Đặng Tiến Thơ Hoàng Cầm Truyền thống và hiện đại
Hoàng Cầm - xưa và sau này
II. Anh đưa em về Sông Đuống Quê hương ta lúa nếp thơm nồng Lời thơ đẹp, trong sáng, hùng hồn ngợi ca màu sắc quê hương, trong một giai đoạn kháng chiến gian nan 1948. Chúng ta yêu câu thơ v́ giá trị văn chương, nhưng cũng v́ nó lồng trong t́nh dân tộc nồng nàn đang bị bức bách và thử thách; về sau, đọc lại, vẫn yêu, v́ câu thơ đă ḥa màu vào kỷ niệm để làm máu thịt của cuộc sống. Nhưng nếu tách ĺa ra khỏi bối cảnh lịch sử và tâm cảm th́ không biết câu thơ c̣n giữ trọn vẹn hương sắc hay không? Tuy nhiên Hoàng Cầm, suốt thời kháng chiến, là thời hoa niên, chỉ làm vài ba bài thơ như thế. Thơ anh sau này khác đi, tân kỳ hơn, t́nh tứ hơn và phi thời đại hơn: Chị đi một chuyến chơi xanh cỏ Đoạn thơ chỉ có một chữ khó: linh xa, là bánh xe linh hiển của thời gian, giữa không gian vô cùng, trong đó hạnh phúc con người mong manh tơ mỏng. Ngôn ngữ và tư tưởng Hoàng Cầm mới mẻ, nhưng vẫn tiếp vẫn truyền thống của thơ mới, và nhắc chúng ta nhớ Vũ trụ ca của Huy Cận:
Lá biếc đưa thoi xuyên vĩnh viễn Đến những câu thơ này của Hoàng Cầm th́ thật là sáng tạo: Ta con bê vàng lạc dáng chiều xanh Câu thơ long lanh những thanh sắc gọi về tuổi thơ hoàng kim và bích ngọc, lấp lánh vàng xanh qua một loạt nguyên âm mở (a, ang…) ngây ngất, chao đảo dưới trời chiều, rồi thu vào màu sim tím gian truân rón rén sau những nguyên âm khép (i, im…). Buổi chiều xanh không biết tự thời nào:
Một chiều xanh, một chiều xanh huyền hoặc Hay bầu trời Rimbaud: Par les soirs bleus d’été j’irai par les sentiers Những dấu chân chim sẽ đưa ta về với ca dao:
Đói ḷng ăn nửa trái sim Thơ Hoàng Cầm ghé đến ḷng đời, t́nh đă nhỡ, t́nh đă nhỡ một mùa sim.
Đường đê chợ Trầm sang mùa tu hú Kỹ thuật không có ǵ. Những từ ngữ quyện vào nhau và tự tạo lên sức gợi
cảm. Sự đơn giản đi gần tới văn xuôi – mà vẫn không phải là văn xuôi.
Một số nhà nghiên cứu về thơ như Roger Caillois, đă nêu lên đặc tính này
của thơ hiện đại. Anh đưa em về Sông Đuống
Có ǵ mà câu thơ b́nh dị ấy cứ vương vấn măi trong ḷng ta? B́nh dị,
nhưng dịu dàng, đằm thắm thiết tha: anh đưa em về. Cơi về đó là
quê hương, là an b́nh, là kỷ niệm, là hạnh phúc. Thơ, và t́nh yêu, là
một cơi về. Về một ḍng sông, Sông Đuống: âm vang nghe cách trở, truân
chuyên, mà thiết tha khẩn khoản.
