CONFESSION

Lev Tolstoy

 

TỰ THÚ

Bản dịch: Đỗ Tư Nghĩa

 

1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11   12   13   14   15   16

 

~~ooOoo~~

 

CHƯƠNG I

 

Tôi được rửa tội và giáo dục theo đức tin Ky Tô giáo Chính Thống. [1] Ngay từ tấm bé và suốt thời thiếu niên và thanh niên, tôi đă được rèn luyện theo tín ngưỡng của Giáo hội Chính thống. Nhưng ở tuổi 18, khi tôi rời bỏ trường đại học vào năm thứ hai,[2] tôi đă mất hết niềm tin vào những ǵ mà tôi đă được dạy.

Nếu xét theo những ǵ mà tôi có thể nhớ được, th́ tôi đă chưa bao giờ thực sự có một niềm tin nghiêm túc. Tôi chỉ đơn giản tin cậy vào những ǵ mà tôi đă được dạy và vào những điều mà những bậc đàn anh của tôi đă tin tưởng, gắn bó một cách trung thành. Nhưng ngay cả sự tin cậy này cũng rất bấp bênh.

Tôi nhớ rằng khi tôi 11 tuổi, một cậu học sinh trung học tên là Volodin’ka M, đă chết từ lâu, đến thăm viếng chúng tôi vào một ngày chủ nhật,  thông báo về phát hiện mới nhất (được lưu hành ) tại trường cậu. Cái phát hiện đó, là không có Thượng đế, và những điều mà người ta đang dạy chúng tôi chỉ là những câu chuyện cổ tích (đó là vào năm 1838). [3] Tôi nhớ,  cái tin này đă cuốn hút sự quan tâm của các anh trai tôi như thế nào;  thậm chí họ c̣n cho tôi tham dự vào những cuộc thảo luận của họ. Tôi nhớ rằng tất cả chúng tôi đều rất phấn khích,  và chúng tôi xem cái tin này vừa là khá hấp dẫn, vừa hoàn toàn có thể là đúng sự thật.

Tôi cũng nhớ cái thời gian khi mà anh trai tôi, Dmitri, lúc ấy đang học tại trường đại học, bỗng nhiên hiến ḿnh cho đức tin với tất cả sự đam mê cuồng nhiệt, một đam mê khác thường, vốn phù hợp với bản chất của anh; anh bắt đầu tham dự tất cả những khóa lễ tại nhà thờ, ăn kiêng, và sống một đời sống trong sạch và đạo đức. Tất cả chúng tôi, bao gồm cả những người lớn tuổi hơn, liên tục chế giễu anh, và v́ một lư do nào đó, tặng cho anh biệt danh là Noah. [4] Tôi nhớ rằng khi Musin-Pushkin, lúc bấy giờ là một ủy viên quản trị của đại học Kazan, mời chúng tôi tới dự một buổi dạ vũ, anh tôi đă từ chối lời mời đó. Musin-Pushkin, với một chút giễu cợt, cố thuyết phục anh đến dự, nói rằng ngay cả David [5] cũng nhảy múa trước con thuyền lớn đấy thôi.  Lúc bấy giờ, tôi đồng t́nh với những lời nói đùa từ các bậc đàn anh của tôi, và họ dẫn tôi đến kết luận rằng: tôi phải học sách  giáo lư vấn đáp và đi lễ nhà thờ, nhưng không cần thiết phải xem trọng tất cả mọi thứ này. Tôi cũng nhớ là đă đọc Voltaire [6] khi tôi c̣n rất bé, và tôi không những là không khó chịu với sự giễu cợt của ông, mà thực sự c̣n thấy nó rất thú vị nữa.

Sự cắt đứt với đức tin xảy ra trong tôi như nó đă xảy ra và vẫn c̣n xảy ra giữa những người thuộc loại chúng tôi,  xét về mặt xă hội và văn hóa. Theo như tôi thấy, th́ trong phần lớn trường hợp, nó xảy ra như vầy: người ta sống như mọi người sống, nhưng tất cả họ đều sống theo những nguyên tắc mà không những không dính líu ǵ tới những lời dạy của đức tin, mà phần lớn là ngược lại với những lời dạy đó. [7] Những lời dạy của đức tin không có chỗ trong cuộc sống và không bao giờ được thể hiện trong những mối quan hệ giữa con người; chúng chỉ đơn giản không đóng vai tṛ nào trong cuộc sống. Những lời dạy của đức tin th́ được phó thác cho một lănh vực nào khác, tách rời khỏi cuộc sống và độc lập với nó. Nếu t́nh cờ mà người ta gặp phải chúng, th́ đó chỉ như là một hiện tượng hời hợt nào đó, không  dính dáng ǵ tới cuộc sống.

