ĐỒNG VỌNG CHO HỒN THIÊNG L̉ THIÊU
Kertesz đă mất một thời gian bằng những năm tháng ông sống, trước khi bị tù đầy, tức là 14 năm, để viết cuốn đầu tay. Một nhà xuất bản do nhà nước quản lư từ chối in, sau được một nhà sách khiêm tốn [modest] xuất bản năm 1975, nhưng bị đối xử bằng sự im lặng. Tại Thụy Điển, xuất bản lần thứ nhất, qua bản dịch của Fripress in Maria Ortman's, với tựa đề Steg för steg (Step by Step, Từng Bước). Thoạt đầu, nó không gây chú ư, mặc dù, cùng với Đây Có Phải Một Người của Primo Levi, đây là một tác phẩm văn chương mănh liệt nhất đă từng được viết ra về thực tại trại tập trung. Sự kiện Kertesz bị đi đầy không có nghĩa, Fateless [Không Số Kiếp], hay Man Without a Fate, [Người Không Số Kiếp], như tên sau này của nó, chỉ là một cuốn tiểu thuyết tự thuật, theo bất cứ một ư nghĩa giản dị nào của từ này. Ông bỏ đi những ǵ gọi là giai thoại (anecdotal), nhất thời (temporal), ngoại lệ, và chỉ giữ lại tính tầm phào, banality, của câu chuyện (nếu có thể coi tầm phào là nội dung của nó): một cách kể, một nghiên cứu có tính phương pháp về cuộc sống thường nhật của trại tập trung, của cơ cấu toàn trị. Ngoài nội dung, đều nói về trại tù, cách kể của Kertesz thật khác với của Levi: Làm thế nào một con người, bị bắt, bị dứt ra khỏi cuộc sống b́nh thường của ḿnh, dần dần thích nghi với một cuộc sống khác, mà cuộc sống khác này, sở dĩ nó có, là để làm giết hại người đó. Nhưng Levi là một người đă trưởng thành. Koves, nhân vật kể chuyện ở trong Không Số Kiếp th́ mới được 14 tuổi, và thời gian từ 1944 tới 1945 là một quăng đời quyết định, về mặt học hỏi, đối với cuộc đời của cậu bé. Cùng với một nhóm trẻ cùng tuổi, ông bị bắt trên chuyến xe buưt trong một cuộc bố ráp tại Budapest vào năm 1944. Thoạt tiên, chúng bị nhốt một ngày – một ngày ấm áp, tẻ ngắt - trong một nhà tạm giam, trong khi viên cảnh sát - trẻ, trông có vẻ đần độn, bối rối - gọi điện thoại xin thêm chỉ dẫn. Sau đó, chúng bị giữ vài ngày trong một xuởng gạch cũ, cùng với vài ngàn người Do Thái. Sau những bàn bạc với Hội Đồng Do Thái, vài ngàn người này chấp nhận “đề nghị” [offer], họ sẽ tự nguyện đi làm việc, bởi v́, như họ được giải thích, rằng sẽ c̣n nhiều chuyến xe lửa khác nữa, và nơi đây sẽ không làm sao chứa nổi. “Nói vậy là hết nói, c̣n bàn bạc ǵ được nữa.”
Khi lực lượng giải phóng tới với Koves, một năm sau đó, ông nằm
trong nhà thương tại khu trại tù Buchenwald, người độc nhất sống sót
trong nhóm bạn của ông. Một thân h́nh vàng khè, trơ xương, với bộ
mặt nhọn hoắt của một người già, da đầy những vết mụn nhọn mưng mủ,
nhức nhối. Tiểu thuyết của Kertesz không khó đọc, theo nghĩa kỹ thuật. Cứ thẳng một lèo, và là một cách kể chi li, không lạc đề, không b́nh, bàn, nếu có, chỉ trong giới hạn nhân vật chính, một cậu bé tuổi c̣n non, kinh nghiệm ít ỏi. Giọng nói đó, mạnh mẽ, ṭ ṃ, phải nói là thông minh, mưu trí. Đây là giọng của một người trẻ tuổi, mà, ở bất cứ thời điểm mới mẻ nào, chiến đấu, hiểu, làm, và làm cho được, ở cái mức tối hảo, không phải do ngây thơ, nhưng làm như vậy th́ mới sống sót. Với anh ta, mọi chuyện cứ thế mở ra, “từng bước từng bước”. Và những phản ứng thoạt kỳ thuỷ của cậu