CONFESSION

Lev Tolstoy

 

TỰ THÚ

Bản dịch: Đỗ Tư Nghĩa

 

1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11   12   13   14   15   16

 

~~ooOoo~~

 

CHƯƠNG X 

   

Tôi hiểu điều này, nhưng nó không khiến cho t́nh h́nh dễ chịu với tôi hơn tí nào.

Bây giờ tôi đă chuẩn bị để chấp nhận bất cứ đức tin nào, bao lâu mà nó không đ̣i hỏi tôi phải phủ nhận lư tính một cách trực tiếp,  bởi v́ một sự phủ nhận như thế sẽ là một lời nói dối. Do vậy, tôi nghiên cứu những kinh điển của đạo Phật và của đạo Hồi; và hơn bao giờ cả, những kinh điển của Kytô giáo và cuộc đời của những người Kytô giáo sống xung quanh tôi.

Một cách tự nhiên, trước hết tôi quay sang những tín đồ từ giai cấp của chính tôi – những người có học thức, những nhà thần học Chính thống giáo, những tu sĩ cao niên, những nhà thần học Chính thống cấp tiến, và ngay cả những người được gọi là những người Kytô giáo mới, [1] họ tin vào sự cứu rỗi qua đức tin vào sự chuộc tội. Tôi tóm lấy những tín đồ này và tra vấn họ về những ǵ mà họ tin và xem họ nh́n cái ư nghĩa của cuộc sống như thế nào.

Mặc dù cái sự kiện rằng, tôi làm mọi sự nhượng bộ có thể được và tránh mọi tranh biện, mặc dù vậy, tôi không thể chấp nhận cái đức tin của những người này. Tôi thấy rằng cái mà họ xem là đức tin, cái đó không giải thích ư nghĩa của cuộc sống mà chỉ làm cho nó tối tăm; và rằng, chính họ tự tuyên xưng[2] cái đức tin của họ không phải để trả lời cho câu hỏi về cuộc sống, là cái đă kéo tôi về với đức tin, mà v́ mục đích nào đó, xa lạ với tôi. Tôi nhớ cái cảm giác đau đớn của sự kinh hăi [3] khi tôi trở lại với nỗi tuyệt vọng nguyên khởi của tôi, theo sau niềm hy vọng mà tôi đă cảm nhận rất nhiều lần trong những quan hệ của tôi với những người này. Họ càng đặt những lời dạy của họ trước tôi, với những chi tiết ngày càng gia tăng, th́ tôi càng thấy rơ ràng hơn cái sai lầm của họ, cho đến khi tôi mất hết hy vọng về việc khám phá ra trong đức tin của họ bất cứ sự giải thích nào về ư nghĩa của cuộc đời.

Tôi không cảm thấy mất cảm t́nh quá nhiều bởi sự kiện rằng, trong việc tŕnh bày những niềm tin của họ, họ thường trộn lẫn những chân lư Kytô giáo – vốn hằng thân thiết với tôi – trộn chung với quá nhiều cái thừa thăi và phi lư. [4] Đúng hơn, tôi thấy rằng cuộc đời họ th́ rất giống với đời tôi, nhưng với một khác biệt độc nhất: họ không sống theo những nguyên lư mà họ tuyên bố là đă tin theo. Tôi cảm thấy rất mạnh mẽ rằng, họ đang tự đánh lừa chính ḿnh, [5] và rằng, giống như chính tôi, họ không có cảm thức nào về ư nghĩa của cuộc sống ngoài việc sống một cách vô tư,  và đặt hai bàn tay họ lên mọi thứ mà họ có thể. Điều này th́ rơ ràng với tôi, bởi v́ nếu họ đă mang giữ [6] bất cứ ư nghĩa nào – cái ư nghĩa mà sẽ có thể tiêu diệt tất cả nỗi sợ hăi về sự thiếu hụt, đau khổ và cái chết – th́ họ sẽ không khiếp sợ những thứ này. Nhưng mà những tín đồ này từ giai cấp của tôi, họ sống một cuộc sống sung túc,  y hệt như tôi; họ nỗ lực gia tăng và duy tŕ sự giàu có của họ và sợ sự thiếu hụt, đau khổ và sự chết. Giống như  chính tôi, và tất cả những người c̣n lại trong chúng tôi, những kẻ vô tín, họ sống chỉ để thoả măn những dục vọng của họ, sống một cách tồi tệ, y hệt như,  nếu không nói là tồi tệ hơn, những người không tín ngưỡng.

Không có sự biện minh [7] nào có thể thuyết phục tôi về cái chân lư của đức tin của họ, mặc dù một điều độc nhất có thể đă thuyết phục tôi: những hành động chứng tỏ rằng, những người này đă nắm giữ ch́a khóa để mở vào cái ư nghĩa của cuộc sống – cái ư nghĩa mà sẽ loại trừ trong họ nỗi sợ hăi về sự nghèo khó, bệnh tật, và cái chết, là những cái đă ám ảnh tôi. Nhưng tôi không thấy dấu vết nào của những hành động như thế giữa những tín đồ khác nhau trong giai cấp của tôi. Trái lại, tôi thấy những hành động như thế giữa những người thuộc giai cấp của chúng tôi, nhưng đó không phải là những tín đồ; và tôi không bao giờ t́m thấy những hành động như thế giữa những người mệnh danh là những tín đồ.