Ngày nay, như những ngày của quá khứ, nếu căn cứ vào cuộc sống và những hành động của một người, th́ không có cách nào nói được rằng họ có phải là một kẻ có đức tin hay không. Nếu quả thật không có khác biệt nào giữa những người mà (trên bề mặt. ĐTN) rơ ràng là những tín đồ của đức tin Chính Thống và những người phủ nhận nó, th́ sẽ không thuận lợi cho nhóm trước. Rồi th́, như bây giờ, những người công khai tự xưng là tín đồ của đức tin Chính Thống, th́ phần lớn họ đều là những kẻ cố chấp, hẹp ḥi, tàn nhẫn và vô đạo, bị gói kín trong cái tự cao tự đại của chính họ. Trái lại, trí tuệ, sự chính trực, tính thẳng thắn, tính hiền lành đôn hậu,  và tính đạo đức, th́ phần lớn được t́m thấy giữa những người tự xưng là những kẻ vô-tín.

Người ta dạy sách giáo lư vấn đáp [8] trong các trường học và đưa học sinh tới nhà thờ; những viên chức phải có giấy chứng nhận [9] để cho thấy rằng họ đă chịu phép ban thánh thể [10]. Nhưng bây giờ, và thậm chí càng như thế trong quá khứ, một người thuộc giai cấp chúng tôi mà không c̣n ở trường và chưa đi làm cho nhà nước, có thể sống hằng mấy chục năm mà không một lần được nhắc nhở rằng anh ta đang sống giữa những người Kytô giáo,  trong khi chính anh ta th́ được xem là một tín đồ của đức tin Ky tô giáo Chính thống.

Hôm nay, như trong quá khứ, những lời dạy về đức tin, được chấp nhận theo kiểu tạm ứng, và được duy tŕ bởi áp lực bên ngoài, dần dần phai nhạt đi dưới ảnh hưởng của kiến thức và những kinh nghiệm sống, vốn đối nghịch với những lời dạy này. Rất thường khi, một người cứ tiếp tục – trong nhiều năm – ngỡ rằng lời dạy tôn giáo đă được truyền vào cho anh ta từ thời thơ ấu th́ vẫn c̣n nguyên vẹn, nhưng thực ra, trong mọi lúc không có một dấu vết nào của nó (lời dạy) c̣n sót lại trong anh ta.

Có một người thông minh và trung thực, tên là S. đă một lần kể cho tôi câu chuyện anh ta đă thôi không c̣n là tín đồ như thế nào. Vào tuổi 26, trong khi t́m chỗ trú qua đêm trong một chuyến đi săn, anh đă quỳ xuống để cầu nguyện vào buổi chiều tối, như thói quen của anh từ ấu thơ. Anh trai của anh, đă đi cùng anh trong chuyến đi săn, th́ đang nằm xuống nghỉ trên một tấm rơm và đang quan sát anh. Khi S. đă cầu kinh xong và chuẩn bị nằm xuống, người anh trai nói với anh, “Hóa ra là em vẫn c̣n làm việc đó.” Và họ không nói ǵ thêm với nhau. Từ ngày ấy về sau, S. từ bỏ việc cầu kinh và việc đi nhà thờ. Và 30 năm nay anh đă không cầu nguyện, không chịu phép ban thánh thể, và không đi nhà thờ nữa. Không phải bởi v́ anh chia sẻ những xác tín của người anh trai và sống theo chúng; cũng không phải bởi v́ anh  đă quyết định về cái này hay cái nọ trong chính tâm hồn ḿnh. Chỉ đơn giản là,  lời nhận xét của người anh, nó giống như cái thúc nhẹ của một ngón tay chạm vào bức tường sắp sụp xuống do cái trọng lượng của chính nó. Lời nhận xét của người anh trai đă chỉ ra cho anh thấy, rằng  cái nơi chốn mà anh nghĩ là đức tin đă có mặt, hóa ra nó đă từ lâu trống rỗng; do vậy, những lời anh nói, những dấu thánh giá mà anh làm, và sự cúi đầu khi cầu nguyện, th́ trong bản chất là những hành vi hoàn toàn vô nghĩa. Một khi đă thừa nhận sự vô nghĩa của những cử chỉ này, anh đă không thể nào tiếp tục chúng được nữa.

Nó đă xảy ra như thế, và tôi tin rằng nó sẽ tiếp tục xảy ra, với đại đa số người. Tôi đang nói đến những người cùng một loại trong chúng tôi, xét về mặt văn hóa và xă hội, những người trung thực với chính ḿnh, chứ  không phải là những người dùng đức tin như một phương tiện để đạt một mục tiêu tạm bợ nào đó.  (Những người này là những kẻ vô tín triệt để nhất; v́ nếu đức tin, theo quan điểm của họ, là một phương tiện để đạt tới một mục đích trần thế nào đó, th́ quả thật, đó chẳng phải là đức tin ǵ cả). Những người cùng loại với chúng tôi th́ ở trong một vị trí nơi mà ánh sáng của kiến thức và của cuộc sống đă phá sập cái cấu trúc giả tạo đó, và họ, hoặc là đă nhận ra điều này và đă bỏ nó lại đằng sau, hoặc là họ đă không c̣n ư thức đến nó nữa.