bé, là ngưỡng mộ một cách khiếp sợ: [Bạn hăy thử] nghĩ coi, cậu bé đă thông minh, mưu trí tới cỡ nào, bởi v́ chính những mưu mô khôn khéo như vậy đă dẫn dụ cậu, trong những việc làm như, làm sao cởi quần áo khi đứng trước ṿi tắm, làm sao nhớ con số ở chỗ treo quần áo, làm sao buộc dây giầy! Phải có một người nào đó đă nghĩ ra mấy tṛ này… Chắc chắn họ đă dùng cùng một phương pháp như vậy, trong những pḥng tắm khác, nơi mà, như cậu bé được biết, thay v́ nước, th́ là hơi độc xả lên những tù nhân. Lại c̣n máy khoan ở khu làm việc – Sao mà nó khác biệt so với thứ khó xài của cảnh sát Hung. Mọi thứ qua đó, đều trơn tru, ngon lành. Khi tù nhân tới hồi kiệt lực, gầy lơm tận xương, không c̣n nhận ra ai là ai, chuyện xẩy ra đều đặn đến nỗi cậu bé không nhận ra, ngoại trừ điều này, nếu phải so sánh bề ngoài chẳng hề suy suyển của đám lính gác, với của tù nhân, th́ rơ mười mươi, hai thứ người này hoàn toàn khác nhau. Với một người mắt lúc nào cũng mở to thao láo v́ ṭ ṃ, v́ ngạc nhiên, muốn biết như thế, mỗi hoàn cảnh đều là mới tinh khôi, đều là một “ngay bây giờ” [a now] chẳng cần tới tri thức phản hồi; thứ tri thức này, chúng ta, những độc giả, th́ chẳng thiếu, nhưng người kể chuyện, tức cậu bé, th́ không. Đúng là một giọng khiêu khích, móc họng. Kertesz, tác giả, như cố t́nh bám chặt lấy nó, với một sự ương ngạnh, bướng bỉnh, ĺ lợm, và chính điều này làm cho nó tách bạch hẳn ra. Nhưng thách đố lớn lao nhất, tại sao cuốn sách bị đáp ứng một cách thật là lạnh lùng, khi vừa xuất bản là một điều khác, tôi [Madeleine Gustafsson] tin như vậy. Nó nằm ở ngay tựa đề: Không Số Kiếp [Fateless]. Hay, một người không số kiếp [a man without a fate]. Bởi v́, đây không chỉ về Auschwitz, về một điều ǵ đă xẩy ra, mà là triết lư về cuộc đời. Đứa bé cố biểu tỏ triết lư này, sau khi từ Budapest trở về nhà. Mọi chuyện xẩy ra như thế này đều không thực, đúng như thế, đứa bé nghĩ, nhưng nó tới, nó xẩy ra: Chúng cứ thế tới, tuần tự, từng bước, từng bước. Chỉ một khi ngoái nh́n lại, th́ mọi chuyện mới trở nên đă xong xuôi, đă hoàn tất, đă không thể hiểu được… những điều bạn có thể tóm lược, [và tạo một khoảng cách với chúng], bằng những từ như “ghê rợn”, hay “địa ngục”. Như được ban phát, tuy không được chỉ định sẵn, cậu bé trải qua số kiếp được cho đó. Và bây giờ, cậu bắt buộc phải làm một điều ǵ, với tất cả những ǵ đă trải qua. Chẳng thể nói, chúng không có nghĩa. Chẳng thể hài ḷng, với ư nghĩ, đây chỉ là một lỗi lầm, hay là chấp nhận chúng, bằng cái dáng vẻ ngây thơ, tuy chua chát. Nhưng nếu có tự do, là không có số kiếp. Nói một cách khác, cậu bé nói với những thính giả mỗi lúc một thêm chán chường, thê lương của cậu rằng: “Chúng ta, chính chúng ta, là số kiếp”. Số kiếp của chúng ta là như vầy đó. Tới lúc này th́ không chỉ Chú Steiner, mà luôn cả Chú Fleischmann cũng nhẩy bổ lên. “Sao? Mi nói sao?”, ông chú, mặt đỏ gay, nói như xỉa xói vào mặt thằng bé. “Chúng ta bây giờ là những kẻ gây tội, mi muốn nói vậy hả, trong khi chính chúng ta là nạn nhân?” Cậu bé cố giải thích, đây không phải là vấn đề tội, hay lỗi. Đúng ra là người lớn phải nhận ra, ư nghĩa của tất cả, tự nó, giản dị, trần trụi, là như vậy.