Như thế, tôi nhận thức rằng, đức tin của những người này không phải là cái đức tin mà tôi t́m kiếm;  rằng đức tin của họ không phải là đức tin ǵ cả, mà chỉ là một trong những sự thỏa măn theo chủ nghĩa Epicurus trong cuộc sống. Tôi nhận thức rằng,  mặc dù cái đức tin nơi những những người này có thể không mang đến niềm an ủi, nó có thể được dùng để xua tan nỗi hối hận của một Solomon trên giường chết của ḿnh; nhưng nó không có ích ǵ cho tuyệt đại đa số nhân loại, những người có mặt trên đời không phải để tự làm vui ḿnh trên lao động vất vả của người khác, mà để sáng tạo ra cuộc sống. Để cho tất cả nhân loại sống, duy tŕ sự sống và truyền dần vào nó cái ư nghĩa, th́ hằng triệu con người này, tất cả đều phải có một khái niệm khác, chân thực hơn về đức tin. Thật vậy, cái đă thuyết phục tôi về sự hiện hữu của đức tin, không phải là cái sự kiện rằng Solomon, Schopenhauer và tôi đă không tự vẫn; cái đă thuyết phục tôi, là sự kiện rằng hằng triệu người đă sống và vẫn tiếp tục sống, đang mang những Solomon và tôi trên những làn sóng của đời họ.[8]

Và tôi bắt đầu trở nên gần gũi hơn với những tín đồ trong số những người nghèo, những người mộc mạc, thiếu học thức, trong số những kẻ hành hương, những nhà tu, những Raskolnik[9], những nông dân. Tín ngưỡng [10] của họ, giống như tín ngưỡng của những tín đồ khoa trương và tự phụ [11] thuộc giai cấp của chúng tôi, là tín ngưỡng Kytô giáo. Ở đây cũng có nhiều sự mê tín xen lẫn với những chân lư của Kytô giáo, nhưng với sự khác biệt này: những mê tín của những tín đồ thuộc giai cấp của chúng tôi th́ hoàn toàn không cần thiết cho họ, không đóng vai tṛ nào trong đời họ, và chỉ là một loại tṛ tiêu khiển  của chủ nghĩa Epicurus, trong khi những mê tín nơi những tín đồ thuộc tầng lớp lao động th́ ḥa quyện với cuộc đời họ tới mức mà cuộc đời họ không thể quan niệm được nếu không có chúng: những mê tín của họ là một điều kiện cần thiết cho đời họ. Toàn bộ cuộc đời của những tín đồ từ giai cấp của chúng tôi th́ đi ngược lại, mâu thuẫn với đức tin của họ, trong khi toàn bộ cuộc đời của những tín đồ từ giai cấp lao động là một xác nhận ư nghĩa của cuộc sống, là cái bản chất [12] của đức tin của họ. Bởi vậy tôi bắt đầu xem xét cuộc sống và những lời dạy mà những người này tin theo, và càng nh́n kỹ, tôi càng xác tín rằng đức tin của họ là đức tin chân thực [13];  rằng đức tin của họ th́ cần thiết cho họ và rằng, chỉ đức tin này mới cung cấp cho họ ư nghĩa và khả tính của cuộc sống. Giữa những người thuộc giai cấp của chúng tôi – nơi mà người ta có thể sống được mà không cần đức tin – tôi thấy hiếm khi trong một ngàn người, có một người là tín đồ; trái lại, trong số những người thuộc quần chúng lao động, th́  trong một ngàn  người, hiếm khi có một người không phải là tín đồ. Trái với cái mà tôi thấy trong số những người thuộc giai cấp của chúng tôi – nơi mà một đời người qua đi trong sự nhàn rỗi, vui chơi, và bất măn với cuộc sống – những người dân mộc mạc này trải qua cuộc đời họ trong lao động vất vả và ít bất măn với cuộc đời hơn những kẻ giàu sang. Trái với những người thuộc giai cấp chúng tôi – những người kháng cự [14] và không vui với sự khó nhọc và đau khổ của số phận họ –  những người lao động b́nh dị này chịu đựng bệnh tật và khổ năo mà không nghi vấn hay kháng cự, một cách b́nh an, trong cái xác tín vững chắc rằng, điều này th́ như nó phải là, không thể khác được, và là tốt. Trái với sự kiện rằng, tri thức của chúng ta càng lớn, (th́) chúng ta càng ít hiểu ư nghĩa của cuộc sống và chúng ta càng thấy một loại tṛ đùa nào đó trong sự đau khổ và cái chết của chúng ta, những con người mộc mạc này sống, đau khổ, và đi gần tới cái chết một cách b́nh an, và, thông thường hơn, một cách hân hoan.