Giọt mưa phương Nam có về Kinh Bắc Tuyển tập Bên kia Sông Đuống gồm có 56 bài, trong đó 35 bài mang chữ VỀ. Bản thân bài "Bên kia Sông Đuống" được cấu trúc trên điệp khúc: Bây giờ đi đâu? Về đâu? Thơ Hoàng Cầm là một lối về, một cơi về, một cơi mơ về, một tiếng gọi về:
Dóng dả gọi về đồng sương Có thể đây là một phản ánh trọn vẹn của thơ Hoàng Cầm, nổi tiếng từ vở kịch thơ Kiều Loan khởi thảo từ năm 1942. Kiều Loan, cô gái điên, là kẻ lạc mất đường về. Điên là đánh mất cơi về. Nhân vật chính, trước khi chết, đă cầu khẩn t́nh yêu:
Tôi chỉ xin nàng đôi giọt lệ Quê hương, là Thuận Thành, là Kinh Bắc, nhưng c̣n là cơi mênh mông. Từ 1942, Hoàng Cầm 20 tuổi, đă có những câu linh cảm, báo trước toàn bộ thi phẩm của ḿnh: Níu tay cười xuống hoàng hôn cũ Tập thơ cuối cùng Hoàng Cầm thông báo sẽ in, sẽ mang cái tên tiêu biểu: Về cơi thật người. Thơ Hoàng Cầm đậm đà tính dân tộc, nhưng không phải là thơ địa phương. Từ bến quê hương, Hoàng Cầm t́m về cơi người chính xác – Cơi Thật Người – do đó, thơ anh, những màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp, vươn lên t́nh người, rất rộng, rất cao. Cuộc sống hiện đại là một ḍng sông ngày mỗi xa nguồn. Khái niệm và ư thức quê hương ngày một nhạt phai trong tâm tưởng con người hiện đại, con người đô thị. Ĺa nguồn là quy luật của tiến hóa. Nhưng con người cảm nhận ly cách đó mỗi nơi, mỗi lúc, mỗi người, một cách khác nhau. Thế hệ Hoàng Cầm - bản thân Hoàng Cầm (sinh năm 1922) - chứng kiến sự tan ră, tàn phá của một nền văn hóa trên một đất nước mất chủ quyền, rồi triền miên đắm ch́m trong lửa khói. Hai cuộc chiến tranh dân tộc chồng lên trận tranh chấp lớn lao giữa hai nền văn minh, mới và cũ. Đông và Tây. Dân tộc có chiến thắng, vẫn để mất đi ít nhiều bản sắc văn hóa, như con chim thắng trận đă phải mất lông mất cánh. Anh chiến sĩ trong Hoàng Cầm chóng quên hào quang chiến thắng để lặng nghe những tàn phai, tan tác, rồi tự hỏi về cuộc đời, về con người, về bản thân. Anh đứng đây là đâu (“Anh đứng đây là đâu’’, 1988, BKSĐ, tr. 62) Đơn giản và hàm súc. Câu hỏi hiện đại và hiện sinh là niềm hoang mang
lớn lao của nhân loại; con người đă t́m ra chỗ đứng, nhưng mất tọa độ
trước những biến chuyển vật đổi sao dời, nhanh chóng và toàn bộ, có phần
tự nhiên, có phần áp đặt. Mưa son đắt rẻ tùy phiên chợ Đời sống trong thơ Hoàng Cầm vui ít, buồn nhiều và thường xuyên vất vả.
Việc đồng áng xen lẫn với quai gánh bán buôn. Đặc biệt về thủ công
nghiệp, nghề gốm Bát Tràng chiếm trọn tập thơ Men đá vàng (1973)
trong khi Tiếng hát quan họ (1956) làm nền cho một tập thơ khác
(1956). Lao động chuẩn bị những hội hè đ́nh đám, niềm vui chóng qua
không lấp được bao nhiêu lận đận gieo neo. Chỉ thấy cảnh trai tài gái
sắc giao duyên qua lời ca tiếng hát, mà không nghe được những uất nghẹn,
tan tác, th́ chưa cảm nhận đầy đủ tâm cảnh của Hoàng Cầm.