Những lời dạy của đức tin được truyền dần vào trong tôi  từ thời thơ ấu đă ĺa bỏ tôi, y như chúng đă ĺa bỏ những người khác; sự khác biệt duy nhất là, ngay từ rất sớm, từ khi tôi bắt đầu đọc sách và suy nghĩ nhiều, tôi đă sớm ư thức rằng tôi đă từ bỏ những lời dạy của đức tin. Từ tuổi 16, tôi đă bỏ cầu nguyện,  bỏ đi nhà thờ và bỏ ăn kiêng. [11] Tôi ngừng tin vào cái đă được truyền dần vào tôi từ tuổi thơ, thế nhưng tôi thật sự tin vào một cái ǵ đó, mặc dù tôi không thể nói đó là cái ǵ. Tôi thậm chí tin vào Thượng đế – hay đúng hơn, tôi không phủ nhận Thượng đế – nhưng tôi không thể nói đó là loại Thượng đế nào; tôi cũng không phủ nhận Chúa Kytô và những lời dạy của Ngài, nhưng tôi không thể nói là những lời dạy đó bao gồm những ǵ.

Bây giờ, khi nh́n lại thời gian đó, tôi thấy rơ rằng, trừ ra cái bản năng thú vật, th́ cái niềm tin mà đă tác động đến đời tôi, cái niềm tin đích thực duy nhất mà tôi đă có, là niềm tin vào sự hoàn hảo [12]. Nhưng lúc bấy giờ tôi đă không thể nói sự hoàn hảo đó bao gồm cái ǵ, hay mục đích của nó có thể là cái ǵ. Tôi cố đạt tới sự hoàn hảo về tri thức [13]; tôi học hỏi mọi thứ mà tôi có thể, mọi thứ mà cuộc sống đă cho tôi một cơ hội để học. Tôi cố hoàn thiện ư chí của ḿnh và tự đề ra những luật tắc cho chính ḿnh mà tôi nỗ lực tuân thủ. Tôi phấn đấu để đạt tới sự hoàn hảo về thể lực, bằng cách thực hành mọi bài tập thể dục nhằm phát triển sức mạnh và sự nhanh nhẹn, và bằng cách kinh qua tất cả những khó khăn vất vả nhằm chế ngự bản ngă qua sự chịu đựng và kiên nhẫn. Tôi xem mọi thứ này  là những cái phải làm để đạt tới sự hoàn hảo. Dĩ nhiên, mục đích ban đầu của mọi thứ này là nhằm đạt tới sự hoàn hảo về đạo đức, nhưng rồi điều này nhanh chóng được thay thế bằng một niềm tin vào sự hoàn hảo toàn diện, có nghĩa là, một ham muốn trở nên tốt hơn, không phải trong mắt của riêng tôi hay trong mắt Thượng đế, mà đúng hơn, là một ham muốn trở nên tốt hơn trong mắt của người khác. Và cái nỗ lực này – trở nên tốt hơn trong mắt người khác – th́ nhanh chóng được thay thế bằng một hoài vọng trở nên mạnh mẽ hơn những người khác, có nghĩa là, được nổi tiếng nhiều hơn, quan trọng nhiều hơn, và giàu có hơn những người khác. [14]


 


[1] Một giáo phái của Kytô giáo. Vào thế kỉ thứ 11, xảy ra cuộc Ly giáo Đông - Tây năm 1054, phân chia thành Chính Thống giáo Đông phương và Công giáo Roma. (ĐTN).

[2] Vào ngày 12 tháng 4 năm 1847, Tolstoy xin thôi học đại học Kazan v́ những lư do sức khoẻ. Không lâu sau đó, ông trở lại trang viên của ḿnh tại Yasnaya Polyana, cách Maskơva 130 dặm.

[3] Vào 25 tháng 5 năm này, Bà của Tolstoy mất. Sự qua đời của bà gây cho ông nỗi hăi hùng và khiến cho ông rất đỗi quan tâm về sự chết nhiều tháng sau đó.

[4] Noah: ( Cựu ước). Tên một tộc trưởng. Để trừng phạt loài người, Đức Chúa Trời đă tạo ra cơn Đại hồng hủy, song Ngài ra lệnh cho  ông đóng một con thuyền lớn, nhờ vậy mà gia đ́nh ông và các loài thú khỏi bị tuyệt chủng. (ĐTN).

[5] David: ( Cựu ước): Vua của Israel, tác giả của Thánh vịnh (psalms). (ĐTN).

[6] Francois Marie Arouet de Voltaire ( 1694 – 17778): là một triết gia, nhà viết kịch, nhà viết tiểu luận, nhà thơ, nhà sử học và nhà châm biếm của Pháp. Là một trung tâm tranh căi suốt đời ông, Voltaire trở thành phát ngôn viên cho những ư tưởng duy lư, chống giai cấp tăng lữ của Thời đại Ánh sáng.

[7] Đây là một thực tế, vốn xảy ra trong tất cả tôn giáo có tổ chức, và không có ngoại lệ! ( ĐTN).

[8] Catechism.

[9] Certificate.

[10] Holy communion.

[11] Như vậy, Tolstoy từ bỏ đức tin rất sớm. ( ĐTN).

[12] Perfection.

[13] Intellectual perfection.

[14] Niềm “ hoài vọng” này đă dẫn Tolstoy đi lạc đường rồi! ( ĐTN).

 

 

trang đỗ tư nghĩa

chân trần

art2all.net