Như Kerresz viết ở trong nhật kư của ông [his Galley Diary]: “Không
Số Kiếp là một tác phẩm hănh diện. Nhờ nó mà người ta sẽ không
tha thứ cho cả cuốn sách, lẫn người viết nó, là tôi.” Cây viết là cái mai của tôi. Nếu Không Số Kiếp móc họng, Kinh Cầu Cho Một Đứa Bé Chưa Ra Đời làm người đọc câm họng. Đây là một cuốn sách mỏng, một độc thoại dài, đều đều một giọng, thật tẻ nhạt, bám dính cứng, một cuốn sách nhỏ, mỏng, theo kiểu của Thomas Bernhard. Ḍng văn lan man, tản mạn, nhưng, với tất cả những rối rắm của nó, thật rơ ràng. Giọng mời gọi, khiến người đọc, cho dù ngần ngại tới cỡ nào, vẫn sẵn sàng nhập cuộc. Nếu có điều ǵ làm người đọc có thể xả hơi trong chốc lát, để mà thở, lạ lùng, trớ trêu làm sao, đó chính là một, và chỉ một mà thôi: nhịp thở của văn chương. Nhịp thở này ước mong một hiệu ứng – nhưng rơ ràng là tác giả chẳng hề muốn một hiệu ứng như vậy, ông ta cưỡng lại mọi kiểu đó, cùng một đường hướng như ông đă cưỡng lại mọi đào thoát, mọi ḥa giải, mọi ân sủng. Ông ta th́ lô-gíc, khách quan, và không khoan nhượng. Kaddish là kinh cầu dành cho người chết của dân Do Thái. Nhưng ở đây, người nói [the speaker] nhắm tới một đứa trẻ không bao giờ được phép ra đời, một đứa trẻ mà người nói không thể nào tưởng tượng được rằng, ḿnh sẽ là cha của nó.
Nói cho cùng, đem một đứa trẻ của ḿnh vào trong cơi đời này, theo
một nghĩa nào đó, là hàm ư, ḿnh vẫn tiếp tục sống sau cái chết của
ḿnh, nhưng với người nói ở đây, một viễn tượng như thế là không thể
nào chấp nhận nổi. Đó là bởi v́, theo một cách nào đó, ông ta đă
sống sót cái chết của chính ḿnh rồi. Đă có lần, một người nào đó,
đào mộ ông ta, [ “in the breezes”, “trong hơi gió thổi, như Paul
Celan đă viết, trong Tẩu Khúc Của Thần Chết, Death Fugue], “và rồi…
để cái mai, cái thuổng vào tay ông ta, bỏ mặc ông ta một ḿnh, mi
hăy hoàn tất công việc mà tao đă khởi đầu đó, hăy cố mà làm cho thật
tốt, cho thật khéo, như là mi có thể làm được.” Kinh Cầu [Bản tiếng Anh]
Mourner’s Kaddish Trong khi người nói, ở trong cuốn sách sử dụng quyền năng dẫn dụ để chuyên chở, để nhấn mạnh, với người vợ của ḿnh, với người đọc, và có lẽ, với chính anh ta, rằng, chẳng có ǵ không thể giải thích được, về Ḷ Thiêu. Auschwitz hiện hữu, và đây không phải là sản phẩm của bất cứ một sức mạnh không thể hiểu được nào hết. Thay v́ vậy, nó hoàn toàn hiểu được, và từ thế gian này mà ra, “thế gian này là như thế đó, sự tối ư hiện hữu của nó tất yếu là từ sự kiện này”. Cái Ác không phải là một tai nạn, hay một lổi lầm, nhưng là hậu quả của lối suy nghĩ duy lư, rational thinking, bởi những cá nhân con người. Như một khả hữu, lô gíc đến mức khiếp đảm, Ḷ Thiêu cứ thế lượn lờ trong không gian, trên đầu trên cổ con người [từ bao nhiêu thế kỷ, từ đời đời, kiếp kiếp, “for a long, long time, centuries”], chờ đúng lúc là nhập thể [xuất hiện bằng xương bằng thịt, materialize: duy vật hóa, biến thành sự vật cụ thể]. Đây là cách mà thế gian hiện tồn, như nó là, đây là nền văn minh của chúng ta, như là nó là. Tuy nhiên, điều đ̣i một sự giải thích, là điều này, người nói nhấn mạnh, bây giờ, độc giả, hăy nghe cho thật hết sức kỹ càng [“and now you should listen extra carefully”]: điều thực sự phi lư, nó cắt ngang cái chuỗi chuyện thường ngày ở huyện rất ư là máy móc ở trên, tức cái chuỗi duy lư, thuần lư mà chúng ra đă nói tới đó, chính là Cái Tốt, Cái Thiện, chứ không phải Cái Độc, Cái Ác. Nói rơ hơn: Ác là thuần lư. Thiện là phi lư. Chính v́ Thiện không thuần lư nên chẳng thể nào có thể giải thích được. Nó cũng chẳng cần giải thích.
Một ḍng thơ xuôi trí tuệ
Nguyên tác tiếng Thụy Điển. _____ a2a mời đọc thêm : Imre Kertesz: Nguyễn Quốc Trụ giới thiệu Heureka! Nó đây rồi, Diễn văn Nobel 2002 ( Imre Kertesz) Heureka! Imre Kertesz's Nobel Speech Ngôn ngữ lưu vong ( Imre Kertesz) Language of exile ( Imre Kertesz)
(Source : Tin Van www.tinvan.limo )
|