảm nồng nàn, rạo rực, mà dịu dàng, kín đáo. Cô gái quê trong Nguyễn Bính lúc nhớ người yêu th́ cơ thể: Sao cứ đầy lên, cứ rối lên Cô gái quê trong Hoàng Cầm, cơ thể đầy mà không rối. Cô gái tân thời trong thơ Xuân Diệu rảnh rỗi hơn: Em gọi thầm anh, suốt cả ngày Cô gái quê trong thơ Hoàng Cầm mới biết nói thầm khi xa vắng người yêu. Ư không thật, lời không thật, nhưng t́nh th́ thật: vắng anh, cả đời sống nội tâm của em đều thay đổi, mọi đối thoại với người ngoài đếu trống rỗng. Nói, là nói thầm, nói với anh hay nói một ḿnh. Câu sau: Đường đê Chợ Trầm … là một câu tả cảnh, ngoại cảm và tâm cảnh cô gái Anh đi xa Em mới biết nói thầm
a
Đường đê Chợ Trầm, sang mùa tu hú
Ư nghĩa không có ǵ, nhưng âm vang kỳ diệu, Hoàng Cầm có nói “Cái tứ
của thơ phải đọc đuợc ngoài lời. Có nhiều bài thơ mang một tứ rất lạ,
khó giảng, khó b́nh, chỉ cảm thấy được thôi”. Tu hú vừa kêu, vải đă vàng mà âm vang khác. Có thể trong sáng hơn, nhưng không tạo cảm giác mờ ảo,
huyền nhiệm như câu thơ Hoàng Cầm. Ánh sáng ấy, là biên giới giữa thơ và
văn xuôi.
Dưới sông kia chẳng quay đi
Ngọn lửa đam mê bừng cháy tuổi thơ của Hoàng Cầm sẽ tiếp nối bập bùng
măi măi trong thơ anh, cho đến bây giờ “th́ cũng bấy nhiêu ngày đêm
nghe lửa reo ṃn tuổi tác”. Mượn h́nh ảnh trong truyện thơ Men đá
vàng, ta có thể so sánh nhà thơ Hoàng Cầm với người thợ nung men sứ
Bát Tràng trong huyền thoại, gan hồng thạch, dạ kim cương, anh Phù Du
ngày đêm canh sức lửa. Tam cúc là tṛ chơi dân gian trong những ngày tết. Nói là dân gian, nhưng cũng phong lưu: Rút trộm rơm nhà đi trải ổ hàm ư là cậu bé đi chơi lén đâu đó bên hàng xóm. Chỉ trộm rơm thôi, th́ không lấy ǵ trầm trọng. Nhưng niềm vui của cậu bé là vụng trộm. Mê say cô hàng xóm hơn ḿnh tám tuổi, trong t́nh chị chị em em, th́ có cái ǵ đó bất chính, mang mùi vị trái cấm. Cậu bé càng biết vậy, càng thiết tha, càng lư thú, cái thú đi đêm thầm lén. Người chị biết vậy mà vẫn để cậu em mơ mộng, vẩn vơ mà vô hại. Biết đâu cô chị chẳng thích thú và đồng lơa?
Nghé con bài t́m hơi tóc ấm
Trong bài thơ, chỉ có một câu phủ định, nhưng vô vọng. Làm sao “đừng
lớn nữa” làm sao giữ măi được cơi “thiên đường xanh những mối
t́nh bé dại” (le vert paradis des amours enfantines) như lời thơ
Baudelaire? Nhân vật Créon, cuối vở kịch Antigone của Anouilh
cũng dặn chú tiểu đồng là “đừng lớn nữa” (Il faudrait ne
jamais devenir grand). Vấn đề của Hoàng Cầm là không thoát ra khỏi
được tuổi thơ. Hoàng Cầm ở tuổi sáu mươi, bảy mươi, làm thơ là để sống
lại tuổi mười hai “trong tấm ḷng may thay vẫn là tấm ḷng 12 tuổi”.
Chị đưa Em đến bến này
Đến bến là phải đến nơi bằng phẳng, êm ả, ngừng nghỉ. Nhất là nơi
Chị đưa Em đến. Sao vẫn cheo leo? Bài này viết năm 1959,
nhưng ta không nên giải thích đơn giản bằng vụ án Nhân văn–Giai phẩm
mà anh là nạn nhân dài hạn. V́ cùng một năm ấy, anh c̣n làm nhiều bài
khác rất thanh thoát, như “Lá Diêu bông”, “Cây tam cúc” và loạt bài “Đêm
Ngũ hành”, không có ẩn ức ǵ về thân phận. Chính anh nói vào thời điểm
ấy anh “không một phút nào nghĩ tới thời cuộc chính chị và xă hội
trước mắt”.
****** Cây Tam Cúc
Cỗ bài tam cúc mép cong cong Hoàng Cầm
Hoàng Cầm - Anh đưa em về sông Đuống
|