Một cái chết b́nh an – cái chết không kinh hăi và tuyệt vọng – là cái cái ngoại lệ hiếm hoi nhất trong giai cấp của chúng tôi; thường khi, đó là một cái chết bị ṿ xé, đầy kháng cự, và sầu muộn – nhưng đó lại là cái ngoại lệ hiếm hoi nhất giữa những con người mộc mạc này. Và, bị cướp hết mọi thứ mà đối với Solomon và tôi cấu thành cái tốt lành duy nhất trong cuộc sống,  thế nhưng họ lại là những kẻ tận hưởng cái hạnh phúc lớn nhất, [15] những người này, chính họ đă tạo thành cái đa số áp đảo của nhân loại. Tôi nh́n xa hơn nữa xung quanh chính tôi. Tôi xem xét những cuộc đời của khối quần chúng rộng lớn mà đă sống trong quá khứ và đang sống hôm nay. Trong số những người đă hiểu cái ư nghĩa của cuộc sống, biết cách sống và chết, tôi thấy không phải (chỉ có) 2  hay 3  hay 10 người, mà là hằng trăm, hằng ngàn, hằng triệu. Và tất cả họ, khác nhau một cách vô hạn trong phong tục, trí năng, giáo dục, và địa vị; và tương phản hoàn toàn với sự ngu dốt của tôi, họ biết ư nghĩa của cuộc sống và cái chết, [16] chịu đựng đau khổ và sự khó nhọc, sống và chết, và thấy trong điều này không phải là sự hư ảo mà là sự tốt lành.

Tôi trở nên yêu mến những con người này. Tôi càng học hỏi về cuộc đời của những người đang sống và chết mà về họ tôi đă đọc và nghe, tôi càng yêu mến họ và tôi càng trở nên dễ sống. Tôi đă sống cách này vào khoảng hai năm, và một sự chuyển hóa sâu sắc đến với tôi, một sự chuyển hóa mà đă và đang tích tụ trong tôi trong một thời gian dài, và những thành tố của nó đă luôn luôn là một phần của tôi. Cuộc sống của giai cấp chúng tôi, của những người giàu  có và những kẻ học thức, th́ không chỉ là khó chịu [17] với tôi, mà c̣n  mất hết mọi ư nghĩa. Tổng số những hành động của chúng tôi và tư duy của chúng tôi, của khoa học và nghệ thuật của chúng tôi, tất cả những thứ đó gây cho tôi ấn tượng rằng đó là sự bê tha, được nuông chiều quá mức [18] của một đứa trẻ hư hỏng. Tôi nhận thức rằng, ư nghĩa cuộc đời th́ không thể được t́m thấy ở đây. Những hành động của nhân dân lao động, của những người sáng tạo ra cuộc đời, bắt đầu hiện ra với tôi như là con đường độc nhất chân thực. Tôi nhận thức rằng, cái ư nghĩa được cung cấp bởi một cuộc sống như thế này mới đúng là chân lư, và tôi ôm choàng lấy nó.

 


 


[1] The New  Christians.

[2] Profess.

[3] Horror.

[4] Không riêng ǵ Kytô giáo, mà tất cả mọi tôn giáo “ có tổ chức” trên thế giới, đều như vậy: bên cạnh phần tinh hoa của chúng, luôn kèm theo những mê tín, những… rác rưởi ! ( ĐTN).

[5] Đúng ! Tuy nhiên, có kẻ biết ḿnh tự đánh lừa ḿnh, nhưng vẫn không thề làm khác đi. Cũng có kẻ tự đánh lừa ḿnh mà không biết! ( ĐTN).

[6] Harbour.

[7] Rationalization.

[8] Carrying the Solomons and me on the waves of their lives.

[9] Raskonik là những “kẻ ly khai”, tách khỏi Giáo hội Chính thống Nga. Là những thành viên của bất cứ một nhóm nào trong số dăm bảy nhóm, bao gồm những người Doukhobor, và những người Khysty, họ nổi lên như là hậu quả của sự ly giáo của thế kỷ 17, chống lại những cải cách về nghi thức tế lễ; đôi khi họ được nói tới như là những “Old Believers [ Cựu tín đồ].”

[10] Their beliefs.

[11] Pretentious.

[12] Substance.

[13] True faith.

[14] Resist.

[15] Chúng ta có thể đặt câu hỏi: Một đức tin kiểu đó, liệu có thể mang lại hạnh phúc đích thực hay không? ( ĐTN).

[16] Họ có thực sự “ biết ư nghĩa của cuộc sống” hay không? Đáng ngờ lắm! ( ĐTN).

[17] Repulsive.

[18] Overindulgence.

 

 

 

 

trang đỗ tư nghĩa

chân trần

art2all.net