Khấn thầm như mẹ lỡ đ̣ ngang Giữa những tang thương, dường như cảnh chia ĺa làm nhà thơ đau đớn nhất. Anh vẫn tin ở cuộc đời, và niềm tin thiết tha sâu sắc nhất, có lẽ là t́nh cảm dành cho tuổi trẻ mai sau:
Ta ru em H́nh ảnh người chị trở đi trở lại là bóng dáng người mẹ nối dài. Trong bài “Đợi mùa’’, hai h́nh ảnh lồng vào nhau trên đường về chợ: Tưởng như mẹ về H́nh ảnh người chị trẻ trung và gần gũi hơn, nên gợi cảm gợi t́nh hơn, hàm chứa nhiều rung cảm đa nghĩa, tạo ra được những câu thơ đẹp, hồn nhiên, nghịch ngợm:
Cách nhau ba bước vào vườn ổi
Làm thơ, với Hoàng Cầm, trong chừng mực nào đó, là giữ chân tuổi thơ
dưới một gốc cây. Chờ mong và mơ mộng. Em mười hai tuổi t́m theo Chị H́nh ảnh người chị từ phái tính đưa đến dục tính, tế nhị, kín đáo, thi
vị: Hai đứa lung linh lơi yếm áo. Có lúc người em c̣n ước mơ
cưới Chị xanh thiêp thiếp (“Chị Em xanh’’, 1970). Ta nên hiểu
đây là giấc mơ hạnh phúc bao la trước vũ trụ, mà người đàn bà là biểu
tượng, Hoàng Cầm đi sâu vào ḷng đời theo bước chân người chị. Bao nhiêu
âm hao của trống, tiếng tu hú trên quai đê, tiếng bạc má trên cành
tranh, tiếng chào mào trên cành nhăn đă đến với anh theo giọng lảnh lót
của người chị. Những bài thơ hay nhất, bạo nhất về chị, Hoàng Cầm đă làm
ba mươi năm sau – lúc đă ngoài bốn mươi năm mươi tuổi – đă quá tuổi thơ
ngây để ngủ lại giấc mơ dang dở (“Đêm Mộc", 1959). Ngoài thơ ra,
con người làm sao ngủ lại giấc mơ? Nên hiểu thơ Hoàng Cầm
trên chiều hướng đó; và trong giới hạn thu hẹp lại, những bài thơ về chị
Trúc của Nguyễn Bính cũng nên hiểu như vậy, thay v́ đặt những câu hỏi vớ
vẩn và dung tục.
Chùa Phật Tích ruỗi trong màn lụa bạch Dục tính trong thơ Hoàng Cầm, từ bản năng thiên nhiên, đă trở thành một yếu tố văn hóa trong xă hội cổ truyền, giống trong tranh tượng dân gian. Nó không phải là tự nhiên chủ nghĩa, không phải là Người gái thiên nhiên như trong thơ Đinh Hùng: Ngoài thiên nhiên nở bừng thân mỹ nữ Thỉnh thoảng cũng có h́nh ảnh tự nhiên, nhưng không nhiều:
Ngoài hồ cô giặt lụa Thân thể người đàn bà căng đầy nhựa sống nhưng giới hạn trong những điều kiện xă hội và văn hóa nhất định: Chùm cau căng nứt mạch tằm Ngành dân tộc hoặc ngày nay đă trưng nhiều tư liệu về những lễ lạc, hội hè trong h́nh thái xă hội cổ sơ, giải phóng con người ra khỏi những cấm kỵ, ràng buộc. Hoàng Cầm gợi lại cảm giác trước cuộc “Thi đánh đu”: Luồn tay ôm say Dục tính được nhà thơ làm nổi bật và thi vị hóa, vừa cô đọng vừa tan loăng trong một không gian ngất ngây, lảo đảo nhờ những âm thanh, h́nh ảnh và chuyển động trong thơ. Hoàng Cầm đẩy tưởng tượng – tôi tạm gọi là dự cảm huyễn dục - đến huyền sử một “Hội yếm bay’’ với nhiều cô gái, vốn là tiên nữ bị đày xuống trần gian cùng cởi bỏ xiêm y: Ngũ sắc chen nhau cầu lễ hội Trong dự cảm huyễn dục, Hoàng Cầm cao hứng: Lệnh tám cơi tốc xiêm y chới với Dục tính trong thơ Hoàng Cầm táo bạo lắm, th́ cũng đến vậy thôi. Không
có cái rạo rực dồn nén như trong Gái quê của Hàn Mặc Tử; nhục cảm
ở đây, có lúc chỉ là phương diện cho Hoàng Cầm làm một câu thơ hay và
lạ. Dù ư có suồng să, lời vẫn trau chuốt, có khi trang trọng, chứ không
có ư bông đùa như Bùi Giáng. Về mặt này, tôi đă trích dẫn nhiều thơ anh
mà ít b́nh luận – v́ thơ anh tự nói lên được phong cách và nội dung. Lời
bàn - về dục tính – e rằng dung tục một cách không cần thiết. Rồi lại chiều mai lại sớm kia
Hoàng Cầm - Anh đưa em về sông Đuống
|